Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO dục học SINH cá BIỆT lớp 12b4 TRƯỜNG THPT TRIỆU sơn 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (732.01 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRIỆU SƠN 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT LỚP 12B4
TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 4

Người thực hiện: Lê Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Công tác chủ nhiệm

THANH HOÁ, NĂM 2019


MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm
1.2. Một số biểu hiện về mặt hành vi của HSCB
1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục HSCB
2. Thực trạng của vấn đề.


3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
3.1. Tìm hiểu tình hình HS cá biệt của lớp chủ nhiệm
3.2. Giáo dục bằng tâm lí
3.3. Giáo dục bằng tập thể lớp
3.4. Phối hợp với các giáo viên bộ môn
3.5. Phối hợp với các ban nghành đoàn thể trong trường
3.6. Phối hợp với phụ huynh học sinh
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG NHẬN

Trang
1
1
1
2
2
2
2
2
2
2
3
5
5
6
10

10
12
14
14
16
16
16
18
19


I. Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã xác định sự nghiệp trồng người không chỉ là
sự nghiệp của toàn nhân loại nói chung mà còn là của toàn Đảng và toàn dân ta
nói riêng. “Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn
diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc” [1]. Như Bác đã nói “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần
nhiều do giáo dục mà nên” [2]. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về
đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lí tưởng, động cơ, thái độ,
thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội.
Ở các cở sở giáo dục, các trường học, các cấp học, giáo viên chủ nhiệm
(GVCN) có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách, đạo đức,
tác phong, lối sống cho học sinh (HS). Để thực hiện được công việc này, GVCN
cần phải có những kiến thức cơ bản về tâm lí học, giáo dục học cũng như cần có
hàng loạt các kĩ năng mềm trong sư phạm như: kĩ năng tiếp cận các đối tượng
học sinh khác nhau, nghiên cứu tâm lí lứa tuổi. Ngoài ra, GVCN cũng cần có
những nhạy cảm sư phạm để có thể dự đoán đúng, chính xác sự phát triển nhân

cách của HS; định hướng, giúp đỡ các em lường trước những khó khăn, và
những dự định để các em có thể tự hoàn thiện bản thân. Đặc biệt việc giáo dục
cho HS cá biệt trong lớp mình chủ nhiệm là một trong những nhiệm vụ thiết yếu
đầy khó khăn của người GVCN.
Qua nhiều năm giảng dạy và trực tiếp làm công tác chủ nhiệm lớp, bản thân
tôi đã gặp không ít học sinh cá biệt (HSCB). Trong số đó, mỗi em lại có biểu
hiện cá biệt ở những mặt khác nhau, đòi hỏi quá trình thực hiện giáo dục phải có
nhiều sáng tạo mới có thể có hiệu quả.
Năm học 2018 – 2019, tôi được phân công tiếp nhận làm công tác chủ nhiệm
lớp 12B4 – một lớp có nhiều HS yếu kém về cả hai mặt giáo dục; đối tượng học
sinh phong phú; tỉ lệ học sinh cá biệt không nhỏ. Đây thực sự là vấn đề thách
thức, gây không ít khó khăn trong công tác quản lí học sinh của tôi. Nhận thức
được tầm quan trọng của vấn đề giáo dục HS, đặc biệt là HSCB nhằm nâng cao
hiệu quả học tập và rèn luyện cho HS lớp chủ nhiệm tôi đã đi sâu tìm tòi, nghiên
cứu các giải pháp tối ưu để giáo dục HS, nhất là HSCB.Từ những lí do trên với
chút kinh nghiệm nhỏ nhoi tích lũy được của bản thân, tôi mạnh dạn viết sáng
kiến kinh nghiệm với đề tài: “ Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục học sinh cá biệt lớp 12B4 trường THPT Triệu Sơn 4”. Với đề tài này tôi
1


hy vọng chia sẻ được chút kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm lớp của mình
với các thầy cô. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để
SKKN được hoàn thiện hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này bản thân tôi ngày đêm trăn trở làm thế nào để giúp cho những
học sinh chưa ngoan từng bước thay đổi tư tưởng, thái độ của mình trong học
tập cũng như trong lối sống. Với mong muốn giúp đỡ các em biết tự tôn trọng
bản thân mình cũng như tôn trọng những người xung quanh. Giúp các em ý thức
được việc học sẽ phục vụ cho chính bản thân các em, góp phần nâng cao chất

lượng cho lớp, cho trường và góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Giúp các em thấy được công lao to lớn của cha mẹ - những người có công
sinh thành và nuôi dưỡng. Chỉ cho các em thấy được những vất vả mà thầy cô
từng ngày trực tiếp truyền đạt tri thức, kĩ năng sống cho các em. Từ đó, các em
có thể dần thay đổi và trở thành những người có ích cho xã hội.
Cũng qua đây, giúp cho một số ít thầy cô xóa đi những tư tưởng kì thị, phân
biệt đối xử với những học sinh chưa ngoan mà chúng ta cần xác định “ Tất cả vì
học sinh thân yêu”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
HS cá biệt lớp 12B4 – Trường THPT Triệu Sơn 4 năm học 2018 – 2019
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết để xác định cơ sở lí luận của đề tài.
- Nghiên cứu về tâm lí, thực trạng, nguyên nhân của các học sinh cá biệt.
- Nghiên cứu thực tiễn, quan sát, trò chuyện, trao đổi với các em để hiểu thêm về
tâm tư, nguyện vọng của các em.
- Phương pháp phân tích thực tiễn để rút kinh nghiệm trong công tác giáo dục
HSCB của mình.
- Gặp gỡ, trao đổi thêm với phụ huynh để hiểu thêm về tâm lí, tính cách của các
em.
II. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận
1.1. Khái niệm
Khái niệm về HSCB chưa được xác định một cách nhất quán trong lí luận
cũng như trong thực tiễn giáo dục. Mỗi người có quan điểm, cách lập luận khác
nhau. Tuy nhiên thuật ngữ học sinh cá biệt (HSCB) thường được dùng để chỉ

