Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Rèn luyện kĩ năng viết mở bài trong bài văn nghị luận xã hội cho học viên trung tâm GDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.55 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRUNG TÂM GDTX THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG VIẾT MỞ BÀI TRONG
BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC VIÊN
TRUNG TÂM GDTX

Người thực hiện: Phạm Thị Hạnh
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2017


MỤC LỤC
Mục lục
I. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
1.4. Phương pháp nghiên cứu
II. Nội dung sang kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế khi viết phần mở bài.
2.2.2 Nguyên nhân dẫn đến hạn chế khi viết mở bài văn nghị luận xã hội.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết


vấn đề
2.3.1 Mở bài trực tiếp
2.3.2 Mở bài gián tiếp
2.3.3 Mở bài theo hướng phản đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo

2
3
3
3
3
3
4
4
4
5
6
7
7
8
10
10
12
12
12

14

2


I. Mở đầu
1.1 Lí do chọn đề tài:
Trong các kỳ thi Tốt nghiệp THPT Quốc Gia , câu hỏi nghị luận xã hội có
một vị trí hết sức quan trọng. Câu hỏi nghị luận xã hội vừa là cơ sở để đánh giá
chất lượng của đề thi, vừa là câu hỏi chiếm tỉ lệ điểm tương đối cao (từ 3 đến 4
điểm trong thang điểm 10) góp phần làm nên thành công của bài thi. Trong đề
thi môn Ngữ văn, câu hỏi nghị luận xã hội là phần mà thí sinh thích , bởi nó
không bị gò bó, luôn đem đến sự mới mẻ và cũng là phần đề thi dễ “kiếm điểm”.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều học sinh rất ngại và lười rèn luyện kỹ năng viết bài,
nên khi làm bài văn nghị luận xã hội, thường lúng túng và mắc nhiều lỗi. Điều
này tất yếu dẫn đến kết quả các bài làm văn điểm không đạt được như mong
muốn.
Để làm nên một bài văn nghị luận xã hội thành công cần phải đạt được
nhiều yêu cầu. Trong đó, mở bài vừa đúng, vừa hay là yêu cầu đầu tiên và cũng
có ý nghĩa nhất. Bởi vì, mở bài không chỉ có một vị trí quan trọng trong cả bài
viết mà còn là phần khó khăn nhất của học sinh. Không phải ngẫu nhiên mà
Macxim Gorki đã từng kết luận: “Khó hơn cả là phần mở đầu, cụ thể là câu đầu,
cũng như trong âm nhạc, nó chi phối giọng điệu của tác phẩm và người ta
thường tìm nó rất lâu”.
Hiện nay có nhiều bài viết, sách mẫu, sách hướng dẫn về cách làm bài văn
nghị luận xã hội, tuy nhiên không có một tài liệu nào tập trung tháo gỡ khó khăn
của học sinh khi viết mở bài. Học sinh khi viết mở bài văn nghị luận xã hội luôn
chiếm nhiều thời gian, mắc phải nhiều lỗi về diễn dạt và trình bày. Trong thời
gian dạy học làm văn nghị luận xã hội, tôi nhận thấy giáo viên cần phải hình
thành kỹ năng làm mở bài cho học sinh. Khi học sinh thành thạo kỹ năng chắc

chắn sẽ viết được mở bài tốt hơn, hay hơn, hấp dẫn hơn.
Với mong muốn nâng cao hiệu quả dạy học phần nghị luận xã hội nói
riêng và dạy học Ngữ văn nói chung khiến tôi trăn trở, suy ngẫm, tìm tòi để đưa
ra một hướng dạy học giúp học viên Trung tâm GDTX Thường Xuân nâng cao
hiệu quả khi làm văn nghị luận xã hội,đạt kết quả tốt trong kỳ thi tốt nghiệp
PTTH Quốc Gia. Đó cũng chính là những lý do để tôi lựa chọn đề tài: “Rèn
luyện kỹ năng viết mở bài trong văn nghị luận xã hội cho học viên Trung tâm
GDTX ”
1.2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Rèn luyện kỹ năng viết mở bài trong văn nghị luận xã hội cho học viên
Trung tâm GDTX Thường Xuân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đề tài này nhằm hướng dẫn học viên lớp 12 của Trung tâm GDTX
Thường Xuân rèn luyện nâng cao kĩ năng viết mở bài trong bài văn nghị luận xã
hội.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành làm đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu bổ trợ.
3


