Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

VAI TRÒ của GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG và xã hội TRONG VIỆC GIÚP đỡ học SINH KHUYẾT tật vươn lên học tốt ở TRƯỜNG THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 18 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG THPT YÊN ĐỊNH 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG VÀ XÃ HỘI
TRONG VIỆC GIÚP ĐỠ HỌC SINH KHUYẾT TẬT VƯƠN
LÊN HỌC TỐT Ở TRƯỜNG THPT.

Người thực hiện: Trịnh Thị Liễu
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực: Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ NĂM 2018


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU................................................................................................................................3
1. 1. Lý do chọn đề tài:...........................................................................................................3
1. 2. Mục đích nghiên cứu:.....................................................................................................5
1. 3. Đối tượng nghiên cứu:....................................................................................................5
1. 4. Phương pháp nghiên cứu:..............................................................................................5
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM..........................................................................6
2. 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:......................................................................6
2. 1. 1. Nhà trường kết hợp gia đình và làng xã:.................................................................6
2. 1. 2. Nhà trường kết hợp với cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội:........................7
2. 1. 3. Để góp phần giúp đỡ học sinh khuyết tật, con hộ nghèo theo học:........................7
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.........................................7
2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:.............................................................8
2. 3. 1. Hoàn cảnh gia đình:..............................................................................................10


2. 3. 2. Đặc điểm học sinh:................................................................................................10
2. 3. 3. Những nỗ lực vượt khó của gia đình và bản thân học sinh:.................................10
2. 3. 4. Sự quan tâm, giúp đỡ của nhà trường, xã hội và bạn bè đối với em:....................11
2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:...............................12
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ....................................................................................................14
3. 1. Kết luận:........................................................................................................................15
3. 2. Kiến nghị:......................................................................................................................15

2


1. MỞ ĐẦU
1. 1. Lý do chọn đề tài:
Trong điều kiện hiện nay đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội - thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục tiêu:
Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, hay trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến 2020 có nêu: phát triển và nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học
và công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và lợi thế
cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội
ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa
học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa
tầng của khoa học và công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành
nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao
động, cơ sở đào tạo và nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã
hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với
các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát triển, bồi dưỡng, phát
huy nhân tài; Đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.

Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng
giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực
hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã
hội...[1]. Và đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định: Quan tâm hơn tới phát
triển giáo dục, đào tạo ở vùng xâu, vùng xã, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng
xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và
gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học
sinh khuyết tật....[2]
Trong khi nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang nền kinh tế tri thức,
hòa chung vào nhịp thở ấy Đảng, nhà nước và nhân dân ta luôn quan tâm đến
vấn đề giáo dục và đào tạo, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Ở
mỗi cấp độ chúng ta lại có cái nhìn riêng, có chính sách riêng, cụ thể cho từng
loại đối tượng học sinh. Vậy đối với các em khuyết tật thuộc diện gia đình nghèo
khó thì chúng ta – các lực lượng giáo dục cần phải làm gì để giúp đỡ các em hòa
nhập cộng đồng, vươn lên trong học tập.
Nền kinh tế của nước nhà hiện nay là nền kinh tế thị trường, ngoài những
Mục 1.1. tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 1 . số 2 .

3


mặt có tác động tích cực ra thì vẫn còn những mặt hạn chế có tác động không tốt
đến việc hình thành nhân cách của các em.
Ví dụ: - Về phía gia đình: Các gia đình làm kinh tế giỏi, thiếu quan tâm đến đời
sống tình cảm của con cái, các em xin được nhiều tiền thì dễ tham gia vào các