2


những HS có những nét cá tính riêng, có suy nghĩ và hành vi hoặc có những

năng khiếu và sở thích đặc biệt khác với các HS khác trong lớp.
1.2. Một số biểu hiện về mặt hành vi của HSCB
Những hành vi của những HSCB thường được biểu hiện như:
- Lâm vào các tệ nạn xã hôi như: nghiện hút, cờ bạc, lô đề, trộm cắp,...
- Vô lễ với GV; thường xuyên nói tục, nói dối thầy cô và bố mẹ ; hay gây gổ,
đánh nhau trong trường hoặc ngoài trường.
- Vi phạm nội quy của nhà trường, của lớp; phá rối, làm mất trật tự trong giờ
học; bỏ tiết, bỏ học không lí do hoặc lí do không đúng.
- Tự ti, mặc cảm, trầm cảm, tiêu cực trong suy nghĩ.
- Lối sống khác người . …
1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục HSCB.
- Giáo dục HSCB trở thành HS tốt là một trong những nhiệm vụ rất khó khăn
của GVCN nhưng lại có ý nghĩa hết sức to lớn đối với bản thân HSCB, với nhà
trường, với gia đình HS và với xã hội. GVCN có thể giúp các em phát triển đúng
hướng, phát huy tài năng, hoàn thiện nhân cách, đạo đức để trở thành một người
công dân có ích là một việc làm thực sự có ý nghĩa.
- Đối với lớp: Việc giáo dục HSCB của GVCN là một trong những điều kiện
đảm bảo ổn định nề nếp lớp học. Mọi thành viên khác của lớp đều có điều kiện
học tập và tu dưỡng đạt kết quả tốt.
- Đối với gia đình HSCB: Thành công trong nhiệm vụ giáo dục HSCB của
GVCN giúp gia đình HS tránh được sự bất hạnh, đem lại nguồn hạnh phúc lớn
lao cho họ.
- Đối với xã hội: Việc giáo dục HSCB của GVCN thành công góp phần quan
trọng trong việc giữ gìn an ninh, trật tự xã hội và mang lại cho đất nước những
công dân tốt.
2. Thực trạng của vấn đề
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều trò chơi giải trí mới, lạ đã mọc lên
như: Games online, bi-a, đánh bài…. Những trò chơi này đã thu hút không ít học
sinh tham gia. Từ đó, kéo theo các hiện tượng như lừa dối cha mẹ để xin tiền đi
chơi, lấy cắp tiền, đồ dùng, đồ dùng học tập của bạn,…. Khi đã bị cuốn theo các

trò chơi trên, đến trường các em thường lơ là việc học tập, không học, không
chú ý nghe giảng, ghi chép và làm bài tập, hoặc là tập trung nói chuyện về
những trò chơi mà mình tham gia mà thay vào đó là tinh thần uể oải, mệt mỏi
hoặc là ngồi gục mặt lên bàn để ngủ. Thậm chí có em còn tỏ ra là “ sành điệu”
và thích làm “ đại ca”… . Bên cạnh đó có không ít thầy cô giáo chỉ chú tâm dạy
3


chữ, kiến thức văn hóa mà sao nhãng, lơ là, thiếu biện pháp giáo dục HSCB dẫn
đến những hậu quả đáng tiếc. Thực trạng trên gây ra những băng hoại về đạo
dức, lối sống, phá hoại mọi hiệu quả của giáo dục.
- Theo thống kê (ngày 20/09/2018) từ ban nề nếp của trường, tổng số HSCB
năm học 2018 - 2019 là 35 HS, trong đó khối 10 có 13 HS; khối 11 có 12 HS và
khối 12 có10 HS với những biểu hiện hành vi cá biệt của các em được thể hiện
qua bảng sau:
Hành vi cá biệt

Khối 10

Khối 11

Khối 12

SL TL%

SL TL% SL TL%

- Vi phạm nề nếp của trường, của lớp,
mất trật tự trong giờ học, lười học bài,
đi học muộn, bỏ học, bỏ tiết ….


10

76.92

10

83.33

7

70

- Nói dối, nghiện chơi games online…

7

53.84

6

50

6

60

- Vi phạm những chuẩn mực đạo đức,
hỗn láo với thầy cô, cha mẹ, hay nói
tục, chửi thề, …