+ Thao giảng, dự giờ, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá trình
dạy.
+ Áp dụng kinh nghiệm, phương pháp mới trên lớp học.
+ Đánh giá kết quả ban đầu và điều chỉnh bổ sung.
+ Kiểm tra đánh giá cuối cùng và hoàn chỉnh công việc.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Mục tiêu dạy học không chỉ giúp học viên nắm được nội dung kiến thức
mà phải hình thành cho học viên kỹ năng vận dụng vào thực tiễn với những

dạng bài tập cụ thể. Việc vận dụng đòi hỏi phù hợp với yêu cầu của từng dạng
đề, phù hợp với tính chất của kỳ thi.
Nghị luận xã hội thực chất là đưa ra những dẫn chứng, lí lẽ để bàn luận,
đánh giá về một vấn đề xã hội thông qua hệ thống luận điểm. Những câu hỏi
nghị luận xã hội trong đề thi giúp học viên có cơ hội thể hiện đầy đủ quan niệm,
suy nghĩ, nhận thức của học viên về một vấn đề xã hội. Trong những kỳ thi tốt
nghiệpTHPT Quốc Gia gần đây, dạng đề văn nghị luận xã hội ngày càng khó
hơn, đa dạng hơn. Đề thi mang tính tổng hợp chứ không còn tách biệt giữa nghị
luận về một hiện tượng đời sống và nghị luận về một tư tưởng đạo lý. Câu hỏi
nghị luận xã hội hết sức đa dạng. Khi làm bài phải phụ thuộc vào cách nhìn nhận
của học viên về những vấn đề xã hội. Trước một vấn đề, mỗi học viên có thể có
cách tiếp cận không giống nhau. Vì thế, việc dẫn dắt của học viên vào vấn đề
cũng khác nhau.
Trong bài làm văn nghị luận xã hội, phần mở bài có vai trò hết sức quan
trọng góp phần làm nên thành công cho cả bài văn. Phần mở bài vừa làm cơ sở
cho phần thân bài, vừa tạo tâm thế, gợi cảm hứng cho người đọc. Phần mở bài
phải đạt những yêu cầu nêu được vấn đề một cách ngắn gọn, định hướng cách
giải quyết vấn đề đặt ra của đề bài. Tuy nhiên, trong thang điểm, phần mở bài
nhiều khi không đưa vào đáp án nhưng trong quá trình chấm, mở bài đảm bảo
yêu cầu đúng, đủ, hay sẽ đạt điểm số nhất định. Để một mở bài hay, hấp dẫn
người đọc, đòi hỏi mở bài phải có tính sáng tạo. Mỗi dạng đề văn nghị luận xã
hội thường có những cách mở bài phù hợp. Từ yêu cầu, tính chất của kỳ thi tốt
nghiệp sẽ đòi hỏi học viên cách mở bài tương ứng.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trong phân phối chương trình Ngữ văn hiện nay, phần làm văn nghị luận
xã hội chỉ được sắp xếp với một thời lượng tương đối ít . Chỉ trong vài tiết học,
giáo viên không đủ thời gian để hướng dẫn cho nhiều đối tượng học viên một
cách đầy đủ, chi tiết. Học viên cũng không có nhiều thời gian để rèn luyện kỹ
năng làm bài qua việc vận dụng vào những bài tập cụ thể.
Hiện nay, khi dạy học, phần lớn giáo viên ít chú ý đến việc rèn luyện kỹ

năng viết mở bài của học viên. Chính vì thế, khi viết mở bài học viên thường
lúng túng, thiếu kỹ năng cho nên những bài làm văn nghị luận xã hội ít khi đem
đến sự mới mẻ, sáng tạo thậm chí trở nên nhàm chán cho người đọc. Trong các
4


kỳ thi tốt nghiệp, khi làm bài nghị luận xã hội học viên thường lúng túng chọn
cách mở bài dẫn đến mất nhiều thời gian để viết mở bài (thực tế nhiều học viên
phải mất từ 15 đến 20 phút mới có thể viết được phẩn mở bài). Điều này cho
thấy, học viên vừa thiếu kỹ năng phân tích đề, tìm hiểu đề vừa không có kỹ năng
diễn đạt, trình bày bài viết, trước hết là kỹ năng viết phần mở bài. Để một mở
bài hay, học viên cần được trang bị kiến thức và kỹ năng viết được nhiều cách
mở bài khác nhau.
Đề văn nghị luận xã hội có nhiều hình thức khác nhau. Chính vì thế, các
kiểu mở bài cũng hết sức đa dạng. Tuy nhiên, trong thực tế, mở bài của đề văn
xã hội đều theo những yêu cầu nhất định. Hiện nay, đa số học viên lựa chọn cách
mở bài trực tiếp. Cách mở bài này đơn giản, dễ vận dụng nhưng học viên mắc
nhiều lỗi cơ bản. Thực ra, với đề văn nghị luận xã hội có thể mở bài theo nhiều
cách khác nhau. Mỗi cách sẽ đáp ứng yêu cầu nhất định về tính chất của kỳ thi,
đồng thời mỗi học viên sẽ có những khả năng riêng khi lựa chọn mở bài.
2.2.1 Thực trạng và nguyên nhân của những hạn chế khi viết phần
mở bài.
- Thực trạng viết mở bài văn nghị luận xã hội cho học viên:
Đề văn nghị luận xã hội đem đến một sự thay đổi lớn trong cách nhìn
nhận, trong quá trình đổi mới dạy học Ngữ văn. Những bài làm văn nghị luận xã
hội hay của học sinh đã góp phần tạo nên những làn sóng dư luận tích cực về đổi
mới dạy học Ngữ văn trong đời sống. Nhiều bài văn nghị luận xã hội cho ta thấy
được cách nhìn, cách nghĩ mới mẻ với nhiều sáng tạo trong phần mở bài. Trên
các phương tiện thông tin đại chúng, những bài viết hay với cách mở bài sáng
tạo đã kích thích hứng thú cho học sinh.