băng, nhóm, tụ tập, hội hè, ăn chơi đàn đúm. Còn các gia đình nghèo khó thì lại
khuyên con, em nghỉ học ở nhà làm kinh tế; Cha mẹ có vấn đề, rạn nứt tình cảm
dẫn đến con cái chán nản, bỏ học...
- Về phía xã hội: Còn nhiều tệ nạn xã hội, chưa tạo được các sân chơi bổ
ích, chưa có đủ hệ thống cơ sở vật chất, phương tiện học tập đáp ứng được nhu
cầu phát triển ngày càng cao của các em; Các loại tệ nạn xã hội đang lan tràn,
xâm nhập vào trong phạm vi trường học (đây là môi trường được cho là lành
mạnh nhất); Các tổ chức xã hội còn chưa chú trọng nhiều tới vấn đề quan tâm,
giúp đỡ các em là học sinh khuyết tật, có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
- Về phía nhà trường: Đâu phải giáo viên nào cũng yêu ngành, yêu nghề,
yêu học sinh. Có số ít giáo viên rất có ác cảm với những học sinh cá biệt, đánh
nhau, bỏ học, thậm chí cả những học sinh khuyết tật, con nhà nghèo nữa, tại
sao? Là nhà giáo dục thì những việc làm thiết thực nhất đó là truyền thụ cho các
em những tri thức về đạo đức, pháp luật...( bộ môn GDCD) để các em từ đó mà
phát triển nhân cách của mình. Giáo viên phải gần gũi, tiếp cận học sinh cá biệt,
nhằm tìm hiểu tâm, sinh lý cá nhân và hoàn cảnh gia đình để có được giải pháp
tối ưu nhằm giúp các em vươn lên học tốt.
- Đối với bạn bè: Còn có những học sinh tỏ ra khinh rẻ sự nghèo khó, chế
giễu, đùa cợt với những học sinh khuyết tật, có hoàn cảnh khó khăn. Những học
sinh này thấy mình bị thầy cô coi khinh, bạn bè chế giễu... thì rất dễ dẫn đến
quyết định là bỏ học và sau khi bỏ học rồi thì các em rất dễ bị lôi kéo vào các tệ
nạn xã hội...
Giả thiết đặt ra: Nếu không có sự quan tâm, giúp đỡ thì các em là học sinh
khuyết tật, có hoàn cảnh khó khăn có tự mình vươn lên học tốt được hay không?
Theo tôi ngoài yếu tố nội lực từ bản thân học sinh, nếu nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ một cách thiết thực, nhiệt tình của gia đình, nhà trường và xã hội thì các
em sẽ cảm thấy mình đang được quan tâm, giúp đỡ, các em sẽ lấy đó làm nguồn
động viên, khích lệ. Đó cũng là một phần động lực thúc đẩy các em cố gắng
vươn lên trên sự khuyết tật, nghèo khó để dành lại cho mình những kết quả cao
đáng khích lệ trong học tập và rèn luyện.

Vậy với đối tượng các em là học sinh khuyết tật thì chúng ta phải làm gì
để giúp các em hòa nhập cộng đồng, vươn lên trong học tập? Chúng ta - những
nhà giáo dục cần phải thấy được tầm quan trọng của gia đình, nhà trường và xã
hội trong việc giúp đỡ học sinh khuyết tật hòa nhập cộng đồng, vươn lên trong
học tập. Bởi bên cạnh yếu tố nội lực - sự cố gắng của học sinh là chủ yếu thì yếu
tố môi trường, điều kiện khách quan để các em phát triển nhân cách lại giữ vai
trò quan trọng, quyết định đến việc hình thành nhân cách của các em .
Để việc phối, kết hợp ba môi trường giáo dục giữa gia đình, nhà trường và
xã hội và ba lực lượng giáo dục là gia đình, nhà trường và xã hội có được hiệu
4


quả ngày càng cao đặc biệt là trong việc giúp đỡ học sinh khuyết tật hòa nhập
cộng đồng, vươn lên trong học tập. Đây còn là vấn đề đang thu hút sự quan tâm
của các lực lượng giáo dục. Trước những mặt tích cực và những hạn chế còn
vướng mắc khiến tôi chọn đề tài này làm nội dung cho bài sáng kiến kinh
nghiệm của mình.
Qua số liệu đã thu thập và kết quả điều tra cho tôi thấy cần phải đi sâu
nghiên cứu vào đối tượng cụ thể và với phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm tôi
chỉ có thể tìm hiểu được một đối tượng. ( tôi sẽ trình bày ở phần sau)
1. 2. Mục đích nghiên cứu:
Với khuôn khổ một đề tài, mục đích của sáng kiến kinh nghiệm này là:
Thứ nhất: Chính sách của Đảng, Nhà nước về vai trò của gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục học sinh.
Thứ hai: Tìm hiểu vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc
giúp đỡ học sinh khuyết tật hòa nhập cộng đồng, vươn lên trong học tập ở địa
bàn huyện Yên Định.
Thứ ba: Trên cơ sở lý luận chung và cụ thể của Yên Định, chúng ta đi sâu
nghiên cứu thực trạng của sự phối, kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
trong việc giúp đỡ học sinh khuyết tật vươn lên học tốt ở trường THPT trên địa

bàn và các giải pháp tích cực.
1. 3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh trường THPT Yên Định II, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
1. 4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của bài sáng kiến kinh nghiệm gồm những
phương pháp sau: phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin,
phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

