Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường THPT như thanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.82 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
HỌC SINH NỮ CÁ BIỆT Ở TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

Người thực hiện: Bùi Thị Thường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Như Thanh
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): GVCN và công tác giám thị

THANH HÓA, NĂM 2017

0


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
II. Mục đích nghiên cứu........................................................................................2
III. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................3
IV. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................3
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.................................................................3
II. Cơ sở thực tiễn..................................................................................................4
1. Thực trạng về học sinh nữ cá biệt.....................................................................4
2. Phân loại học sinh nữ cá biệt.............................................................................5
3. Nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng của học sinh nữ cá biệt: Có nhiều


nguyên nhân..........................................................................................................6
3.1. Ảnh hưởng từ xã hội.......................................................................................6
3.2. Ảnh hưởng từ nhà trường...............................................................................7
3.3. Ảnh hưởng từ môi trường giáo dục gia đình..................................................7
3.4. Nguyên nhân xuất phát từ bản thân học sinh.................................................7
III. Những giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường THPT
Như Thanh.............................................................................................................8
1. Đối với giáo viên ở lớp có học sinh cá biệt:......................................................8
2. Biện pháp cụ thể:...............................................................................................9
3. Những giải pháp cụ thể giáo dục đạo đức nữ học sinh cá biệt.........................9
3.1. Giải pháp giáo dục bằng tâm lý: Dùng tình cảm chân tình để cảm hóa các
em..........................................................................................................................9
3.2. Giáo dục học sinh thông qua buổi tập trung toàn trường.............................10
3.3. Giáo dục học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm.......................................11
3.4. Giáo dục kết hợp với phụ huynh học sinh....................................................12
3.5. Giáo dục thông qua bạn bè của học sinh cá biệt..........................................12
3.6. Giáo dục học sinh bằng việc kết hợp giữa các đoàn thể trong nhà trường...13
3.7. Phối kết hợp với các đoàn thể khác trong xã hội:........................................15
3.8. Giáo dục bằng các hình thức khác................................................................16
IV. Kết quả của quá trình nghiên cứu..................................................................16
KẾT LUẬN CHUNG..........................................................................................18
1. Kết luận:..........................................................................................................18
2. Đề xuất, kiến nghị:..........................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................20


MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục là một khoa học nhưng cũng là một nghệ thuật, vai trò của người
giáo viên trong nhà trường gắn liền với hai nhiệm vụ: Vừa giảng dạy vừa làm

công tác giáo dục. Mục đích là đào tạo ra những học sinh vừa có kiến thức văn
hóa, vừa có nhân cách làm người. Chính vì thế nên sự nghiệp giáo đào tạo từ
trước đến nay luôn được toàn đảng, toàn dân quan tâm.
Vấn đề đặt ra từ trước tới nay là nhà trường có nhiệm vụ giáo dục học
sinh đã và đang trở thành con người có ích cho xã hội do đó việc phát triển về
nhân cách, hay cụ thể hơn là đạo đức, hạnh kiểm học sinh phải được hình thành
trên cơ sở tự rèn luyện của bản thân học sinh ngay trên ghế nhà trường. Đó là ý
thức học tập nghiêm túc, chấp hành đúng nội quy lớp học, trường học, chấp
hành đúng pháp luật đây là yêu cầu tất yếu đối với các em học sinh.
Nhưng thực trạng hiện nay, ở hầu hết các trường đều xuất hiện một bộ
phận học sinh không chấp hành tốt nội quy nhà trường, học tập không nghiêm
túc… làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền nếp chung của nhà trường và chất
lượng học tập giảm sút. Nhất là gần đây trên các phương tiện thông tin báo chí,
truyền hình đã lên tiếng khá nhiều về tình hình học sinh cá biệt nhất là học sinh
nữ. Số học sinh cá biệt này tuy không nhiều nhưng lại là ''lực cản'' rất lớn tác
động đến những nhân tố tích cực dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải trong mỗi lớp
học, mỗi trường học.
Trước những vụ bạo lực học đường liên tiếp xảy ra gần đây đặt giáo viên
và các nhà quản lý giáo dục trước thực tế: Làm thế nào để cảm hóa và giáo dục
học sinh cá biệt có hiệu quả là một vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy
cảm. Công việc này đã và đang trở thành một thách thức lớn với toàn xã hội nói
chung và đặc biệt là ngành giáo dục nói riêng, trong đó chủ yếu là nhiệm vụ của
nhà trường, của giáo viên chủ nhiệm và những người trực tiếp giảng dạy.
Trường THPT Như Thanh là một ngôi trường có phong trào giáo dục học
tập nghiêm túc vì đội ngũ giáo viên - công nhân viên yêu nghề, có tinh thần
trách nhiệm cao. Nhà trường luôn đặt ra yêu cầu đối với mỗi giáo viên cần phải
rèn luyện cho các em cả về ''đức'' và ''tài'', nhưng thực tế hiện nay có một bộ
phận học sinh chưa xác định đúng động cơ của việc học tập và có sự sa sút về
nhân cách, đạo đức của người học sinh. Với bản thân tôi là một giáo viên cũng
trăn trở và cố tìm ra biện pháp tối ưu nhằm giáo dục học sinh cá biệt trở thành


1


con ngoan trò giỏi. Tôi chọn đề tài ''Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho
học sinh nữ cá biệt ở trường THPT Như Thanh'', đây không chỉ là vấn đề
riêng mà còn là vấn đề chung được quan tâm suy nghĩ làm sao để học sinh của
mình trở thành những con người có ích cho xã hội.