Trái lại, thực tế của nhiều năm dạy học tại Trung tâm GDTX Thường
Xuân, tôi nhận thấy, phần mở bài trong bài làm văn nghị luận xã hội của học
viên còn tồn tại rất nhiều hạn chế. Nhiều học viên không biết mở bài. Thực ra,
trong quá trình học, học viên phần lớn chưa chú ý mở bài sao cho đúng, cho
hay. Một số lỗi thường gặp của học viên khi viết mở bài cho đề văn nghị luận xã
hội:
+ Nhiều học viên làm bài không có mở bài, không giới thiệu yêu cầu đề.
Hay nói chính xác hơn, học viên không xác định được bố cục bài viết nên làm
bài không phân biệt được mở bài hay thân bài. Vì vậy, học viên làm bài là trực
tiếp giải quyết vấn đề mà thiếu phần đặt vấn đề. Nhiều học viên chép lại y
nguyên yêu cầu đề để thay cho phần mở bài.
+ Mở bài không nêu đúng vấn đề đặt ra trong đề bài. Khi thiếu kỹ năng
làm bài văn nghị luận xã hội, học viên sẽ không biết phân tích đề, xác định trọng
tâm yêu cầu đề. Chính vì vậy, mở bài không giới thiệu được yêu cầu đề. Nếu mở
bài không giới thiệu được yêu cầu sẽ không đảm bảo yêu cầu của phần mở bài
đồng thời khi viết bài sẽ diễn đạt lan man, thiếu luận điểm để làm rõ vấn đề đạt
ra.
+ Mở bài dài dòng, không nêu được giới hạn phạm vi vấn đề cần nghị
luận. Viết mở bài dài dòng sẽ khiến mất thời gian, cạn kiệt ý tưởng cho phần
5


thân bài. Mở bài dài dòng sẽ gây nhàm chán cho người đọc đồng thời có thể dẫn
đến xa đề, lạc đề ở phần thân bài.
+ Mở bài bằng việc dẫn dắt ngôn từ sáo rỗng, gượng ép. Khi học viên
không hiểu yêu cầu của đề bài, không phân tích đề ra thường “bịa ra” mở bài để
dẫn dắt vấn đề. Điều này sẽ gây cho người đọc cảm giác mơ hồ, khó chịu về sự
giả tạo.
2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế khi viết mở bài văn nghị luận xã
hội.

Những hạn chế của học viên khi viết mở bài cho bài văn nghị luận xã hội
xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau:
a. Nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu của phần mở bài:
Mở bài là phần khó nhất trong bài văn nghị luận xã hội. Học viên viết
được một mở bài đạt yêu cầu không chỉ giới thiệu được vấn đề mà còn phải làm
tiền đề cho phần thân bài, tạo tâm thế tiếp nhận cho người đọc đồng thời phải có
tính sáng tạo, mới mẻ để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Viết được mở bài đồng
nghĩa với học viên nhận thức được yêu cầu đề, biết cách phân tích đề ra và có
định hướng viết thân bài và kết bài. Vì vậy, mở bài là phần đầu của bài làm văn
nghị luận xã hội nhưng mở bài cũng chi phối đến các yếu tố khác trong quá trình
làm bài văn nghị luận xã hội.
b. Nguyên nhân xuất phát từ học viên:
Đây là nguyên nhân chủ yếu và căn bản nhất dẫn đến những hạn chế của
học viên khi viết phần mở bài:
- Học viên không nắm vững lý thuyết làm bài văn nghị luận xã hội. Trước
hết là lý thuyết viết mở bài. Trong quá trình học, kiến thức viết mở bài cho bài
văn nghị luận xã hội không tách riêng trong một bài học cụ thể. Trong chương
trình Ngữ văn THCS, học lý thuyết Viết mở bài và kết bài cho bài văn nghị luận.
Trong chương trình Ngữ văn THPT học bài thực hành: Rèn luyện viết mở bài,
kết bài trong văn nghị luận (trong chương trình Ngữ văn lớp 12). Chính vì thế,
đa số học viên không nắm vững kiến thức lý thuyết. Khi vào phòng thi, học viên
cứ đặt bút viết theo cảm tính, nghĩ gì viết nấy, không chịu để ý đề yêu cầu nghị
luận cái gì, cứ viết chung chung, tràn lan, linh tinh, không có chọn lọc. Cho nên
mở bài rồi chuyển xuống thân bài chưa nêu ra được vấn đề đề yêu cầu nghị luận.
Những mở bài như vậy sẽ trở nên mơ hồ, dễ lạc đề, lệch đề, xa trọng tâm yêu
cầu đề, thậm chí là lan man, lạc đề.
- Khi làm bài thi, học viên có thói quen không thực hiện thao tác phân tích
đề. Không phân tích đề, dẫn đến nhiều mở bài không xác định đúng yêu cầu của
đề, không xác định được phạm vi đề đặt ra. Việc không phân tích đề làm cho bài
viết của học viên vừa hệ thống luận điểm không rõ ràng, không chặt chẽ vừa làm