5


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2. 1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Để phối kết hợp tốt mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội,
phương châm của tôi là: Xây dựng mối quan hệ tốt, nghiêm túc, trong sáng, tôn
trọng và tin cậy lẫn nhau, trên cơ sở mối tương quan chặt chẽ giữa hai lực lượng
quyết định và quan trọng với cha mẹ học sinh. Phát huy và tận dụng vai trò của
ban đại diện cha mẹ học sinh, chủ động góp ý với cha mẹ học sinh trong phương
pháp giáo dục và giúp đỡ con em... ở đâu và trong bất kỳ vấn đề gì cũng đều
phải dành được sự nhất trí cao và toàn bộ của cha mẹ học sinh khi đề xuất hoặc
chấp nhận những biện pháp giáo dục, giúp đỡ nhằm tác động vào con em họ.
2. 1. 1. Nhà trường kết hợp gia đình và làng xã:
- Giáo viên chủ nhiệm cần phải báo cáo đầy đủ quá trình phấn đấu, rèn luyện
của từng em trong mỗi kỳ họp.
+ Kết quả về điểm số học tập của từng bài trong từng môn và nhận xét khái
quát về những kết quả đó so với thời gian trước .
+ Những biểu hiện phát triển về hành vi đạo đức .
+ Tuyên dương những học sinh có sự chuyển biến toàn diện hoặc từng mặt,
gặp riêng cha mẹ của những học sinh yếu kém để trao đổi.
- Giáo viên hướng dẫn cặn kẽ các yêu cầu và biện pháp quản lý các em, nhất

là các yêu cầu và biện pháp quản lý các em học tập ở nhà.
+ Yêu cầu mỗi góc học tập của các em phải có một thời khóa biểu học tập ở
lớp và một thời khóa biểu học tập hàng ngày ở nhà đã có chữ ký của giáo viên
chủ nhiệm lớp.
+ Dựa vào thời khóa biểu để kiểm tra và nhắc nhở sự chuẩn bị của các em
trước mỗi buổi đến lớp: Học bài, làm bài tập, sách vở, đồ dùng học tập...
- Tùy thời gian trong năm học mà gia đình cần phải có những sự quan tâm,
đôn đốc cụ thể:
* Đầu năm học cần phải tích cực học tập, tích lũy dần kiến thức tránh tình
trạng nước đến chân mới nhảy.
+ Nếu chăm học từ đầu sẽ hình thành ở các em thói quen và kiên nhẫn học,
khắc phục tình trạng quen chơi đến khi ngồi vào bàn học thì rất ngại, học không
vào thì không tập trung được.
+ Học từ đầu, điểm kiểm tra cao thì các em sẽ hứng thú học.
+ Kiến thức cơ bản nằm trong phần đầu năm học sẽ là kiến thức cơ bản của
cả năm học: Khái niệm, định luật, định lý...
* Mùa lạnh: Gia đình cần quan tâm đến sức khỏe và giờ giấc học tập của các
em.
+ Nhắc nhở các em giữ đủ ấm cho cơ thể.
+ Trời lạnh nhanh tối, các em thường có cảm giác đã khuya nên sẽ đi ngủ rất
sớm. Cha mẹ cần nhắc nhở về giờ giấc và tránh tình trạng các em nằm học hoặc
đắp chăn ngồi học.

6


* Thời kỳ nóng nực: Cha mẹ cần nhắc nhở các em mang mũ, nón khi ra
ngoài. Buổi tối nhắc các em học tập đúng giờ giấc tránh tình trạng thức quá
khuya sẽ ảnh hưởng đến tinh thần học tập ở lớp vào ngày hôm sau.
* Thời kỳ ôn tập: Vào mỗi thời điểm trước thời kỳ ôn tập – học nhiều, giáo