6

46,15

6

50

4

40

- Vi phạm pháp luật, đánh nhau, trộm
cắp, trấn lột, cờ bạc, lô đề…

5

38.46

4

33.33

3

30

- Tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy
cô, bạn bè, hoang mang, sợ hãi, tiêu cực

trong suy nghĩ , …

2

15.38

1

8.33

0

0

Qua bảng số liệu trên cho thấy số HS có hành vi vi phạm nhiều nhất là: Vi
phạm nội quy, nề nếp của trường, của lớp, nghỉ học vô lí do, bỏ tiết, đi muộn,
chơi games online. Đặc biệt hiện tượng đáng báo động hiện nay là tình trạng HS
gây gỗ đánh nhau, đây là những em có ý thức học tập yếu, thiếu sự quan tâm của
gia đình, ham chơi nên bị bạn bè xấu lôi kéo dẫn đến vi phạm các chuẩn mực
đạo đức, thậm chí là vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, số HS có những hành vi vi
phạm: Hút thuốc lá, chơi bài, lô đề chiếm một tỉ lệ đáng kể đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường sư phạm. Trong số các HSCB thống kê trên, lớp
12B4 có tới 4 HS với những biểu hiện hành vi cá biệt khác nhau.
Từ thực trạng trên, khi nhận lớp chủ nhiệm tôi đã tìm tòi học hỏi thêm từ bạn
bè đồng nghiệp, từ tài liệu sách báo, từ các bài tham luận, hội thảo, từ các
SKKN được đăng tải trên mạng về lĩnh vực giáo dục HS chưa ngoan, HS có học
4


lực yếu, HSCB, … để có kế hoạch giáo dục HSCB của lớp chủ nhiệm ngay từ

đầu năm học. Cuối năm học, kết quả đạt được rất khả quan nên tôi xin chia sẻ
cùng bạn bè đồng nghiệp.
3. Các giải pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
3.1. Tìm hiểu tình hình HS cá biệt của lớp chủ nhiệm
3.1.1. Các cách tìm hiểu, thu thập thông tin về HS cá biệt
Để giáo dục được HSCB, người GVCN cần nắm bắt thông tin mọi mặt về
HS đó từ hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, quan hệ với mọi người xung
quanh, với bạn bè, người thân… đến sở thích, tâm tư nguyện vọng, ước mơ của
các em. Để làm được điều này tôi đã tiến hành khảo sát như sau:
- HS tự nhận thức về bản thân
1.
2.
3.
4.
5.

Những ưu/ khuyết điểm:
Sở thích:
Yêu/ghét:
Những mục tiêu, mong muốn:
Nhận xét của em về GV, bạn bè và gia đình:

Qua việc làm này HS có thể tự nhận thức về bản thân về những ưu, khuyết
điểm cần phát huy hoặc khắc phục của mình. Đồng thời GV có thể nắm được
thông tin cơ bản về cá tính của từng HS, giúp GV có cách tiếp cận phù hợp để
giáo dục các em tiến bộ.
- Tìm hiểu thông tin về HSCB qua GVCN cũ và các GVBM:
Do cô Nguyễn Thị Trang là GVCN cũ của lớp đã được cử đi học sau khi kết
thúc năm học lớp 11 của lớp B4. Lớp 12 tôi được phân công làm công tác chủ
nhiệm thay thế. Để làm tốt nhiệm vụ của mình tôi đã trò chuyện với GVCN cũ

và các GVBM của lớp để nắm bắt tình hình học tập và rèn luyện của HS, đặc
biệt là các HSCB của lớp. Đây là nguồn cung cấp thông tin quý giá giúp tôi nắm
được thông tin về HS một cách chính xác và nhanh nhất.
- Tìm hiểu thông tin HSCB qua bạn bè và gia đình:
Tôi cũng đã gặp gỡ gia đình và bạn bè các HSCB để tìm hiểu thêm thông tin
về các em. Rất nhiều điều mà GV không biết nhưng bạn bè lại biết. Khai thác
được nguồn thông tin này GVCN mới có thể kịp thời tìm ra giải pháp giáo dục
hợp lí cho từng HSCB. Trao đổi, trò chuyện với gia đình HS cũng rất quan trọng
để GVCN lập hồ sơ theo dõi HS. GVCN có thể nắm được về hoàn cảnh gia
đình, đặc điểm của HS qua nhận định của cha mẹ HS để so sánh đối chiếu bổ
sung cho những thông tin mình đã tìm hiểu được.
3.1.2. Làm sổ theo dõi về HSCB
Giáo dục HSCB không chỉ ngày một ngày hai là thu được kết quả mà cần
5


phải có thời gian và kế hoạch cụ thể. Dựa vào các thông tin thu thập được ở
trên và kết quả phân loại HSCB, tôi tiến hành làm sổ theo dõi từng HSCB với
các nội dung sau:
+ Đặc điểm gia đình HS.
+ Bảng theo dõi sự phát triển cá nhân HS qua từng tuần, tháng, học kì, năm
học.
+ Các biểu hiện hành vi.
+ Sổ liên lạc điện tử.
3.2. Giáo dục bằng tâm lí
3.2.1. Lắng nghe và trò chuyện với HS
Đối với người GVCN, tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp GVCN có được
năng lực cảm hóa HS nói chung, HSCB nói riêng. Đó là năng lực gây ảnh hưởng
trực tiếp của GV đến với HS về mặt tình cảm và ý chí để thay đổi hành vi cá biệt
của HSCB, giúp cho các em phát triển nhân cách một cách đúng đắn.