II. Mục đích nghiên cứu.
Với việc chọn đề tài ''Một số giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh
nữ cá biệt ở trường THPT Như Thanh'' bản thân tôi muốn làm thế nào để giúp
cho học sinh cá biệt nhất là học sinh nữ có cách suy nghĩ đúng đắn để từng bước
thay đổi thái độ của mình trong học tập theo hướng tích cực. Từ đó giúp các em
biết tự tôn trọng bản thân và xác định được mục đích của việc học tập nghiêm
túc không chỉ phục vụ chính tương lai của bản thân mình và giúp đỡ gia đình,
góp phần xây dựng quê hương, đất nước. Bên cạnh đó tôi cũng muốn các em
thấy được công lao của các bậc sinh thành nhọc nhằn nuôi con ăn học và sự vất
vả của các thầy cô trong việc truyền đạt tri thức và giáo dục hoàn thiện nhân
cách, kỹ năng sống cho học sinh.
Bên cạnh việc giáo dục học sinh bài viết còn hướng tới thầy cô giáo, giúp
cho các thầy cô thấy rõ hơn về vai trò trách nhiệm của mình đối với nghề
nghiệp, đặc biệt là trong sự nghiệp trồng người đang vốn là một nghề thiêng

2


liêng cao quý đúng như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng từng khẳng định: ''Nghề
dạy học là nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý". Việc này còn giúp cho
một số ít thầy cô chưa thực sự sâu sát với học sinh nhất là học sinh cá biệt để mà

xác định nhiệm vụ ''Tất cả vì học sinh thân yêu'' góp phần xây dựng ''Trường học
thân thiện, học sinh tích cực'' và giúp học sinh thấy được ''Mỗi ngày đến trường
là một ngày vui''.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Học sinh nữ cá biệt trường THPT Như Thanh (2012-2017)
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt là nhiệm vụ luôn đặt ra cho mỗi
người giáo viên. Quan trọng nhất là làm cho học sinh hiểu được quan điểm của
mình là giáo dục và đưa ra các phương pháp thuyết phục, mềm dẻo linh hoạt dạy
dỗ và phương pháp áp dụng sau cùng là bắt buộc. Chính vì thế tôi sử dụng 5
phương pháp sau:
+ Phương pháp sư phạm.
+ Phương pháp thu thập thông tin.
+ Phương pháp đàm thoại.
+ Phương pháp khảo sát thống kê
+ Phương pháp tổng hợp phân tích
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Theo tiếng Hán thì tiếng ''cá'' có nghĩa là cá nhân, cá thể, chỉ bản thân một
ai đó. Còn ''biệt'' mang nghĩa là riêng, khác với những cái còn lại … Vậy có thể
nói một cách khoa học, cá biệt là một cá thể có điểm khác so với những cá thể
khác. Trường hợp sử dụng cho trường học thì cụm từ ''học sinh cá biệt'' thường
được dùng theo nghĩa không tốt, thường là ám chỉ những cô cậu học trò hay
quấy phá, có thành tích học tập chưa tốt. Không chịu học hành mà chỉ thích
quậy phá trong lớp như: làm trò cười khi giáo viên đang giảng bài, mất tập trung
… từ đó việc học hành xuống dốc.
* Học sinh nữ cá biệt là hiện tượng học sinh nữ có cách ứng xử không phù hợp
với đạo đức và chuẩn mực chung của xã hội, đặt biệt là biểu hiện của học sinh
trong nhà trường.Hiện tượng này biểu hiện qua các lĩnh vực học tập, vui chơi,
giao tiếp, sinh hoạt … trong lớp, trong trường và ngoài xã hội .


3


* Ý nghĩa của việc giáo dục học sinh nữ cá biệt :
- Giáo dục học sinh nữ cá biệt là thái độ tình cảm đúng đắn của mỗi người
giáo viên với học sinh cá biệt đó.
- Ngăn chặn những ảnh hưởng (nếu có) để tách khỏi những học sinh hư
hỏng, những tệ nạn xã hội, phát huy lối sống lành mạnh tích cực.
- Phát hiện những ưu điểm tiềm ẩn trong học sinh cá biệt đó.
- Bằng lý luận thực tiễn, cung cấp cho học sinh cá biệt những cách thức,
biện pháp để học tập, rèn luyện có kết quả tốt.
- Kết hợp giữa dạy học và giáo dục.
II. Cơ sở thực tiễn
1. Thực trạng về học sinh nữ cá biệt.
Trong điều kiện xã hội phát triển, giao lưu kinh tế - xã hội và văn hóa
rộng rãi như hiện nay là điều đáng mừng nhưng bên cạnh những mặt tốt cũng
kéo theo nhiều mặt xấu, nó góp phần làm gia tăng, phát triển các tệ nạn xã hội
mà từng giờ từng ngày ảnh hưởng đến nền giáo dục của xã hội nói chung và tác
động đến học sinh nói riêng .
Trường THPT Như Thanh là huyện miền núi nằm tại trung tâm của thị
trấn Bến Sung. Hơn nửa thế kỷ được thành lập nhà trường cũng có nhiều bề dày
lịch sử, thành tích của nhà trường cũng góp phần tích cực vào sự phát triển của
ngành giáo dục Thanh Hóa nói riêng và ngành giáo dục Việt Nam nói chung.
Học sinh của nhà trường bao gồm nhiều dân tộc khác nhau: Mường, Thái, Kinh,
Thổ … Điều kiện kinh tế của nhiều hộ gia đình còn khó khăn, đường xá đi lại
của nhiều em học sinh không được thuận lợi cho nên có những em phải trọ lại.
Bên cạnh đó chất lượng thi vào lớp 10 của nhà trường nhiều em điểm còn yếu so
với nhiều huyện miền xuôi. Các em học sinh ở lứa tuổi này nhận thức đang còn
nông cạn mà cái tôi của các em lại được biểu hiện rất rõ, cũng ở giai đoạn này