viên chủ nhiệm phải thông báo cho cha mẹ học sinh biết về sự cần thiết phải
tăng cường thời gian tự học ở nhà và những vất vả của các em trong kỳ thời ôn
tập. Giáo viên chủ nhiệm đề nghị cha mẹ học sinh một mặt nhắc nhở, động viên
các em tích cực học tập, mặt khác cần sắp xếp công việc của gia đình sao cho
các em có nhiều thời gian nhất để học tập và nghỉ ngơi. Các gia đình cần cố
gắng bồi dưỡng thêm vật chất cho các em để tăng sức khỏe cho thời kỳ học tập
nhiều này.
Gia đình cần phải tạo điều kiện về vật chất, tinh thần và thời gian cho các
em, giúp đỡ các em nhiều hơn nữa để các em đủ khả năng vươn lên học tốt.
2. 1. 2. Nhà trường kết hợp với cha mẹ học sinh và các lực lượng xã
hội:
- Dựa vào ban đại diện cha mẹ học sinh để tìm hiểu điều kiện, hoàn cảnh của
học sinh, từ đó có giải pháp giúp đỡ.
- Thông qua ban chăm sóc và ban đại diện cha mẹ học sinh của lớp để uốn nắn
những biểu hiện chưa tốt của gia đình, từ đó gia đình sẽ tạo điều kiện cho các
em học tập: Thời gian, vật chất và tinh thần.
Tìm hiểu hoạt động của học sinh ở gia đình, ở làng xã để thấy được sự giúp đỡ
của gia đình và tổ chức làng xã đối với các em.
- Dựa vào các ban, các đoàn thể để quản lý và giáo dục các em ở nhà và ở làng,
xã.
Ngoài việc yêu cầu từng gia đình quản lý và nhắc nhở con em mình tu
dưỡng và học tập, giáo viên chủ nhiệm phải chú ý kết hợp với ban đại diện cha
mẹ học sinh và ban chăm sóc để kiểm tra, nhắc nhở và giúp đỡ các em. Nhà
trường kết hợp với làng, xã để tổ chức cho học sinh thi đua rèn luyện ở nhà và ở
làng, xã nhằm giúp các em thực hiện “học đi đôi với hành”, lấy kiến thức đã học
vận dụng vào cuộc sống. Từ đó giúp các em vững vàng hơn, làm chủ được kiến
thức cuả mình.
2. 1. 3. Để góp phần giúp đỡ học sinh khuyết tật vươn lên học tốt ở
trường THPT:
Các lực lượng giáo dục cần phối hợp đấu tranh với những người lớn thiếu

gương mẫu có ảnh hưởng không tốt đến hành vi đạo đức của các em. Xây dựng
những yếu tố giáo dục và ngăn chặn những ảnh hưởng xấu tới hành vi đạo đức
của các em. Cần phải hướng dẫn và giúp đỡ các em trong lúc tự học. Ngoài ra,
các lực lượng giáo dục cũng cần phải có sự phối hợp để giúp đỡ các em học sinh
khuyết tật về mặt tài chính, ngân sách, đây cũng là một việc làm hết sức cần
thiết đối với những học sinh khuyết tật.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn
cấp bách đối với việc giúp đỡ học sinh khuyết tật hòa nhập cộng đồng, vươn lên
7


trong học tập ở trường THPT trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đại hội XI của
Đảng đã quan tâm hơn đến giáo dục và đào tạo, đề cao vai trò của gia đình, nhà
trường và xã hội. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến
2020 có nêu: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao
chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục.
Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường
và xã hội...[1]. Và đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định: Quan tâm hơn
tới phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng xâu, vùng xã, vùng khó khăn. Bảo đảm
công bằng xã hội trong giáo dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với
người và gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh
nghèo, học sinh khuyết tật....[2]
2. 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Qua điều tra trên 1214 học sinh học tại trường THPT Yên Định II cho

thấy:
- Số các em học sinh thuộc hộ nghèo, cận nghèo là: 284 học sinh. [3]
- Số học sinh khuyết tật là: 11 học sinh. [3]
- Số học sinh được các tổ chức xã hội giúp đỡ bằng các loại quỹ hỗ trợ, khuyến
học, học bổng là: 13 học sinh. [4]
- Số học sinh nhận được ngân sách của nhà trường thông qua quỹ khuyến học là:
1031 học sinh.( Đây là số học sinh giỏi và học sinh tiên tiến của năm học 20172018). [4]
- Số học sinh khuyết tật nhận được ngân sách hỗ trợ của nhà nước là: 11 học
sinh. [3]
- Số học sinh khuyết tật được các tổ chức xã hội giúp đỡ thông qua các loại
quỹ hỗ trợ, khuyến học, học bỗng là: 02 học sinh. [5]
Cụ thể qua số liệu tổng hợp được trong phạm vi trường THPT Yên Định
II có tới 284 / 1214 học sinh thuộc diện học sinh con hộ nghèo, cận nghèo và
trong đó có 11 học sinh khuyết tật. Trong đó có 81 / 284 học sinh (HS nghèo) và
có 11/11 học sinh (HS khuyết tật) đã được nhà trường xét trợ cấp khó khăn
thường xuyên vào dịp tết Mậu Tuất [6]. Có 13 / 284 học sinh và 02 / 11 học sinh
nhận được sự giúp đỡ của các tổ chức xã hội thông qua các xuất học bổng, quỹ
hỗ trợ...[4]
Từ những việc làm thiết thực trên. Sự phối, kết hợp giữa ba lực lượng
giáo dục đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho các em tham gia học tập một
cách đầy đủ hơn, chăm chỉ hơn, tiến bộ hơn, đặc biệt là đối với các em học sinh
Mục 2.2. tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 1 . số 2 .
Mục 2.3. tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 3. số 4 . số 5. số 6.