Đối với HS nói chung và HSCB nói riêng GV cần phải biết lắng nghe. Vì
khi lắng nghe GV sẽ hiểu được những tâm tư nguyện vọng của HS. Chỉ khi thấu
hiểu thì mới trò chuyện chia sẻ được.
Bí quyết để lắng nghe và trò chuyện là GV cần phải tạo ra môi trường an
toàn, thân thiện để HS tin tưởng, cảm giác thoải mái. Để làm được như vậy GV
cần thể hiện cho HS đó thấy rằng mình muốn nghe từ cách nhìn cũng như cử
chỉ, thể hiện sự quan tâm lắng nghe để hiểu hơn là để đáp lại, tránh những việc
làm gây mất tập trung, giữ bình tĩnh và kiên nhẫn, không nóng vội, không cắt
ngang lời. Phải đặt mình vào vị trí của các em để có thể đồng cảm với các em,
tránh tranh cãi hoặc phê phán.
Để giáo dục HSCB, tôi thường hay tiến hành những cuộc nói chuyện cởi
mở với các em. Đối với những HSCB không nên thường xuyên phê bình và
dùng những lời nói nặng đến các em. Nếu làm vậy thì không những không đạt
được kết quả của mình mong muốn, mà thậm chí còn nhận được kết quả trái
ngược lại. Nếu ta cứ mãi phê bình các em ấy trước lớp thì các em ấy sẽ có
những hành động phản lại và trở nên xa lánh chúng ta.
Chính vì vậy, biết lắng nghe và trò chuyện thân mật gần gũi với các em, hiểu
được tính cách của các em nên tôi đã tạo được mối quan hệ gần gũi với các
HSCB. Tôi thực sự trở thành chỗ dựa đáng tin cậy nhất cho các em. Khi mối
quan hệ cô trò gần gũi, tốt đẹp hơn thì lúc này các em sẽ thổ lộ những tâm tư,
tình cảm riêng của mình mà không một chút ngần ngại. Lúc này tôi mới có thể
hiểu sâu sắc hơn về hoàn cảnh, tình huống các em đang gặp phải mà đưa ra
những lời khuyên hữu ích, kịp thời.
6


Ví dụ 1:
Trong lớp tôi chủ nhiệm có em Lê Văn Quang – một học sinh có ý thức học
tập còn yếu kém. Em chỉ thích đi chơi, hay giao du với bạn xấu ngoài trường,
nghiện chơi games onlie. Em thường chơi đến khuya nên mỗi sáng mai đến lớp

em thường gục mặt lên bàn, không chú ý nghe giảng và ghi chép bài như các
bạn khác trong lớp. Chính vì vậy đến khi thầy cô kiểm tra em thường nhận được
điểm kém. Em tỏ ra chán nản, không muốn đi học, lầm lì ít nói và ương bướng
và thường xuyên vi phạm nội quy, nề nếp của trường cũng như của lớp, em còn
xa lánh bạn bè, thầy cô và em đã có ý định bỏ học. Xếp loại hạnh kiểm năm học
lớp 11 là loại Yếu và em phải rèn luyện hạnh kiểm trong hè.
Thấy vậy tôi đã nhiều lần dò hỏi, tìm tới tận quán Internet mà em thường tới
đó chơi để khuyên nhủ, động viên và đưa em về tận nhà. Tôi luôn dành sự quan
tâm đặc biệt đến em. Cuối giờ học tôi thường tâm sự, động viên an ủi em,
khuyên giải để em thấy rõ tác hại của việc chơi game. Trong những tuần đầu của
năm học lớp 12, những lần em mắc lỗi điểm kém hoặc những lỗi thuộc về nề
nếp, tôi thường không phê bình em nặng nề trước lớp mà thay vào đó tôi tìm ra
điểm tốt của em để biểu dương như là : “ Ở buổi lao động chiều thứ năm vừa
qua, lớp ta đã làm tốt công việc được giao.Cô ghi nhận sự cố gắng nhiệt tình
của cả lớp. Đặc biệt hôm đó cô thấy bạn Quang đã làm việc rất năng nổ, nhiệt
tình. Cô đã nhìn thấy sự cố gắng rất nhiều ở bạn ấy. Mong sao tất cả các em cứ
thế phát huy nhé. ” Với sự quan tâm chân thành ấy, Quang đã dần nhận thức
được sai lầm, có chí thú học hành và hạ quyết tâm bỏ chơi game.
Ví dụ 2:
Một trường hợp khác trong lớp tôi nữa đó là em Lê Thanh Hưng– một học
sinh mồ côi cha từ rất sớm. Đây cũng là một trong những HSCB của lớp.
Cũng có những biểu hiện như em Quang, Hưng thường xuyên vi phạm các
lỗi về nề nếp như đi học muộn, không thực hiện đồng phục theo quy định,
thường xuyên đổi chỗ trong các giờ học để nói chuyện và chơi. Bên cạnh đó,
Hưng còn có những hành vi như lấy cắp tiền và máy tính cầm tay của các bạn
trong lớp để lấy tiền đi chơi. Hưng đã được nhắc nhở nhiều lần nhưng em chưa
từng thay đổi.
Một lần, mẹ em bị ốm nặng phải nằm viện, Hưng đã rất sợ hãi và lo lắng.
Tôi đã động viên em rất nhiều. Tôi đã dùng tình cảm của người mẹ để tâm sự
cùng em: “ Em là niềm an ủi duy nhất đối với mẹ em lúc này, cũng như mẹ là

chỗ dựa duy nhất của em. Bố mất sớm, mẹ sớm hôm tảo tần nuôi em ăn học,
mong muốn em trở thành người tốt, người có ích cho xã hội. Bao vất vả nặng
nhọc mẹ đều gánh chịu để em có cơ hội, điều kiện học tập tốt bằng bạn, bằng
7