các em đang tự hoàn thiện mình về nhân cách, lẫn quan niệm sống. Chính vì thế
số lượng học sinh cá biệt ngày càng gia tăng trong đó không ít học sinh cá biệt là
nữ. Biểu hiện của những em học sinh nữ cá biệt có sự bất thường về tính cách,
tâm lý không ổn định, không có động cơ học tập, thích thì học, không thích thì
đùa giỡn, quấy phá, lười biếng, quay cóp trong học tập … Những học sinh này
còn lừa dối cha mẹ, thầy cô, dọa nạt bạn bè thậm chí còn đánh nhau trong và
ngoài nhà trường; cách nói năng, ăn mặc, đầu tóc … gây sự chú ý. Kết quả học
tập thất thường, sút kém dẫn đến chán học.

4


Chính từ thực trạng nêu trên học sinh thời nay đang cần nhiều sự quan
tâm của xã hội nên tôi thấy việc giáo dục đạo đức học sinh nữ cá biệt có một ý
nghĩa rất to lớn đối với xã hội; thành công trong việc giáo dục sẽ góp phần quan
trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự xã hội và cung cấp cho xã hội những
công dân tốt. Đối với gia đình, với cha mẹ học sinh thì việc giáo dục đạo đức
học sinh nữ cá biệt sẽ đem lại hạnh phúc lớn lao cho họ, giúp họ tránh được nổi
bất hạnh lớn nhất đó là con cái hư hỏng. Đối với nhà trường đó là điều kiện để
đảm bảo cho trường, lớp ổn định, trật tự, nề nếp tốt để các em trong nhà trường
sẽ cùng nhau tu dưỡng và học tập đạt kết quả tốt hơn để góp phần khẳng định
chất lượng giáo dục của nhà trường.
2. Phân loại học sinh nữ cá biệt.
Dựa trên quá trình tìm hiểu và nghiên cứu thực tiễn chúng ta dễ dàng
phân loại học sinh cá biệt theo các nhóm khác nhau.

5


Nhóm 1: Học sinh cá biệt do vi phạm nội quy của nhà trường, của lớp,

mất trật tự trong giờ học, đi học muộn, cách ăn mặc, đầu tóc nhố nhăng …
Nhóm 2: Học sinh cá biệt do ham chơi, đua đòi, yêu đương, giao du với
bạn bè, tiêu xài các khoản tiền bố mẹ cho để đóng góp, sẵn sàng trốn tiết bỏ học,
nói dối bố mẹ, thầy cô.
Nhóm 3: Học sinh cá biệt do vi phạm những chuẩn mực đạo đức, vi phạm
pháp luật như: Quan hệ bất chính, đánh nhau, trộm cắp, hay nói tục chửi bậy,
hổn láo với thầy cô giáo, cha mẹ hoặc với những người lớn tuổi khác …
Nhóm 4: Học sinh cá biệt do tự ti, trầm cảm, ngại tiếp xúc với thầy cô,
hoang mang, sợ hãi, tiêu cực trong suy nghĩ …
Có thể nói những tác hại do học sinh cá biệt gây ra là không hề nhỏ thậm
chí là khá nghiêm trọng. Nó làm ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chung,
phong trào thi đua của nhà trường, trật tự an ninh của xã hội, hạnh phúc của gia
đình và nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng trực tiếp đến tương lai, cuộc sống của
các em sau này.
3. Nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng của học sinh nữ cá biệt: Có
nhiều nguyên nhân.
''Nhân chi sơ, tính bản thiện'' đây là câu nói của Khổng Tử trong Nho
giáo. Câu này có ý nghĩa là con người sinh ra bản tính ban đầu vốn thiện và tốt
lành, khi lớn lên do ảnh hưởng của đời sống xã hội mà tính tình trở nên thay đổi,
tính ác có thể phát sinh, do đó cần phải luôn được giáo dục, giữ gìn và rèn luyện
cho đời sống lành mạnh thì tính lành mới giữ được và phát triển để tính giữ
không có điều kiện nảy sinh.
Còn theo quan điểm triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin ''Bản chất con
người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội''. Như vậy những biểu hiện của học
sinh nữ cá biệt nêu trên đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên hoặc tình
cờ mà có tất cả đều có nguyên nhân của nó. Qua quá trình giảng dạy, tìm hiểu,
tham khảo từ nhiều kênh khác nhau tôi có thể rút ra những nguyên nhân sau đây:
3.1. Ảnh hưởng từ xã hội.
Trong điều kiện kinh tế phát triển; giao lưu kinh tế - xã hội và văn hóa
rộng rãi như hiện nay bên cạnh những mặt tốt cũng kéo theo nhiều mặt xấu, nó

có phần gia tăng, phát triển các tệ nạn xã hội như các dịch vụ giải trí không lành
mạnh, phim ảnh bạo lực, tình cảm lứa đôi quá trớn…, dịch vụ internet, karaoke.
Ngoài ra những tụ điểm ăn chơi ngày càng nhan nhãn đập vào mắt các em làm