8


khuyết tật đã và đang cố gắng vươn lên học tốt ở trường THPT. Ví dụ học sinh:
Lê Hữu Cương – học sinh lớp 12A7 Trường THPT Yên Định II mà tôi sẽ giới
thiệu trong bài viết của mình.

Bên cạnh những thành quả đã đạt được như vậy thì vẫn còn những mặt
hạn chế có tác động không tốt đến việc học tập và rèn luyện đạo đức của các em.
Về phía xã hội vẫn tồn tại nhiều loại tệ nạn xã hội đang xâm nhập vào lứa
tuổi học sinh, lan tràn vào môi trường lành mạnh ( trường học ). Xã hội chưa tạo
ra được các sân chơi lành mạnh, bổ ích, hoặc về cơ sở vật chất, phương tiện học
tập chưa đủ để đáp ứng nhu cầu hiểu biết ngày càng cao của các em. Và còn
nhiều tổ chức chưa thực sự quan tâm giúp đỡ các em học sinh khuyết tật.
Về phía gia đình, thì vẫn còn những gia đình chỉ lo phát triển kinh tế mà
sao nhãng việc kiểm tra, đôn đốc con cái học tập. Chưa quan tâm đầy đủ cả về
vật chất lẫn tinh thần của con em mình. Có những gia đình giàu có thì sẵn sàng
cho con tiền mỗi khi con xin chứ không biết con xin để làm gì. Hoặc lại có
những gia đình nghèo, khó không cho con tiền nộp học mà luôn mong chờ sự
miễn, giảm của nhà trường. Gia đình thiếu quan tâm, chưa đôn đốc, giúp đỡ các
em học tập, chưa dành thời gian cần thiết cho các em tự học ở nhà ... Và cũng
qua điều tra mà tôi nắm được thực trạng hiện nay. Trước thực trạng như thế, tôi
nhận thấy một điều rằng: Việc “ phối, kết hợp giữa ba lực lượng giáo dục là: gia
đình, nhà trường và xã hội” chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Vậy để thực hiện tốt mục tiêu giáo dục thì tôi thấy cần phải có các giải
pháp cụ thể:
- Một là, các lực lượng giáo dục phải phát huy hết vai trò của mình.
- Hai là, gia đình cần phải quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ các em về mọi mặt:
vật chất, tinh thần và thời gian.
- Ba là, các tổ chức xã hội cần phải gần gũi, quan tâm, giúp đỡ các em, đặc biệt
là phải tạo ra một số loại quỹ nhằm giúp đỡ, khuyến khích những học sinh là
người khuyết tật nhưng không quên nhiệm vụ học tập và rèn luyện ở trường
THPT.
- Bốn là, trong nhà trường đối với mỗi giáo viên chủ nhiệm cần phải tìm hiểu kỹ
về hoàn cảnh, tâm lý từng học sinh cụ thể để từ đó có những ưu tiên, ưu đãi đối
với những học sinh thuộc diện chính sách, những học sinh có hoàn cảnh khó
khăn luôn nỗ lực vượt lên trên cái gọi là khuyết tật để phấn đấu theo học đạt kết

quả ngày càng cao.
Bên cạnh sự nỗ lực vươn lên của các em, nếu sự phối, kết hợp giúp đỡ
giữa ba lực lượng giáo dục diễn ra một cách đúng đắn, nhịp nhàng và ăn khớp
như các bánh xe trong một cỗ máy thì các em sẽ yên tâm hơn trong quá trình học
tập và rèn luyện của mình.
Thực tế cho thấy, đối với các em thuộc diện chính sách hoặc các em là
những học sinh khuyết tật nếu mà nhận được sự khuyến khích, giúp đỡ về mọi
mặt thì có thể vượt lên trên mọi khó khăn, cản trở để vươn lên học tập tốt, rèn
luyện đạo đức tốt và phấn đấu trở thành người công dân vừa có đức lại vừa có
tài.
9


Và sau đây tôi xin được đi sâu nghiên cứu một đối tượng học sinh cụ thể
là em: Lê Hữu Cương, học sinh lớp 12A7, trường THPT Yên Định II.
2. 3. 1. Hoàn cảnh gia đình:
Em được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê hương mà nhiều thế hệ ông
cha đã sinh sống và cống hiến, đó là một làng quê có cuộc sống nghèo nàn và
lạc hậu. Người dân trong huyện vẫn gọi vùng đất này là “ Ven Sông Cầu Chày”.
Đó là xã Yên Lạc, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Nếu có dịp chúng ta hãy về
đây dù chỉ một lần thôi để thấu hiểu cái gọi là nghèo nàn và lạc hậu của vùng
quê này.
- Cha: Lê Hữu Cường
Tuổi: 45
Nghề nghiệp: làm ruộng
- Mẹ: Trương Thị Phương
Tuổi: 43
Nghề nghiệp: làm ruộng
- Em trai: Lê Hữu Xuân, sinh năm 2001, hiện là học sinh lớp 11B7 trường THPT
Yên Định II.