bè. Vậy mà em không nhận ra điều đó sao?. Gần đây cô nghe nói mẹ em bị ốm
do biết tin em không chịu học hành, lấy trộm tiền của các bạn, theo các bạn xấu
đi chơi. Thấy mẹ vậy em không thương, xót mẹ mình sao… ?”. Lúc này đây tôi
thấy mắt em đã đỏ, có thể những câu nói của tôi đã chạm vào tâm tư của em. Em
ngại với bạn với thầy cô nên không dám nói, tôi đã động viên chia sẻ với em rất
nhiều cả về vật chất lẫn tinh thần.
Thời gian dần trôi, em đã hiểu ra vấn đề và tôi cũng thường xuyên trao đổi
riêng và động viên em nhiều hơn. Em đã phần nào hiểu được những gì tôi đã
dành cho em và đã có những thay đổi đáng kể. Chính sự quan tâm giúp đỡ của
tôi đã khiến em tự tin hơn, quyết tâm học tập hơn, cuối năm học em đã đạt học
lực khá, hạnh kiểm tốt. Tuy vậy, đằng sau sự nhiệt tình, tâm huyết của GV đối
với học trò cũng rất cần có sự phối kết hợp giáo dục giữa nhà trường và gia đình.
3.2.2. Định hướng kịp thời cho HSCB.
HSCB thường là những HS không có lí tưởng sống, không có ước mơ, hoài
bão. Không chịu học tập, rèn luyện để hoàn thiện mình. Chính vì vậy GVCN cần
phải định hướng kịp cho HS dựa trên những thông tin thu thập được trong sổ
theo dõi HS để giúp các em xác định được mục tiêu của cuộc đời mình và trở
thành người hữu ích.
Ví dụ: Em Nguyễn Thị Vân AnhB là HS nữ cá biệt của lớp. Em đến lớp
nhưng không hề chú ý học bài. Em không có ước mơ gì cũng không biết sau khi
học xong lớp 12 sẽ làm gì. Bố mẹ em đã li hôn và đều có gia đình mới, em sống
với ông bà nội. Tuổi thơ thiếu thốn tình yêu thương của bố mẹ khiến em như mất
hết niềm tin vào cuộc sống. Em đi học để không làm buồn lòng ông bà mà thôi.
Qua những thông tin thu thập được về em, tôi thấy em học khá tốt môn văn

và đặc biệt là có năng khiếu về mĩ thuật. Em vẽ rất đẹp. Tranh trang trí lớp học
và báo tường của lớp đều do em thực hiện. Tôi đã nhiều lần gặp riêng em và
khuyên em nên phát triển năng khiếu của mình; nên đặt mục tiêu theo đuổi
những ngành học có liên quan đến mĩ thuật.
Nhờ sự khích lệ, định hướng kịp thời của tôi, em đã thay đổi hành vi của
mình, chú ý học tập và đăng kí học thêm lớp mĩ thuật. Em đã đăng kí nguyện
vọng vào trường Đại học mĩ thuật công nghiệp Hà Nội. Tôi luôn dõi theo em,
khích lệ em và hi vọng em sẽ đạt được ước mơ của mình.

8


Tranh vẽ của Vân Anh
3.2.3. Mạnh dạn tin tưởng giao trách nhiệm cho HSCB.
Tuy là HSCB nhưng mỗi em đều có điểm mạnh, điểm yếu và sở thích
riêng. Nếu GVCN biết cách khai thác các điểm mạnh, sở thích đó của HSCB sẽ
giúp ích rất nhiều trong việc giáo dục các em. Thông qua tìm hiểu HS để biết rõ
về từng HSCB, tôi đã tìm cách lôi cuốn các em vào công việc của lớp hợp với sở
thích và năng lực của các em. Từ những việc như vậy, nên ngay từ những tuần
đầu của năm học, các em đã có những tiến bộ rõ nét ở cả hai mặt học tập và đạo
đức. Ở đợt thi đua chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11, các em cùng một
số bạn khác đã tham gia rất nhiệt tình và kết quả là lớp 12B4 đã được nhà trường
biểu dương và ghi nhận. Lớp nhận được giải khuyến khích trong thi đua nề nếp,
giải ba của hội thi biểu diễn văn nghệ do nhà trường, Đoàn trường tổ chức. Ở
đợt thi đua chào mừng ngày thành lập Đoàn 26/3 trong tháng thanh niên vừa qua
thêm một lần nữa các em cùng các bạn trong lớp đã nỗ lực hết mình trong các
phong trào thi đua. Kết quả là chi đoàn 12B4 đã đạt giải nhất cuộc thi kéo co nữ,
giải ba cuộc thi tìm hiểu và hát các ca khúc về Đoàn. Những điều này lớp chưa
bao giờ đạt được ở lớp 10 và 11, chính vì vậy những kết quả bước đầu này đã
khích lệ tinh thần thi đua nề nếp cũng như học tập trong lớp đã được nâng cao.

Bản thân các em HSCB cũng góp một phần không nhỏ cho thành tích đã đạt
được của lớp.
9