6


cho các em không tự chủ, tham gia không có ý thức dần dần tiêm nhiễm và trở
thành những học sinh hư.
3.2. Ảnh hưởng từ nhà trường.
Nhà trường là ngôi nhà thứ hai của các em, nơi để phụ huynh gửi gắm
niềm tin vào việc giáo dục con em của họ. Từ đây các em được học tập, được
hiểu biết, được lớn lên từ nhiều mặt nhưng để đạt được điều đó cũng không phải
là dễ. Vẫn còn đâu đó những thầy cô giáo chưa nhiệt tình, chưa thật sự yêu nghề,
chưa có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, chưa nhiệt tình với các em, chưa trở
thành chỗ dựa về tình thần cho các em mỗi lúc gặp khó khăn. Vẫn còn giáo viên
ngại va chạm, sợ bị xúc phạm khi đối diện với học sinh hư, chưa quan tâm phát
hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi lệch lạc của học sinh cá biệt.
3.3. Ảnh hưởng từ môi trường giáo dục gia đình.
* Gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hoặc chưa quan tâm đến con:
Từ những khó khăn về điều kiện kinh tế, cha mẹ phải lao động vất vả, cả vợ
và chồng đều đi làm ăn xa hoặc có gia đình tuy không khó khăn về kinh tế
những có tham vọng làm giàu bỏ mặc con cái cho ông bà hoặc anh (chị) em
chăm sóc lẫn nhau, một số học sinh chưa tự giác và thiếu sự quản lý chặt chẽ
của người lớn nên nảy sinh những tư tưởng không lành mạnh, từ đó mà ham
chơi, trốn học, bỏ học.
* Nhiều gia đình có cha mẹ bất hòa không hạnh phúc:
Lứa tuổi các em rất nhạy cảm những cuộc cải vả của cha mẹ, sự to tiếng
quát nạt, bạo lực của người cha làm cho các em dần dần bị ảnh hưởng từ đó nảy
sinh những việc làm không lành mạnh thích đánh nhau để giải tỏa tâm lý, bị ức

chế bỏ nhà đi chơi, không thiết tha đến việc học, từ đó học lực giảm sút dẫn đến
chán học, bỏ học.
* Những gia đình có người nghiện nhập ma túy, rượu chè, cờ bạc …
Ta thấy những em học sinh sống trong bầu không khí phi đạo đức, thiếu
lành mạnh thì việc học sinh vi phạm nội quy, vi phạm đạo đức là rất cao.
3.4. Nguyên nhân xuất phát từ bản thân học sinh.
Học sinh ở giai đoạn này tâm lý có nhiều biến đổi, lứa tuổi mà nhiều
người cho rằng ''ăn chưa no, lo chưa đến'', độ tuổi thiếu niên chuyển sang thanh
niên, nhiều học sinh muốn khẳng định mình bằng sự hiểu biết chưa hoàn thiện
của mình. Trong suy nghĩ của các em còn non nớt, nhận thức chưa cao chính vì
thế mà các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều không thể tránh khỏi.

7


Những học sinh nữ cá biệt bị bạn bè lôi kéo, ham chơi sớm có những mối
quan hệ tình yêu không lành mạnh, thích đua đòi, ăn diện… dẫn đến học tập yếu
kém, lười biếng, chán nản, muốn phá phách hoặc làm một điều gì đó để chứng
minh cái tôi, chính vì thế mà có những hành động vượt ra khỏi những quy định
chung.
Tư chất của học sinh chậm trong nhận thức, hổng kiến thức từ lớp dưới
nên chán học, thường hay nghịch phá, mất trật tự.
Sức ép của thi cử, sức ép của gia đình, nhà trường và xã hội đã khiến cho
học sinh căng thẳng rơi vào lối sống trầm cảm, tự ti về bản thân mình.
Theo xu hướng hiện nay, ảnh hưởng của phim ảnh, việc bùng nổ công
nghệ thông tin mà nhà nước ta chưa kiểm soát hết được nên vẫn có nhiều văn
hóa phẩm đồi trụy… đã tác động đến các em, trong khi đó nhận thức của các em
còn non yếu. Một số học sinh xuất hiện tình cảm đầu đời mà được gọi là tình
yêu từ rất sớm. Không ít em đã vượt quá giới hạn trong tình yêu nhưng thiếu
hiểu biết đã dẫn đến có thai, phải nạo phá thai. Việc này đã ảnh hưởng rất lớn

đến sức khỏe và việc học của các em. Thậm chí các em phải bỏ học giữa chừng,
kết hôn sớm, trở thành những người cha, người mẹ từ khi tuổi còn quá trẻ. Đây
quả là một vấn đề hết sức nhức nhối cho nhà trường, gia đình và xã hội.
* Từ thực trạng của học sinh nữ cá biệt trong nhà trường và những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng ấy. Bằng kinh nghiệm của bản thân và qua việc thực hiện giáo
dục đạo đức học sinh trong nhà trường bài viết này tôi có đưa ra một số giải
pháp để từng bước cảm hóa giáo dục những em học sinh cá biệt.
III. Những giải pháp giáo dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt ở trường
THPT Như Thanh.
1. Đối với giáo viên ở lớp có học sinh cá biệt:
Bản thân người giáo viên phải là tấm gương sáng biết tự hoàn thiện phẩm
chất, nhân cách của mình. Người giáo viên hơn ai hết cần có trí tuệ, có lương
tâm, uy tín, sống mẫu mực, tự trọng và biết giữ chữ tín trước học sinh.
Hiểu biết tâm lý lứa tuổi của học sinh vì nội tâm của các em ở lứa tuổi
này còn nhiều mặt dễ biến đổi do tâm lý chưa ổn định nhất là các em học sinh
lớp 10 và sự tác động rất lớn của xã hội, hoàn cảnh sống …
Mỗi giáo viên phải có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề yêu thương
học sinh và luôn xác định phương châm '' Tất cả vì học sinh thân yêu ''.