Thu nhập bình quân đầu người 450.000/ năm. Do vậy đời sống kinh tế của
gia đình là vô cùng khó khăn.
2. 3. 2. Đặc điểm học sinh:
Lê Hữu Cương là con đầu trong gia đình có hai anh em, Cương sinh ra và
lớn lên trong một gia đình có truyền thống hiếu học, em đã kế thừa được truyền
thống đó, mặc dù hoàn cảnh gia đình có khó khăn, bản thân là người khuyết tật
( khuyết tật trí tuệ, mức độ nặng) có ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, chất lượng
học tập và phát triển [7]. Và dù cho thời gian có eo hẹp, bệnh tật ( suy giảm trí
tuệ, viêm đa khớp) [8] có luôn cận kề nhưng em vẫn không nản lòng, em vẫn
luôn ý thức được việc học tập và ý chí vươn lên vượt qua bệnh tật và nghèo khó
của mình. Ngoài thời gian phụ giúp công việc gia đình, em dành toàn bộ thời
gian còn lại cho công việc học tập của mình.
2. 3. 3. Những nỗ lực vượt khó của gia đình và bản thân học sinh:
Gia đình thì nghèo, khó, con cái thì đứa nào cũng ham học, thấy con say
mê, ham học như vậy, bố mẹ em đã không quản khó khăn, nhọc nhằn, làm lụng
vất vả, dành dụm những đồng tiền thấm đẫm mồ hôi để lo cho con đi học. Gia
đình cũng đã có kế hoạch lao động riêng cho em. Bằng việc làm như vậy, gia
đình đã tạo điều kiện giúp đỡ em về thời gian, tinh thần và vật chất. Gia đình
luôn quan tâm, hỏi han những khó khăn của Cương để cùng tìm ra cách giải
quyết. Khi được hỏi, mẹ của Cương tâm sự: “ Chẳng dấu gì cô giáo, trước đây
kinh tế nhà tôi không lấy gì làm khá giả, chỉ tạm đủ nếu chắt bóp chi tiêu. Từ
nhỏ cháu Cương cứ ốm đau thường xuyên rồi thì bố của cháu Cương cũng vậy,
đang độ tuổi lao động đáng nhẽ phải là trụ cột gia đình, là lao động chính, đằng
này ông ấy ốm đau quanh năm chả mấy khi đi làm được như người ta, mọi việc
trong nhà đều do tôi lo liệu. Đúng là đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Nói
đến đây nước mắt bà nhòa đi trong tiếng nấc, bà tiếp: Thấy cháu Cương ốm đau
giật giẹo, gầy gò ốm yếu, thêm vào đó kinh tế gia đình lại khó khăn tôi nghĩ rằng
rồi đây nó phải nghĩ học mất. Thế rồi mỗi ngày nhìn các con mỗi lớn, rồi ông
Mục 2.3.2. tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 7 . số 8 .