Kéo co nữ lớp 12B4
3.3. Giáo dục bằng tập thể lớp
Ở cấp THPT là thời điểm mà bạn bè có vị trí quan trọng trong đa số các
em, đặc biệt là đối với những học sinh cá biệt, các em lại càng coi trọng tình
bạn. Chính vì nắm bắt và hiểu được điều này nên bên cạnh giáo dục học sinh cá
biệt bằng tình cảm, bằng tâm lí tôi còn dùng biện pháp lấy tập thể ra để giáo dục
cá nhân. Khi tôi muốn tìm hiểu về những học sinh chưa ngoan của lớp mình, tôi
thường trao đổi với một số học sinh khác của lớp về các em ấy. Và tất nhiên tôi
cũng hướng dẫn các em trong lớp mình gần gũi, giúp đỡ và động viên bạn.
Hướng dẫn các em là phải tạo được mối quan hệ tốt và phải cho bạn thấy đặt
niềm tin ở nơi mình. Một khi bạn bè đã có niềm tin với nhau thì các em sẽ thoải
mái bộc lộ tâm tư với bạn mà không còn phải ngần ngại. Lúc này tôi đã thường
xuyên giữ mối liên lạc với một số học sinh khác trong lớp để biết được những
khó khăn mà các em học sinh cá biệt đang gặp phải. Từ đó hướng dẫn cho học
sinh lớp mình biết cách sẻ chia, tháo gỡ khó khăn với bạn, giúp bạn vượt lên
chính mình.
3.4. Phối hợp với các giáo viên bộ môn.
Có học sinh lại có biểu hiện cá biệt ở chỗ mối quan hệ với thầy cô của mình
chưa tốt, nhưng tôi nghĩ là chúng ta cần tạo mối quan hệ gần gũi, không quá
khắt khe, nên bao dung độ lượng, thể hiện sự quan tâm của chúng ta để các em
thấy được thầy cô như những người cha, mẹ thứ hai của mình. Luôn tạo được
10


niềm tin, dìu dắt, nâng đỡ các em khi các em vấp ngã trong học tập cũng như

trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ
Em Lê Đình Thiện lớp tôi, là một học sinh có lực học yếu. Ở môn Tiếng
Anh em được thầy gọi lên bảng kiểm tra bài cũ vài lần nhưng em vẫn không học
bài, không thuộc bài. Chính vì vậy đã có lần thầy dùng những lời nhận xét nặng
nề với em, và từ đó em mang trong mình suy nghĩ thầy không công bằng với
mình nên em thường xuyên phá rối lớp trong giờ học.
Biết được nguyên do như vậy tôi đã chủ động gặp em để tìm hiểu lí do em
không học bài, và thường quấy phá lớp trong giờ học. Từ đây tôi cũng đã trao
đổi và nhắc nhở em cố gắng chú ý học tập. Phân tích, chỉ ra những hành động
chưa đúng của em. Mong muốn em hứa với tôi từ nay sẽ chú ý học hơn đặc biệt
là trong giờ học Tiếng anh.
Sau đó tôi đã trao đổi với giáo viên bộ môn về tính cách cá biệt của em,
đồng thời mong muốn có sự phối hợp để giáo dục em được tốt hơn. Mong muốn
thầy thường xuyên quan tâm đến em hơn. Trong giờ học hãy luôn gọi em trả lời
bài trước lớp, ưu tiên chọn những câu hỏi dễ phù hợp với khả năng của em để
em có thể trả lời được. Thầy cũng nên khen em trước lớp và cho điểm em trả lời
đúng để khích lệ tinh thần học ở em. Mong thầy bỏ qua những lỗi mà em đã mắc
phải.
Với biện pháp trên, cuối năm, em Thiện đã tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là ở môn
Tiếng anh mà em từng không thích. Mối quan hệ thầy trò trở nên gần gũi hơn.
Cũng từ đó em không còn “ghét” môn Tiếng anh nữa. Em đã làm bài kiểm tra
học kì 2 đạt điểm khá, thầy rất vui và chính thầy đã có phần thưởng riêng tặng
em.

Các em nhận phần thưởng mà thầy dạy môn Tiếng anh tặng
11


3.5. Phối hợp với các ban ngành đoàn thể trong trường

3.5.1. Tạo ra các sân chơi phù hợp cho HSCB.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS trở nên cá biệt đó là vì
các em không có sân chơi phù hợp với năng lực và sở thích của bản thân. Chính
vì thế các em không thấy trường học thú vị, các môn học không thể lôi cuốn các
em nên các em đều chán việc học ở trường và bỏ đi chơi tìm đến các thú vui
khác, có khi đó là những thú vui không lành mạnh
Để khắc phục tình trạng trên, tôi đã lên kế hoạch, phối hợp với các GVBM
và BCH Đoàn trường thành lập các câu lạc bộ như: CLB thể thao, câu lạc bộ
tiếng anh, câu lạc bộ tin học, câu lạc bộ âm nhạc, , … nhằm khơi gợi niềm đam
mê, phát huy được năng lực của bản thân HSCB, tạo niềm vui, hứng thú cho các
em mỗi khi đến trường, giúp các em HSCB có thể hòa đồng với tập thể, khẳng
định được bản thân mình.
Ngoài ra tôi cũng không bao che cho những học sinh vi phạm nề nếp trong
lớp mình, tôi thường phối hợp với đội thanh niên xung kích, đội cờ đỏ và đoàn
thanh niên bằng cách cung cấp danh sách những học sinh cá biệt của lớp mình
để kịp thời hỗ trợ theo dõi, nhắc nhở, xử lí vi phạm của các em. Phối hợp với
Ban giám hiệu nhà trường, đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục, đề nghị
Ban giám hiệu cùng phối hợp để kịp thời phát hiện và xử lí những học sinh vi
phạm. Ngoài ra tôi còn phối kết hợp với tổ bảo vệ, nhân viên y tế, nhân viên thư
viện để giáo dục học sinh, đánh giá nhìn nhận học sinh một cách khách quan
nhất. Hơn nữa, lấy phong trào thi đua làm đòn bẩy nên biện pháp phối hợp này
luôn đạt hiệu quả cao.