8


Biết tự kiềm chế, bình tĩnh trong mọi tình huống, kiên định thực hiện
thiên chức của một người kỹ sư tâm hồn. Có sự nhạy cảm sư phạm, biết dùng
yêu tố tình cảm như một nghệ thuật sư phạm để cảm hóa học sinh cá biệt.
2. Biện pháp cụ thể:
- Xác định đúng đối tượng thông qua phản ánh của lớp, của giáo viên bộ
môn, giáo viên chủ nhiệm… và của dư luận xã hội.
- Phân loại học sinh cá biệt về đạo đức, lối sống ở từng khía cạnh.
- Tìm hiểu nguyên nhân, sở trường, tính cách, hoàn cảnh của học sinh…

để hiểu rõ hơn về học sinh cần giáo dục.
- Lựa chọn phương pháp giáo dục, lên kế hoạch hợp lý và thực hiện mục
tiêu giáo dục, rút kinh nghiệm để giúp học sinh từ cá biệt đó trở về bình thường
thậm chí là tốt sau mỗi lần giáo dục.
3. Những giải pháp cụ thể giáo dục đạo đức nữ học sinh cá biệt.
3.1. Giải pháp giáo dục bằng tâm lý: Dùng tình cảm chân tình để cảm hóa
các em.
Việc giáo dục đạo đức học sinh cá biệt có thể mỗi người có một cách khác
nhau nhưng theo tôi việc giáo dục bằng sự gần gũi yêu thương là biện pháp
hữu hiệu nhất. Việc giáo dục này không phải là ảo tưởng, đây là việc làm cực kì
khó khăn đòi hỏi sự kiên trì, sự quyết tâm với nghề ''trồng người'' nhưng phải
thật sự nhẫn nại, tỉ mỉ, yêu học sinh. Hãy xem học sinh cá biệt như một ''thử
thách'' cần phải vượt qua, đừng coi đó như một tai nạn, một nỗi đau hay sự đen
đủi khi nhận dạy lớp có học sinh cá biệt mà người giáo viên phải là người có
''tâm'' vì trong mắt các em thầy cô là ''thần tượng'' đừng để ''thần tượng''
sụp đổ, các em sẽ hẫng hụt và hoàn toàn mất phương hướng.
Hầu hết nữ học sinh cá biệt không ý thức được nhiệm vụ học tập của
mình, không ý thức được vai trò của việc học tập đối với cuộc đời. Vì vậy các
em không có thói quen tự giác, việc đi học với các em chỉ để vừa lòng cha mẹ,
thầy cô, để được gặp bạn, chơi bời, không phải làm việc nhà … Từ đó giáo viên
cần có các biện pháp cụ thể:
* Người giáo viên phải tránh cái nhìn lý tưởng hóa về lớp học. Lớp nào,
trường nào cũng có học sinh cá biệt, chỉ khác là biểu hiện của cái ''cá biệt'' đó
như thế nào - số lượng ít hay nhiều.
* Không gọi các em học sinh là ''cá biệt'' trước mặt người khác. Các em
chỉ là ''học sinh chưa ngoan'' chúng ta gọi các em như vậy vô hình dung chúng ta

9



đã cố tách học sinh đó ra khỏi tập thể, cô lập các em. Như trong một câu danh
ngôn có nói: ''Nếu bạn nhìn ai đó với ánh mắt yêu thương, bạn sẽ không nhìn
thấy những nét xấu xa mà bạn sẽ chỉ nhìn thấy toàn nét đẹp mà thôi''.
* Đa số các em học sinh cá biệt cần một điểm tựa tinh thần tin cậy để có
thể được sẻ chia tâm sự, được bộc bạch những khó khăn, những nỗi niềm tâm tư
thầm kín, thầy cô sẽ trở thành một người bạn lớn của các em. Tìm cách cho các
em thể hiện cái ''tôi'' cá nhân của mình trước tập thể, không thẳng tay trừng trị
các em, đừng làm mất đi điểm tựa cuối cùng của các em. Hãy nhìn các em bằng
sự bao dung của người cha, sự nhân từ của người mẹ, sự gần gũi và cảm thông
của người anh, người chị và là sự thân thiết của người bạn.
* Thầy cô hãy nhẹ nhàng phân tích những ưu khuyết điểm trong nhận
thức và hành động, cố gắng giúp các em tư nhận ra sai lầm của mình mà không
phải mang mặc cảm nặng nề về lỗi lầm đó. Không nên la mắng các em, đe dọa,
thành kiến. Đừng nhắc đi nhắc lại nhiều lần lỗi vi phạm vì như thế các em sẽ xấu
hổ và dẫn đến chai lì.
* Học sinh cá biệt dù có hư hỏng đến đâu đi chăng nữa thì bên trong các
em vẫn luôn tiềm ẩn những nhân tố, những phẩm chất tích cực nếu dùng
phương pháp đúng chúng ta vẫn khơi gợi làm thức tỉnh các em. Khôi phục lại
niềm tin để các em thấy rằng mình không hề kém cỏi ''đồ bỏ đi''. Thầy cô hãy
nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực, đừng nghiêm trọng hóa vấn đề, hãy
tạo cho các em một lối thoát, một cơ hội để sửa chữa.
* Thầy cô hãy cố gắng nhìn nhận sự tiến bộ của các em, nên có cái nhìn
bao dung, độ lượng, chân tình, vị tha. Không nên tiết kiệm lời khen với các em
vì một lời động viên khen ngợi có giá trị hơn rất nhiều những bản kiểm điểm.
* Hãy tôn trọng quyền lựa chọn, sự quyết định của học sinh trong phạm vi
cho phép, cùng nhau xây dựng nội quy của lớp, các em sẽ tự giác thực hiện vì
nội quy đó do chính các em đưa ra.
* Phải kiên quyết cứng rắn, lời nói phải đi đôi với việc làm. Đừng hứa
suông, vận dụng linh hoạt phương pháp ''lạt mềm buộc chặt'', ''mềm nắn rắn
buông''. Dù rất gần gũi với các em nhưng luôn phải giữ một khoảng cách nhất