cho mở bài lan man. Phân tích đề là bước đầu tiên của việc làm bài văn nghị
luận nhưng đồng thời đó cũng là bước hết sức quan trọng để có thể viết được
một mở bài hay. Không tiến hành thao tác phân tích đề, dẫn đến học viên trong
quá trình làm bài nghĩ đến đâu, viết đến đó. Đây là nguyên nhân đa số học viên
gặp phải.
6


- Bên cạnh đó còn có nguyên nhân: học viên không chịu khó rèn luyện
trong quá trình học. Chính điều này làm cho học viên không thành thạo khi viết
mở bài. Học viên phần lớn không có ý thức tự mày mò, tìm kiếm. Chính vì vậy,
để ôn thi học viên phải học thuộc cách viết của giáo viên hoặc viết theo các bài
văn mẫu của sách tham khảo.
c. Nguyên nhân xuất phát từ giáo viên:
Hạn chế trong viết mở bài cho đề văn Nghị luận xã hội còn xuất phát từ
phương pháp dạy học của giáo viên: Trong quá trình dạy học, giáo viên tập trung
hướng dẫn học viên phân tích đề, lập dàn ý, xây dựng hệ thống luận điểm. Giáo
viên không dành thời gian hình thành kỹ năng viết mở bài cho học viên. Bên
cạnh đó, một số giáo viên hiện nay lại chủ yếu tập trung vào việc cung cấp kiến
thức về mặt lý thuyết, ít chú ý rèn luyện kỹ năng thực hành. Vì vậy, một tiết học
trên lớp, học viên ít có cơ hội rèn luyện kỹ năng viết mở bài của mình.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề.
Một bài văn nghị luận xã hội hay cần nhiều kỹ năng, song mở bài là một
kỹ năng quan trọng cho thấy người viết đã xác định đúng và trúng vấn đề, tạo
tâm thế cho người đọc tiếp nhận bài viết. Mục đích của phần mở bài là giới thiệu
và dẫn dắt vào vấn đề nghị luận. Đó cũng là hai bước không thể thiếu ở phần mở
bài. Mở bài cho đề văn nghị luận có rất nhiều cách khác nhau, văn nghị luận xã
hội việc lựa chọn cách viết mở bài càng đa dạng. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
đã từng khẳng định: “Các cách mở bài khác nhau chủ yếu ở phần dẫn dắt. Phần

nêu vấn đề và phần giới hạn vấn đề thường không thay đổi, viết mở bài theo
kiểu gì thì ai cũng phải nêu được phần này. Nói gọn lại, cứ thay đổi phần dẫn dắt
ta sẽ có một mở bài mới”. Trong đề tài này, xuất phát từ kinh nghiệm và kết quả
dạy học, tôi lựa chọn 3 cách mở bài cơ bản, dễ dàng vận dụng vào dạy học với
nhiều đối tượng học viên khác nhau của Trung tâm GDTX. Đó là: Mở bài trực
tiếp, mở bài gián tiếp và mở bài theo hướng phản đề. Mỗi cách mở bài đều có
những ưu điểm và hạn chế tùy thuộc vào khả năng vận dụng và yêu cầu đề để
vận dụng.
2.3.1. Mở bài trực tiếp:
a. Mở bài trực tiếp:
Mở bài trực tiếp là cách mở bài đi thẳng vào vấn đề mà yêu cầu của đề đặt
ra. Cách mở bài này không yêu cầu cao đối với học viên. Đây là dạng mở bài
tương đối dễ. Học viên cũng dễ vận dụng vào quá trình làm bài của mình. Ngay
cả đối tượng là những học viên trung bình cũng dễ dàng vận dụng hướng mở bài
trực tiếp.
Mở bài trực tiếp là cách mở bài được học viên lựa chọn nhiều. Mở bài
theo hướng trực tiếp thường ngắn gọn, dễ dẫn dắt vào yêu cầu đề. Học viên có
thể trực tiếp giới thiệu vấn đề nghị luận. Cách mở bài này sẽ không bị xa đề, lạc
đề. Mặt khác, mở bài trực tiếp sẽ không bị mất nhiều thời gian. Mở bài trực tiếp
có thể hạn chế tính sáng tạo, không tạo được hứng thú mới mẻ cho người đọc.
Tuy nhiên, trước khi hướng dẫn học viên viết bài theo những cách khác, giáo
7