Hai em nhận giấy khen của Đoàn TN nhà trường
12


3.5.2 Rèn luyện kĩ năng sống cho HSCB.
- Với tâm lí của tuổi mới lớn, thiếu kiểm soát, dễ bốc đồng, dễ bị kích động
bởi bạn bè cùng với việc thiếu những kiến thức về chuẩn mực đạo đức, kĩ năng

sống cơ bản như kĩ năng ứng xử, kĩ năng kiểm soát cảm xúc, kĩ năng giải quyết
xung đột, … thì những hành vi vi phạm như đã nói ở trên có thể xảy ra ở HS bất
cứ lúc nào. Nhà trường chưa chú trọng đúng mức về công tác giáo dục giá trị
sống và rèn luyện kĩ năng sống cho HS dẫn đến HS thiếu kĩ năng sống là một
trong những nguyên nhân dẫn tới số lượng HSCB ngày một gia tăng. Vì vậy
tăng cường giáo dục giá trị sống và rèn luyện kĩ năng sống cho HS là biện pháp
cần thiết để góp phần ngăn chặn HS trở thành HSCB.
- Để thực hiện GV có thể lồng ghép vào trong các tiết dạy các môn học
những nội dung về đạo đức, kĩ năng dù không nhiều nhưng mỗi người, mỗi ngày
một ít HS sẽ tích lũy được nhiều hơn. Đối với GVCN, tôi đã giáo dục thông qua
các tiết sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần bằng cách cho các em xem một số clip
“ Quà tặng cuộc sống” trên You Tobe.

Hình ảnh được cắt ra từ một số clip trong chương trình “Quà tặng cuộc sống”
trên You Tobe [3]
13


3.6. Phối hợp với phụ huynh học sinh
Ngoài những biện pháp mà tôi đã nêu trên thì một biện pháp nữa không thể
thiếu được đó là phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh học sinh. Bên
cạnh việc họp phụ huynh chung của cả lớp để báo cáo kết quả học tập, tu dưỡng
đạo đức của các em, tôi còn mời những phụ huynh của những học sinh cá biệt ở
lại gặp riêng để trao đổi. Việc gặp trao đổi riêng là để tránh đi sự mặc cảm, xấu
hổ của các bậc phụ huynh có con chưa ngoan. Có những phụ huynh khi được
giáo viên chủ nhiệm mời đến trường để rao đổi riêng nhưng đã không đến. Vậy
tôi đã phải tìm đến nhà của những học sinh này để thăm gia đình, tìm hiểu thêm
về điều kiện gia đình, về các em ðể nắm ðýợc tình hình của các em và trao đổi
với bố mẹ các em về những sai phạm mà các em đang mắc phải. Cũng đề nghị là
bố mẹ các em hãy quan tâm hơn chút nữa đến các em. Từ đó các em sẽ dần dần

thay đổi và tiến bộ.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, kết hợp với sự cố gắng nổ lực của
bản thân, tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được
những kết quả khả quan. Cụ thể là lớp chủ nhiệm của tôi bây giờ đã có những
thay đổi, tiến bộ rõ nét ở năm học 2018-2019.
- 100% học sinh trong lớp tích cực tham gia các hoạt động phong trào do nhà
trường, đoàn trường tổ chức.
- Không có học sinh nào nghỉ học, bỏ học dở chừng.
- Không có học sinh nào vi phạm nội quy, nề nếp, phải đưa lên hội đồng kỉ
luật nhà trường.
- 100% học sinh trong lớp được xếp loại hạnh kiểm tốt, khá, không có em
nào bị xếp loại trung bình, yếu.
- 100% học sinh trong lớp được xếp loại học lực khá, trung bình, không có
em nào bị xếp loại yếu, kém.
- Quan hệ thầy trò ngày càng thêm gắn kết, gần gũi.
- Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo niềm tin cao trong học sinh và cha mẹ
học sinh
* Kết quả kiểm nghiệm:
4.1. Kết quả lớp đối chứng : Lớp 11B4 (năm học 2017-2018)
Hạnh kiểm
Học lực
Tốt
Khá
TB
Yếu
Giỏi Khá
TB
Yêú
29=

4=
3=
2=
4=
30=
4=
0
76,31% 10,52% 7,89%
5,26%
10,52% 78,94 % 10,52%
4.2. Kết quả lớp thực nghiệm : Lớp 12B4 (năm học 2018-2019) thể hiện ở
bảng xếp loại học lực, hạnh kiểm sau
14


Tốt
37=
97,36%

Hạnh kiểm
Khá
TB
1=
0
2,63 %

Yếu
0

Học lực

Giỏi Khá
TB
Yêú
18=
20
=
0
0
47,36% 52,63 %

GVCN trao giấy khen và phần thưởng cho những học sinh đạt HSTT cả năm,
HS Vân Anh đứng thứ hai từ trái sang phải
- Qua hai bảng thống kê học lực, hạnh kiểm của cùng một lớp ở năm học
2017 - 2018 và ở năm học 2018 - 2019 ta thấy được học sinh đã có những tiến
bộ rõ rệt ở cả hai mặt chất lượng.
- Nề nếp của lớp cũng đã thay đổi đáng kể. Ở năm học trước, lớp thường
xuyên xếp thứ 19, 20 trong xếp loại thi đua hàng tuần do đoàn trường, đội cờ đỏ
và đội thanh niên xung kích theo dõi. Tổng hợp thi đua cuối năm, lớp xếp thứ
19/20 lớp. Nhưng từ khi bước sang năm học mới 2018 – 2019, khi tôi áp dụng
các biện pháp trên, lớp tôi không tuần nào phải xếp thứ 16 trở đi nữa, mà lớp
15