định của thầy trò.
3.2. Giáo dục học sinh thông qua buổi tập trung toàn trường.
- Nhà trường đầu năm học nên để cho học sinh nắm bắt được những văn
bản quy định nhiệm vụ học sinh trích: ''điều lệ trường THCS, trường THPT và

10


trường phổ thông có nhiều cấp học (ban hành kèm theo thông tư số 12/2011/TTBGDĐT ngày 28/03/2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)''.
Điều 38: Nhiệm vụ của học sinh.
Điều 39: Quyền của học sinh.
Điều 40: Hành vi, ngôn ngữ ứng xử, trang phục của học sinh.
Điều 41: Các hành vi học sinh không được làm.
Điều 42: Khen thưởng và kỷ luật.
Hiểu được những quy định này ngay từ đầu năm học các em sẽ tránh được vi
phạm mà mình gặp phải, để khỏi phải bị xếp loại hạnh kiểm yếu và phải liệt kê
vào danh sách học sinh cá biệt.
- Tổ chức cho học sinh thảo luận nội quy nhà trường và hướng dẫn cho
các em thực hiện nội quy, có chế độ khen chê công bằng, khách quan.
- Trong buổi chào cờ đầu tuần cần nhận xét đánh giá chu đáo, nêu gương
người tốt việc tốt để các em noi theo, hạn chế những vi phạm nội quy lớp học trường học.
- Nhà trường nên tổ chức họp hội đồng kỷ luật học sinh theo từng tháng
để ngăn chặn kịp thời những sai phạm của các em học sinh cá biệt.
- Tăng cường giáo dục pháp luật, giáo dục giới tính, giáo dục kĩ năng sống
vào trường học để khi gặp phải những tình huống bất ngờ các em biết bình tỉnh
xử lý hiệu quả nhất.
3.3. Giáo dục học sinh thông qua giáo viên chủ nhiệm
- Ngoài việc giáo dục học sinh thông qua buổi tập trung toàn trường; việc
sinh hoạt lớp, sinh hoạt 10 phút đầu giờ cũng rất quan trọng bởi vì thông qua giờ
sinh hoạt giáo viên chủ nhiệm, cán bộ lớp kịp thời uốn nắn những sai trái khuyết

điểm của học sinh.
- Trong khi giáo dục các em, giáo viên chủ nhiệm không nên nặng nề
kiểm điểm, phê bình mà tìm và xác định đúng nguyên nhân đã tác động đến các
em làm cho các em mắc phải sai lầm; vận dụng những điều khoản trong nội quy
của thông tư 40 chỉ ra cho các em thấy được mình vi phạm ở mức độ nào và nêu
ra hướng cho các em khắc phục .
- Qua các hoạt động tập thể như văn nghệ, thể thao, tìm hiểu pháp luật …
giáo viên chủ nhiệm cần theo dõi từng hoạt động của các em: say mê, hứng thú,
nhiệt tình, hay không thích thì né tránh … từ việc theo dõi giáo viên chủ nhiệm
có những biện pháp phát huy sở trường của từng em và lấy đó làm đòn bẩy đề
tiến hành ngăn chặn tiêu cực khác nảy sinh ở các em. Lôi kéo các em hòa nhập

11


với các cuộc chơi bổ ích như thế từ đó xóa bỏ mặc cảm mình là học sinh hư để
rồi cùng với các thành viên trong lớp xây dựng tập thể lớp vững mạnh.
- Thông qua nhận xét từ sổ đầu bài, qua giáo viên bộ môn; quan ban theo
dõi nền nếp của nhà trường, qua ban cán sự lớp để nắm bắt tình hình học sinh cá
biệt.
- Giáo viên nên dành thời gian đến thăm nhà của học sinh để biết về hoàn
cảnh sống, đặc điểm gia đình của từng em mà tìm ra biện pháp giáo dục hợp lí.
3.4. Giáo dục kết hợp với phụ huynh học sinh.
Hội phụ huynh học sinh là cầu nối giữa nhà trường, giáo viên chủ nhiệm
với gia đình học sinh. Tổ chức hội ngoài việc giúp nhà trường xây dựng cơ sở
vật chất còn góp phần cùng nhà trường giáo dục học sinh cá biệt.
Trong những năm qua hội phụ huynh học sinh đã giúp cho nhà trường,
giáo viên chủ nhiệm bằng cách tác động với phụ huynh để giáo dục học sinh cá
biệt từ chỗ bỏ học, trốn tiết … đến việc thực hiện nghiêm túc nội quy.
- Hội phụ huynh học sinh tác động đến gia đình các em để cha mẹ các em