viên cần rèn luyện học viên thành thạo cách viết mở bài theo hướng trực tiếp.
Cách viết mở bài theo hướng trực tiếp là tiền đề cho những cách viết mở
bài khác với những yêu cầu cao hơn, khó hơn.
b. Hướng dẫn học viên cách viết mở bài trực tiếp:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề. Đây là thao tác quan trong nhất trong
việc phân tích đề. Yêu cầu đề thường nằm ở phần giới hạn của đề. Trọng tâm đề

có vai trò then chốt đối với cách mở bài trực tiếp.
+ Từ yêu cầu trọng tâm của đề, học viên phải đưa ra được những hiểu
biết, đánh giá của mình về những ảnh hưởng, tầm quan trọng của vấn đề đặt ra.
+ Cuối cùng, dẫn dắt vào yêu cầu đề. Với cách mở bài trực tiếp, thì có thể
đưa ra nhận định của mình về vấn đề ngay từ phần mở bài. Tuy nhiên, dẫn dắt
phải ngắn gọn.
c. Bài tập vận dụng:
Ví dụ 1: Đề số 1:
Khi bàn về lối sống thực dụng, có ý kiến cho rằng: “sống thực dụng sẽ
làm cho con người ta ngày càng trở nên toan tính, ti tiện, coi trọng giá trị vật
chất hơn mọi giá trị khác trong cuộc sống”. Ý kiến khác lại khẳng định:“Không
phải lối sống thực dụng lúc nào cũng xấu. Nếu sống trong môi trường toàn
những người thực dụng mà bản thân không như thế thì cuối cùng cũng sẽ bị đào
thải thôi”.
Anh(chị) hãy viết bài văn ngắn (khoảng 300 từ) trình bày suy nghĩ của
mình về hai ý kiến trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Lối sống thực dụng.
+ Ảnh hưởng, tầm quan trọng của vấn đề đặt ra: phổ biện trong cuộc sống
hiện nay, để lại những hậu quả nghiêm trọng.
+ Đưa ra nhận định về vấn đề để dẫn dắt vào yêu cầu đề.
Viết mở bài :
Thực dụng đang là một lối sống phổ biến trong xã hội hiện nay. Lối sống
thực dụng gây nên những ảnh hưởng không nhỏ đến những giá trị truyền thống
tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, khi bàn về lối sống thực dụng, lại có những quan
điểm trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng: “sống thực dụng sẽ làm cho con
người ta ngày càng trở nên toan tính, ti tiện, coi trọng giá trị vật chất hơn mọi
giá trị khác trong cuộc sống”. Ý kiến khác lại khẳng định: “Không phải lối
sống thực dụng lúc nào cũng xấu. Nếu sống trong môi trường toàn những người
thực dụng mà bản thân không như thế thì cuối cùng cũng sẽ bị đào thải thôi”.

(Trích từ bài làm của học sinh).
2.3.2. Mở bài gián tiếp:
a. Mở bài gián tiếp:
Mở bài gián tiếp là cách người viết đi từ vấn đề khác có liên quan để bắc
cầu giới thiệu vấn đề nghị luận. Khi mở bài gián tiếp thường bắt đầu bằng cách
trích dẫn một ý kiến, một câu chuyện, lối sống, cách ứng xử,... làm cơ sở đề dẫn
dắt vào yêu cầu của đề đặt ra.
8