10


trời cũng rũ lòng thương cho chúng sức khỏe, lòng ham học. Chúng rất ngoan,
bảo ban nhau làm lụng, học hành. Nói thật với cô, gia đình tôi nhận được sự cưu
mang, giúp đỡ của hàng xóm, láng giềng, rồi của các ban ngành, các cấp chính
quyền và đặc biệt là của nhà trường, thầy cô giáo và bạn bè của cháu. Cháu
Cương đi học được nhà nước hỗ trợ, được nhận quà từ một số loại quỹ của nhà
trường và của các tổ chức xã hội như: Nhà nước hỗ trợ 10.360.000 đ/ năm,
khoản hỗ trợ kinh phí học tập là 900.000/ năm. nhận trợ cấp khó khăn thường
xuyên và quà tết từ quỹ Hội chữ thập đỏ của nhà trường. Nhờ có sự quan tâm,
giúp đỡ của nhà trường, của thầy cô giáo và của các tổ chức xã hội mà cháu có
ngày hôm nay. Tôi hy vọng rằng tới đây cháu học hết lớp 12 rồi cho cháu học
một nghề mà cháu thích. Được vậy thì tôi mãn nguyện lắm.”
Đối với Cương, ngoài giờ học trên lớp em đã phụ giúp mẹ rất nhiều công
việc gia đình. Em làm cẩn thận, chu đáo những công việc của mình, thời gian
còn lại em dành cho việc học của mình, em luôn có một mơ ước đó là phấn đấu
học thật tốt để khỏi phụ lòng cha mẹ, thầy cô và bạn bè. Từ những hoạt động
hàng ngày em đang dần biến ước mơ đó thành hiện thực. Cũng như những người
bình thường khác, mỗi buổi sáng thức dậy em phải nấu cám lợn, quét dọn nhà
cửa rồi mới đi học, trưa về lại tất tưởi nấu cơm, nấu cám. Dẫu là con trai nhưng
buổi trưa nào em cũng giúp mẹ làm những việc không tên ở nhà, những chiều
nào phải đi học thì em đi học, còn lại em dành thời gian cho công việc: đồng,
ruộng, chăn nuôi. Sau bữa cơm thì cũng đã quá 20 giờ, dọn dẹp song em mới
ngồi vào bàn học. Vì có định hướng cho việc học của mình nên em học một cách
say sưa, dẫu là học sinh khuyết tật, học không giỏi, không phải bài tập nào em
cũng có thể làm được, nhưng không phải vì thế mà em bỏ bê bài vở. Em luôn cố
gắng làm hết những bài có thể, còn lại thì em tìm đến bạn bè, thầy cô nhờ chỉ
cho cách giải.
2. 3. 4. Sự quan tâm, giúp đỡ của nhà trường, xã hội và bạn bè đối với

em:
Nhà trường đã tìm hiểu cụ thể về hoàn cảnh của em, từ đó đã khuyến
khích giúp đỡ em học tập bằng cách cho em nhận một xuất trợ cấp thường xuyên
và quà tết từ quỹ Hội chữ thập đỏ của nhà trường ...Nhà trường còn có chính
sách ưu tiên riêng đối với những học sinh có hoàn cảnh tương tự.
Các tổ chức xã hội thì cũng cắt cử cán bộ thường xuyên gần gũi, khuyên
bảo em và bên cạnh mặt tinh thần thì các tổ chức cũng đã giúp đỡ Cương phần
nào về mặt vật chất ( năm học 2016- 2017).
Đối với bạn bè thì Cương luôn là người bạn gương mẫu trong học hành,
công việc. Bạn bè đã giúp đỡ Cương về thời gian, sách vở và luôn quan tâm,
động viên Cương tiến bộ.

11


2. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:
Từ sự nổ lực vượt khó của bản thân và gia đình cùng với sự giúp đỡ nhiệt
tình của nhà trường, xã hội, bạn bè, Cương đã không ngừng cố gắng vươn lên
trong học tập.
Kết quả:
Điểm/
môn
Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12

Toán




5.1
5.0
6.5

5.2
6.1
6.8

Lớp
Học lực
Hạnh kiểm

Hóa Sinh CN Văn Sử Địa Anh GD
CD
4.4 5.4 7.0 4.6 5.1 5.8 4.5 5.1
5.1 5.3 7.3 5.7 5.4 5.6 5.2 6.2
5.9 6.7 7.2 5.7 7.0 6.8 6.0 7.0
10
TB
Khá

11
TB
Tốt

Tin TD GD
QP
6.1 Đ 4.6
5.1 Đ 5.7
7.7 Đ 7.6


12
Khá
Tốt

Mặc dù kết quả trên không cao, nhưng với em Lê Hữu Cương, với điều
kiện bản thân và gia đình em thì đó là kết quả của cả một quá trình nỗ lực, cố
gắng của gia đình mà đặc biệt là ý chí nỗ lực, phấn đấu vượt qua khuyết tật của
bản thân em. Kết quả đó không dễ gì mà ai trong hoàn cảnh đó cũng đạt được.
Và hiện nay em vẫn mang trong mình một ước mơ là sẽ học một nghề mà
em thích. Bằng sự nỗ lực phối, kết hợp và giúp đỡ của ba lực lượng giáo dục:
Gia đình, nhà trường và xã hội, em sẽ sớm trở thành người có ích cho xã hội,
cho tương lai.

12


Học sinh Lê Hữu Cương ( nhân vật trong bài viết) thứ 01 từ bên phải sang,
Trong buổi nhận quà của CLUB EXCITER Yên Định, năm học 2016-2017.

13


Học sinh Lê Hữu Cương ( nhân vật trong bài viết) thứ 04 từ bên trái sang.
Năm học: 2016- 2017.