quan tâm và có trách nhiệm đối với con cái của họ hơn.
- Giáo viên có thể trao đổi qua các cuộc họp phụ huynh chung của lớp để
báo cáo kết quả rèn luyện của từng em và có thể mời phụ huynh các đối tượng
này ở lại trao đổi riêng, tránh sự mặc cảm của phụ huynh.
- Giáo viên lập kế hoạch đi thăm gia đình học sinh cá biệt, gặp gỡ trực
tiếp cha mẹ học sinh hoặc người đỡ đầu nếu bố mẹ học sinh đó mất hoặc đi làm
xa sẽ hiểu hơn hoàn cảnh học sinh hoặc lựa chọn hình thức trao đổi thông tin
bằng điện thoại, sổ liên lạc …
- Đặc biệt với học sinh hay nghỉ học, bỏ giờ, nếu nghỉ học không có lý do
hoặc giấy phép nhưng không có chữ ký phụ huynh hoặc chữ ký không đúng.
Giáo viên nên gọi điện trực tiếp cho gia đình học sinh để xác định thông tin và
chấn chỉnh kịp thời.
Công tác phối kết hợp giáo dục học sinh nữ cá biệt giữa nhà trường và
phụ huynh không thể xem nhẹ, cần tác động, phối hợp thường xuyên; về phía
phụ huynh phải có trách nhiệm quan tâm, giáo dục uốn nắn con em, cho ký cam
kết ''không được đùn đẩy tất cả trách nhiệm cho giáo viên, nhà trường''.
3.5. Giáo dục thông qua bạn bè của học sinh cá biệt.
- Giáo viên thông qua bạn bè thân thiết với học sinh đó để thu thập thông
tin, hướng dẫn các em gần gũi và giúp đỡ bạn tạo được quan hệ tốt và nhất là tạo
cho những em cá biệt có niềm tin với chính mình. Trong quan hệ bạn bè các em

12


sẽ bộc lộ rõ cá tình không e ngại. Tạo cho các em ngoan thuyết phục, giúp đỡ
học sinh cá biệt tiến bộ.
- Mặt khác thông qua nhóm bạn tốt, giáo viên chủ nhiệm giao cho học
sinh cá biệt thực hiện một số công việc của lớp, tạo điều kiện để những học sinh
này hoàn thành và động viên khích lệ các em để xóa đi những tự ti, mặc cảm để
hòa mình với bạn bè, với tập thể lớp.

- Ngoài ra có thể vận động gia đình của nhóm bạn tốt tham gia vào việc
giúp đỡ những học sinh này bằng cách tạo cho các em tâm lý xem gia đình của
bạn như gia đình mình, tạo điều kiện cho các em tham gia học tập với con em
mình để tách dần ra khỏi nhóm bạn chưa ngoan.
3.6. Giáo dục học sinh bằng việc kết hợp giữa các đoàn thể trong nhà
trường.
* Kết hợp với tổ chức Đoàn Thanh niên.
- Tổ chức này thường xuyên theo dõi các hoạt động của toàn trường và
từng lớp về nề nếp.
- Đẩy mạnh việc đổi mới các hoạt động tập thể như vui chơi giải trí, thể
thao, văn nghệ, sưu tầm và đưa các trò chơi dân gian, có thể sáng tạo các trò
chơi dân gian cho phù hợp với thời đại ngày nay vào trong nhà trường.
- Tổ chức các buổi hoạt động thăm quan giả ngoại để lôi cuốn các em đến
trường.
- Tổ chức các buổi ngoại khóa để lồng ghép việc tuyên truyền giáo dục
các phạm trù đạo đức cho học sinh, nhất là học sinh cá biệt.
- Kết hợp với các địa phương trong huyện tìm công việc phù hợp cho các
em lao động để gây quỹ giúp các em có hoàn cảnh khó khăn. Qua những buổi
lao động các em mới thấu hiểu vai trò của người lao động, thương bố mẹ phải
vất vả nuôi con ăn học, đến lớp đến trường.
- Động viên các em tham gia những công việc tình nguyện - tiếp xúc với
những gia đình nghèo có hoàn cảnh khó khăn để các em có cái nhìn vào thực tế
và đồng cảm với họ. Từ đó đánh vào nhận thức, suy nghĩ và các em sẽ sống và
hành động khác đi.

13


* Kết hợp với bộ phận chuyên môn nhà trường.
Nhà trường thành lập lớp phụ đạo cho các em học sinh yếu, giáo viên phải

có trách nhiệm vận động để các em tham gia học tập; thường xuyên theo dõi,
động viên.Bộ phận chuyên môn theo dõi và có đề nghị xử lý những em không
tham gia đầy đủ các buổi học cũng như vô kỷ luật khi tham gia lớp học.
* Kết hợp với nữ công trong nhà trường.
- Đối với mỗi giáo viên trong trường phải xem học sinh nữ cá biệt như
những đứa con, em của mình đang gặp phải sai lầm, lạc hướng. Vì thế cần phải
giang rộng vòng tay để che chở, uốn nắn, động viên, khuyên nhủ để các em nhận
thức được sai lầm của mình và thay đổi. Từ đó trong suy nghĩ của các em sẽ
thấy rằng mỗi cô giáo như người mẹ thứ hai của mình.
- Duy trì việc tổ chức lớp học ''Sức khỏe sinh sản vị thành niên'' để phần
nào cung cấp cho các em có kiến thức để tự bảo vệ sức khỏe chính mình và có
lối sống lành mạnh hơn trong tình bạn, tình yêu.
- Ban nữ công trong nhà trường cần tổ chức những lớp học rèn luyện kỹ
năng sống cho các em nữ sinh trong trường.
- Tổ chức các hội thi tài năng để các em có cơ hội thể hiện năng khiếu của
mình.

14


- Cần phối kết hợp giữa ban nữ sinh - nữ công của nhà trường dành những
buổi trao đổi nói chuyện, tâm sự riêng với những nữ sinh cá biệt để thấu hiểu và
lắng nghe những tâm sự của các em. Từ đó để đưa ra biện pháp giáo dục cho
thích hợp.