Mở bài gián tiếp tạo cho bài viết có chất văn chương, sáng tạo hơn, đem
đến những sáng tạo mới mẻ, bất ngờ cho người đọc. Tuy nhiên, cách mở bài
gián tiếp với những học sinh không thành thạo kỹ năng sẽ rất dễ lan man, dài
dòng, sa đà vào vấn đề khác dẫn đến xa đề hoặc lạc đề. Học viên không chủ
động khi viết thì mở bài có thể sẽ trích dẫn vòng vo, dài dòng, mất thời gian. Do
vậy cần đọc thật kĩ đề bài, gạch chân những từ ngữ quan trọng để xác định cho
trúng vấn đề nghị luận.
b. Hướng dẫn học viên cách viết mở bài gián tiếp:
Để mở bài gián tiếp, khi dạy học giáo viên cần hình thành các cho học
viên những kỹ năng qua các bước sau:
+ Đọc phân tích yêu cầu đề. Từ đặt ra yêu cầu bàn luận về vấn đề gì của
của sống: Cách sống, cách ứng xử, thái độ sống, quan niệm sống,....
+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến, cách ứng xử... để
dẫn dắt, khẳng định vấn đề. Khi lựa chọn cần phải đặt nó trong mối quan hệ
tương đồng , gần gũi về mặt ý nghĩa.
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề. Dẫn dắt cần bộc lộ cách
đánh giá của người viết về những thông tin mình đưa ra.
c. Bài tập vận dụng:
Ví dụ 2: Đề số 2:
“Con người bình đẳng, không phải sự sinh ra mà đức hạnh mới tạo nên sự

khác biệt (Voltaire)
Hãy viết một bài văn ngắn (khoảng 300 từ) trình bày suy nghĩ của anh
(chị) về ý kiến trên.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định trọng tâm yêu cầu đề: Vai trò của đức hạnh làm nên sự khác biệt của
con người
+ Lựa chọn một câu chuyện, một thông tin, một ý kiến,...: câu chuyện về Nick con người giàu nghị lực và khát vọng để làm nên điều kỳ diệu của cuộc sống
+ Dẫn dắt vào yêu cầu đề để giới thiệu vấn đề.
Viết mở bài:
Nếu ai đã từng gục ngã sau những lần thất bại, nếu ai đã từng nghĩ rằng
cuộc đời không công bằng khi mình luôn gặp phải những khó khăn, thử thách.
Nhưng nếu một lần được nghe Nick Vujicic diễn giả ta sẽ hiểu ra rằng cuộc đời
luôn bình đẳng với mọi người. Nick trở thành con người kỳ diệu nhất thế giới
bởi anh có một cơ thể khiếm khuyết nhưng lại có một trái tim lành lạnh. Với
Nick, điều quan trọng nhất là đứng bao giờ từ bỏ khát vọng, hãy luôn yêu
thương và biết tha thứ với mọi người.. Nick đã đến với con người bằng tất cả trái
tim, bởi với anh: “tôi không có tay để chạm vào tay của người khác nhưng tôi có
trái tim để chạm vào trái tim của người khác”. Trái tim của Nick đã thắp lên
ngọn lửa khát vọng cho bao nhiêu con người vượt lên số phận. Từ nghị lực phi
thường của mình, từ trái tim quả cảm của Nick ta nhận ra rằng: “Con người
bình đẳng, không phải sự sinh ra mà đức hạnh mới tạo nên sự khác biệt”
(Voltaire) (Trích từ bài làm của học sinh)
9


2.3.3. Mở bài theo hướng phản đề:
a. Mở bài theo hướng phản đề:
Mở bài theo hướng phản đề hay còn gọi là mở bài theo hướng biện luận
phản bác từ vấn đề trái ngược. Mở bài phản đề thực chất cũng là một hình thức
của mở bài gián tiếp. Tuy nhiên, mở bài phản đề lại xuất phát từ những sự việc,

cách ứng xử trái ngược với vấn đề đặt ra. Từ đó mới lập luận để dẫn dắt vào yêu
cầu đề.
Cách mở bài này đòi hỏi tính sáng tạo cao. Mở bài theo hướng phản đề lôi
cuốn, hấp dẫn, gợi sự tò mò cho người đọc. Mở bài theo hướng phản đề là sự
phát triển cao hơn của cách mở bài gián tiếp. Vì vậy, khi làm mở bài theo hướng
phản đề yêu cầu học viên phải nắm vững hình thức mở bài gián tiếp Cách mở
bài này, ngay từ đầu học viên có thể bộc lộ rõ quan điểm, cách đánh giá của
mình về vấn đề đặt ra. Tuy nhiên, mở bài này thường khó, nếu học viên không
nắm vững vấn đề đặt ra sẽ dễ dẫn đến mở bài lan man, xa yêu cầu đề.
b. Hướng dẫn học viên cách viết mở bài theo hướng phản đề:
+ Xác định yêu cầu của đề bài. Mở bài theo hướng phản đề cũng cần thiết phải
xác định yêu cầu đề. Việc xác định đúng yêu cầu đề giúp học viên lựa chọn
những câu chuyện, sự việc, cách ứng xử trái ngược.
+ Lựa chọn vấn đề đối lập hoặc trái ngược: Trong cuộc sống luôn tồn tại hai mặt
trái ngược nhau. Để đánh giá đúng sai, phải trái, tốt xấu phải xuất phát từ cách
nhìn nhận của mỗi người..
+ Lập luận để đặt lại vấn đề theo yêu cầu đề ra. Sau khi đưa ra vấn đề trái
ngược, học sinh phải đưa ra nhận định của mình, thái dộ, cách nhìn của mình về
vấn đề của đề ra.
c. Bài tập vận dụng:
Ví dụ 3: Đề số 3
Hãy viết bài văn trình bày quan điểm của anh (chị) về bản chất của thành
công.
Các bước tiến hành viết mở bài:
+ Xác định yêu cầu của đề bài: Quan điểm về thành công.
+ Lựa chọn vấn đề đối lập hoặc trái ngược, khẳng định vấn đề đó trong
cuộc sống: Sự hoàn hảo trong công việc, thành đạt để có cuộc sống giàu sang,...
+ Lập luận để đặt lại vấn đề theo yêu cầu đề ra.
Viết mở bài :
Đã bao giờ bạn tự hỏi thành công là gì mà bao kẻ bỏ cả cuộc đời mình