14


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

3. 1. Kết luận:
Qua phần nghiên cứu cụ thể về một đối tượng học sinh khuyết tật vươn
lên học tốt của lớp 12A7, trường THPT Yên Định II, Yên Định, Thanh Hóa, tôi
thêm một lần nữa khẳng định được vai trò của gia đình, nhà trường và xã hội
trong việc quan tâm, giúp đỡ học sinh khuyết tật vươn lên học tốt ở trường
THPT. Sự quan tâm, giúp đỡ đó cũng chính là sự cần thiết, không thể thiếu đối
với bất kỳ một học sinh nào, vì đó là nguồn động viên, khích lệ đáng kể góp
phần vào việc khuyến khích các em tham gia học tập có kết quả ngày càng cao,
kể cả những học sinh con nhà khá giả, hoặc những học sinh có chỉ số thông
minh (IQ) cao...
Nhận rõ điều đó, chúng ta những nhà giáo dục cần phải phát huy tốt vai
trò của sự phối, kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc tạo điều
kiện, giúp đỡ học sinh và đặc biệt là sự quan tâm, giúp đỡ học sinh khuyết tật
hòa nhập cộng đồng, vươn lên trong học tập để chất lượng nguồn nhân lực của
đất nước ngày càng được nâng cao, nhằm đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đã đặt ra
trong đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Tôi tin tưởng rằng mối quan hệ giữa
ba lực lượng giáo dục ( gia đình, nhà trường và xã hội) ngày càng chặt chẽ như
trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2011 đến 2020 có nêu: Phát
triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế,
trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi
trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả
năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất
lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành
mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.[1].Và đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII xác định: Quan tâm hơn tới phát triển giáo dục, đào
tạo ở vùng xâu, vùng xã, vùng khó khăn. Bảo đảm công bằng xã hội trong giáo
dục; thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và gia đình có công,
đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh khuyết tật....

[2]
3. 2. Kiến nghị:
Qua thực tế cho thấy các tổ chức xã hội chưa quan tâm nhiều đến đối
tượng học sinh khuyết tật. Vì vậy tôi kiến nghị với nhà trường và các tổ chức xã
hội cần quan tâm, tạo điều kiện nhiều hơn nữa để giúp đỡ học sinh khuyết tật
vươn lên học tốt ở trường THPT.
Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, viết sáng kiến kinh nghiệm, bản
thân tôi đã nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường
THPT Yên Định II và đội ngũ cán bộ, giáo viên trong nhà trường. Bên cạnh đó
Mục 3.1. tác giả tham khảo nguyên văn từ TLTK số 1 . số 2 .

15


tôi còn nhận được sự nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ của các bậc cha mẹ học sinh,
các tổ chức xã hội như: Hội phụ nữ; Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh;
Ban đại diện cha mẹ học sinh ở địa bàn huyện Yên Định đã giúp đỡ tôi hoàn
thành nhiệm vụ.
Tôi mong muốn được lắng nghe, được tiếp thu những ý kiến nhận xét,
góp ý quý báu của quý thầy, cô giáo và đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 16 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Tác giả


TRỊNH THỊ LIỄU

TÀI LIỆU THAM KHẢO
16


1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.

Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.
Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XII.
Hồ sơ học sinh trường THPT Yên Định II, năm học: 2017- 2018
Hồ sơ của Hội khuyến học trường THPT Yên Định II, năm học: 20172018 .
Hồ sơ của Đoàn trường THPT Yên Định II năm học: 2017- 2018.
Hồ sơ của Hội Chữ thập đỏ trường THPT Yên Định II năm học: 20172018.
Giấy xác nhận khuyết tật số hiệu 38394154420100 của UBND xã Yên
Lạc ngày 20 tháng 3 năm 2015.
Giấy chứng nhận sức khỏe của BVĐK huyện Yên Định cấp cho Lê Hữu
Cương ngày 09 tháng 9 năm 2013.

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG KHOA HỌC
NGÀNH ĐÁNH GIÁ TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
17



TT
1

2

Cấp đánh giá Kết
quả Năm học đánh
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh
giá giá xếp loại
xếp loại
Sử dụng tài liệu Hồ Chí Sở GD&ĐT C
2008- 2009
Minh vào dạy học môn
GDCD lớp 10 phần thứ
nhất: Công dân với việc
hình thành thế giới quan –
phương pháp luận khoa
học.
Vai trò của gia đình, nhà Sở GD&ĐT C
2010- 2011
trường và xã hội trong
việc giúp đỡ học sinh
nghèo vươn lên học tốt.

18




×