chủ yếu xếp thứ 10,11,12, thậm chí đã có nhiều tuần lớp vươn lên xếp thứ 2,3,4
trên toàn trường và đã được biểu dương trong những buổi sinh hoạt dưới cờ.
Tổng kết thi đua năm học này, lớp tôi xếp thứ 11/23 lớp của toàn trường (Vượt
12 bậc so với năm học lớp 11). Để đạt được kết quả đáng khích lệ trên không thể
không kể đến những đóng góp và những tiến bộ rõ nét của các em từng được
cho là học sinh cá biệt như là Quang, Hưng, Anh, Thiện và Vân Anhb.
- Mặt khác đa số học sinh trong lớp đã có ý thức chủ động tích cực hơn trong

giờ học, không còn học sinh nào nằm gục mặt trên bàn trong các giờ học. Và ý
thức tu dưỡng đạo đức của đa số học sinh trong lớp cũng như của một vài học
sinh cá biệt đã có những bước tiến đáng ghi nhận, kết quả đã thể hiện ở bảng xếp
loại học lực, hạnh kiểm của năm học 2018 - 2019 bên trên.
Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau: Muốn
giáo dục tốt các các học sinh cá biệt giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Tìm hiểu, điều tra nắm rõ nguyên nhân cá biệt của học sinh.
- Hiểu rõ tâm lý của từng học sinh cá biệt để có thể tìm ra biện pháp giáo dục
phù hợp.
- Khi tiến hành các biện pháp giáo dục cần tránh việc nêu tất cả những khuyết
điểm của học sinh ra cùng một lúc. Không được nôn nóng muốn giải quyết được
tất cả những sai phạm của các em cùng một lúc mà nên phân thời gian và chọn
ra những sai phạm nào thì nên giải quyết trước, lỗi sai nào giải quyết sau.
- Không nên yêu cầu quá cao đối với những học sinh ấy, nên có sự thông cảm
chia sẻ với các em.
- Luôn tạo mối quan hệ thầy trò gần gũi để dễ cảm hoá các em.
- GVCN nên dùng nhiều biện pháp giáo dục cùng một lúc để đạt hiệu quả
cao hơn.
III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp, đòi hỏi
người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và
nỗ lực của chúng ta sẽ là cái chìa khoá cho các em bước sang một cuộc đời mới
với sự nhìn nhận tích cực về thực tế và có ý thức rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của
con người mới xã hội mới. Tương lai của đất nước phụ thuộc nhiều vào thế hệ
trẻ mà hôm nay chúng ta đang trực tiếp dạy dỗ. Nếu chúng ta chung tay, góp sức
làm giảm số lượng học sinh cá biệt nghĩa là chúng ta đang góp phần làm tăng sự
bình yên cho các gia đình nói riêng và cho xã hội nói chung. Chính vì vậy mà
chúng ta, những người thầy đang công tác trong ngành giáo dục phải ra sức
nghiên cứu, học tập hơn nữa để tạo ra những con người có ích cho xã hội.

16


2. Kiến nghị
- Đối với nhà trường:
+ Tăng cường các tiết ngoại khóa về giáo dục đạo đức học sinh. Tạo sân chơi
lành mạnh cho học sinh bằng cách tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi,
giải trí cho các em.
+ Tăng cường công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để các em hiểu
thêm về vai trò, trách nhiệm của mình ở lứa tuổi học đường.
+ Nhà trường kết hợp với chính quyền địa phương để giáo dục học sinh cá biệt
+ Đoàn thanh niên, Ban giám hiệu, phụ huynh kết hợp với giáo viên chủ nhiệm
để cùng giáo dục các em đạt hiệu quả cao hơn.
- Đối với giáo viên: Bên cạnh công tác chuyên môn, cũng cần coi công tác chủ
nhiệm là một nhiệm vụ quan trọng và ý nghĩa của một người giáo viên. Người
giáo viên cần luôn luôn tự học, tìm tòi những phương pháp chủ nhiệm mới để áp
dụng vào quá tŕnh chủ nhiệm. Đồng thời giáo viên luôn phải học hỏi, rút kinh
nghiệm để ngày càng hoàn thiện mình hơn, làm tốt công tác chủ nhiệm hơn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình chủ nhiệm
lớp. Tôi hy vọng đề tài này có thể góp thêm một phần nhỏ để nâng cao hiệu quả
của công tác chủ nhiệm trong những năm học tới . Trong phần trình bày chắc
hẳn không tránh khỏi sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô. Xin
chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 22 tháng 05 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Phượng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
17


[1]. Điều 2 – Luật giáo dục năm 2005.
[2]. Bài Thơ “ Nửa đêm” – Tập thơ Nhật kí trong tù – tác giả Hồ Chí Minh
[3]. Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet:
- Chương trình “Quà tặng cuộc sống” (Nguồn Youtube).
- Hình ảnh, vi deo về NícvujiCic (Nguồn Youtube).

DANH MỤC
18


SÁNH KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM HUYỆN,
TỈNH VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Tên đề tài SKKN

Some effective ways to
improve English
speaking lessons at
Trieu Son 4 high school

Cấp đánh giá xếp loại Kết quả đánh
(Ngành GD cấp

giá xếp loại.
Huyện /Tỉnh); Tỉnh
(A,B hoặc C)

Tỉnh
C

Năm học
đáng giá xếp
loại
2014 - 2015

19



×