theo đuổi? Phải chăng đó là kết quả hoàn hảo trong công việc, sự chính xác đến
từng chi tiết? Hay đó là cách nói khác của từ thành đạt, nghĩa là có được một
cuộc sống giàu sang, được mọi người nể phục? Vậy thì bạn hãy dành chút thời
gian để lặng mình suy ngẫm. Cuộc sống sẽ chỉ cho bạn có những người đạt được
thành công theo một cách giản dị đến bất ngờ (Trích từ bài làm của học sinh).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
10


áp dụng những kinh nghiệm trên vào thực tế giảng dạy,
tôi nhận thấy học viờn đã có hứng thú hơn khi học tập môn Ngữ
văn. Tụi tin hnh dy hc th nghim 2 lp 12A v 12B ca khi 12 cú cht
lng ngang nhau.
- Vi lp 12A: khụng vn dng hng dn hc viờn cỏch vit m bi.
- Vi lp 12B: sau khi vn dng hng dn hc viờn cỏch vit m bi.
ỏnh giỏ kt qu dy hc th nghim, tụi s dng kim tra cho thi
gian lm bi 15 phỳt nh sau:
Vớ d 3: s 3
Hóy vit phn m bi cho bi sau:
Cú ý kin cho rng: Gii tr hin nay sng thc dng, ch chy
theo nhng giỏ tr vt cht m b quờn nhng giỏ tr tinh thn.
T ý kin trờn, anh/ch hóy by t quan im ca mỡnh v li sng thc
dng trong gii tr hin nay.
Kt qu thu c:
Gii
Lp

S s


12A
12B

35
37

S
lng
0
2

Khỏ
%
0
5,4

S
lng
5
13

%
14,3
35,1

Trung bỡnh
S
%
lng
22

62,8
21
56,8

Yu
S
lng
8
1

%
22,9
2,7

Nhn xột:
Qua i chiu vi cỏc s liu trờn õy cú th thy rng kt qu kim tra
ca 2 lp 12A v 12B ó cú s chờnh lch khỏ ln v cht lng. iu ny cú
th khng nh cỏc gii phỏp rốn luyn cỏch vit m bi trong bi vn ngh lun
xó hi m tụi xut trong ti ny thc s mang li hiu qu.
Sau khi vn dng hng dn hc viờn cỏch vit m bi, tụi nhn thy mt
s hc viờn hc yu, khụng nm vng k nng lm bi cng ó dn tng bc
ci thin cht lng hc tp mụn Ng vn ca mỡnh. iu ú c th hin qua
s tham gia tớch cc ca hc viờn vo cỏc hot ng trong gi hc, qua kt qu
ca bi kim tra.Tuy nhiờn kt qu ny cũn ớt nhiu hn ch, ú l hc viờn lm
bi t im ti a cũn quỏ ớt, vn cũn mt s hc viờn ri vo trng hp thp
im. Tt nhiờn t im ti a v b im thp cũn ph thuc nhiu yu t
khỏc.

11



III. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Để nâng cao hiệu quả bài làm văn nghị luận xã hội phải kết hợp nhiều yếu
tố khác nhau, từ xây dựng hệ thống luận điểm, lựa chọn dẫn chứng, sử dụng các
thao tác lập luận, viết các đoạn văn,... trong đó một mở bài hay, hấp dẫn có một
vai trò hết sức quan trọng. Có nhiều cách khác nhau để viết mở bài. Mỗi cách
mở bài đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định. Lựa chọn cách mở bài phù
hợp sẽ góp phần không nhỏ đến thành công của cả bài viết.
Một mở bài cho đề văn nghị luận xã hội đáp ứng được tiêu chí: đúng - đủ
- hay là đã không dễ dàng, dạy học để hình thành kỹ năng cho học sinh lại càng
khó khăn hơn. Trong 3 cách trên đều là những cách mở bài cơ bản nhất có thể
vận dụng vào dạy học cho nhiều đối tượng học viên khác nhau, đáp ứng được
những yêu cầu khác nhau của mỗi kỳ thi. Mỗi cách mở bài đều có những ưu
điểm, hạn chế và yêu cầu riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Để viết
được mở bài gián tiếp hay, học viên phải nắm vững cách mở bài trực tiếp; để
viết được mở bài theo hướng phản đề có tính sáng tạo cao thì học viên phải biết
cách viết mở bài theo hướng gián tiếp. Từ mở bài trực tiếp đến mở bài gián tiếp,
đến mở bài theo hướng phản đề đều có sự tăng dần về độ khó, về tính sáng tạo.
Vì vậy, giáo viên phải tùy thuộc vào đối tượng học viên, tính chất kỳ thi để lựa
chọn dạy học và rèn luyện cách mở bài phù hợp nhất.
3.2. Kiến nghị
Việc lựa chọn cách mở bài trong dạy học, giáo viên phải nắm được đặc
điểm của đối tượng học viên, tính chất kỳ thi để mang lại hiệu quả cao nhất. Để
học viên có thể viết được một bài văn nghị luận xã hội hay, sáng tạo, cần kết hợp
hình thành các kỹ năng khác cho học sinh như xây dựng luận điểm, sử dụng dẫn
chứng, rút ra bài học,...
Việc sử dụng các dạng mở bài khác nhau trong quá trình dạy học cho học
viên cần phải linh hoạt, điều quan trọng là từ kỹ năng học viên đã có được, các
em có thể sáng tạo ra những mở bài hay, những cách mở bài mới. Không nên gò

bó khả năng sáng tạo của học viên.
Trong quá trình dạy học các tiết làm văn, giáo viên không chỉ hình thành
cho học viên kỹ năng viết phần mở bài của đề văn nghị luận xã hội mà còn cần
thiết cả kỹ năng mở bài cho đề văn nghị luận văn học. Với thời lượng dạy học
trên lớp, giáo viên sẽ không có thời gian để hướng dẫn và hình thành kỹ năng
viết phần mở bài cho học viên. Vì vậy, dạy học cách viết mở bài phải được vận
dụng thường xuyên trong thời gian dạy ôn thi tốt nghiệp, dạy học bài luyện tập
về thao tác luận,... đặc biệt là ở tiết trả bài.
Trước một vấn đề tưởng rằng “Biết rồi, khổ lắm nói mãi!” nhưng vào thực
tế dạy học lại gặp rất nhiều khó khăn. Trên đây là những trăn trở và tâm huyết
của bản thân trong thực tiễn dạy học nhưng chắc chắn sẽ còn nhiều hạn chế
mong được trao đổi cùng đồng nghiệp.
12


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày.... tháng ... năm...
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Phạm Thị Hạnh

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 12, tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục năm 2008.

2. Sách giáo viên Ngữ văn 12, tập 1, tập 2 – NXB Giáo dục năm 2008.
3. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng Ngữ văn 12 – NXB Giáo dục
Việt Nam năm 2011.
4. Muốn viết được bài văn hay – Nguyễn Đăng Mạnh – NXB Giáo dục năm
1995.
5. Rèn luyện kĩ năng nghị luận – Bảo Quyến – NXB Giáo dục năm 2003.
6. Dạy Văn ở trường phổ thông – Nguyễn Thị Thanh Hương – NXB ĐHQG Hà
Nội năm 2001.

14


DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN CỦA CÁ NHÂN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
CẤP PHÒNG GD&ĐT, SỞ GD&ĐT ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
STT

Hội đồng

Tên SKKN

đánh giá

Tiếp cận và giảng dạy trích
1

2

3

đoạn “Trao duyên” (Trích

Truyện Kiều – Nguyễn Du)

huyện Thường

thi tốt nghiệp lớp 12 phần

huyện Thường

làm Văn nghị luận xã hội.
Một số kinh nghiệm trong

Xuân

công tác chủ nhiệm lớp 12

Sở GD&ĐT



Thanh Hóa

GDTX

2008 – 2009

C

2010 – 2011

C


2013 – 2014

C

Xuân
Phòng GD&ĐT

tâm

Xếp loại

Phòng GD&ĐT

theo cái nhìn thời gian.
Kinh nghiệm hướng dẫn ôn

Trung

Năm học

Thường Xuân

15



×