3.7. Phối kết hợp với các đoàn thể khác trong xã hội:
Hiện nay ở các địa phương đã xây dựng khu dân cư, thôn văn hóa … đó là
điều kiện tốt để các đoàn thể cùng với nhà trường giáo dục học sinh như: phối
hợp với Hội phụ nữ, Hội CCB, Hội người cao tuổi, Ban an ninh trật tự xã hội …
thông qua họ để có thể tâm sự hoặc răn dạy, thuyết giảng cho cả học sinh và bố

mẹ các em thấy được những hành động, việc làm của con em mình đúng hay sai.
Từ đó giúp cho việc xây dựng gia đình văn hóa, hạn chế tình trạng gia đình bất
hòa hoặc bỏ mặc con cái để hướng các em vào môi trường tốt đẹp hơn của xã
hội.

15


3.8. Giáo dục bằng các hình thức khác.
- Dùng hình thức viết thư tay.
- Dùng các trang mạng xã hội như: facebook, zalo … đây là những sân
chơi rất tự do, thoải mái để các em giải bày cá tình, tâm tư của mình. Có những
điều chúng ta không thể hiện trực tiếp được nhưng thông qua các trang trên
mạng xã hội này để quan hệ giữa thầy và trò thấu hiểu nhau hơn. Từ đó cảm hóa
được các em dễ dàng hơn.
IV. Kết quả của quá trình nghiên cứu.
Đứng trước thực trạng của xã hôi có nhiều những vấn đề phức tạp hàng
ngày đang diễn ra và đang len lỏi vào lứa tuổi học đường, bản thân tôi đã nhận
thấy việc giáo dục nhân cách cho học sinh nữ là rất quan trọng và cần thiết vì thế
tôi đã vận dụng linh hoạt, áp dụng các giải pháp giáo dục trên và cũng đã thu
được nhiều kết quả rất khả quan.
Năm học 2012 - 2013 em Hà Thị Sinh dân tộc Thái thuộc xã Xuân Thái.
Bố bị tai nạn qua đời - mẹ thì ốm đau, nhà có nhiều em, bản thân em Sinh là chị
cả trong gia đình. Năm học lớp 12 em có ý định bỏ học để ở nhà giúp đỡ mẹ và
nuôi em. Khi đến gia đình thăm, tiếp xúc với người mẹ tôi đã biết được ý định
của em và hoàn cảnh gia đình nên với cương vị một giáo viên chủ nhiệm của lớp
tôi đã tâm sự với em và tìm ra hướng giải quyết sau đó tập thể lớp đã họp và
bằng tinh thần đoàn kết các bạn trong lớp đã trao đổi với bố mẹ của mình để
giúp đỡ em Sinh bằng cả vật chất và tinh thân để em tiếp tục học hết lớp 12. Sau
khi tốt nghiệp em đã đi làm giúp đỡ gia đình ổn định.

Khóa học 2013 - 2016 Em Trần Thị Lệ lớp A6 thuộc xã Yên Thọ. Sau khi
bố em phản bội mẹ đi với người phụ nữ khác bỏ mặc hai mẹ con sống với nhau.
Điều này đã làm ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý của em. Năm lớp 10 em chán nản
định nghỉ học, em đã sống lầm lì, tự ti, ít giao tiếp với bạn bè trong lớp. Khi biết
được thông tin này tôi đã gặp và tâm sự động viên hai mẹ con. Xin cho em Lệ
đến ở với tôi một tuần. Sau đó em đã dần dần lấy lại được cân bằng và sống hòa
đồng với bạn bè trong lớp. Em làm lớp phó học tập của lớp tôi nên năm nào em
Lệ cũng đạt kết quả cao. Bây giờ ra trường đi làm em đã trở thành một doanh
nhân thành đạt.
Khóa học 2012 - 2015 em Quách Thị Thanh Lịch là học sinh lớp B9
người dân tộc Mường xã Mậu Lâm là học sinh lớp thầy Nguyễn Hữu Hoàng chủ
nhiệm. Em là học sinh cá biệt trong lớp, em thường xuyên gây gỗ đánh nhau ở
ngoài trường, ăn mặc thì phản cảm, trong giờ học hay nói chuyện riêng làm ảnh

16


hưởng tới lớp học khiến thầy giáo chủ nhiệm và nhiều giáo viên khác phải bực
mình. Em không phải là một học sinh có học lực yếu nhưng vì thực hiện nền nếp
không tốt nên nhiều lần họp hội đồng kỷ luật của nhà trường đều có tên em.
Năm học lớp 12 em có những biểu hiện chưa đúng mực với thầy cô và đã đăng
những dòng tâm sự lên facebook. Tôi vào mạng và thấy có nhiều học trò cá biệt
đã vào đó để like và những dòng bình luận đọc vào thấy rất khó chịu … tôi đã
gọi em đến và tâm sự. Sau một buổi trò chuyện cuối cùng em ấy đã khóc, mượn
điện thoại của tôi để rút những dòng đăng trên tường của facebook xuống và
thay vào đó bằng lời xin lỗi và ân hận của mình. Chưa hết, hôm lớp được nghỉ
buổi học thêm em Lịch đã theo các bạn đi nhuộm tóc với một màu vàng rực - lúc
trở về vô tình em có gặp tôi. Tôi đã phát hiện và sững sờ trước việc làm của em,
bằng trách nhiệm nên không thể thờ ơ trước điều đó. Tôi đã gọi em trở lại
khuyên nhủ, phân tích … Sáng hôm sau em đến trường với một mái tóc đen trở

lại. Cuối năm lớp 12 em xếp hạnh kiểm khá và được dự thi tốt nghiệp. Bây giờ
ra trường, đi làm em vẫn thường xuyên gọi điện, tâm sự với tôi và hối hận tại
sao ngày trước đi học em lại làm khổ thầy cô giáo nhiều như vậy.
Ngoài ra còn có em Cao Thị Quỳnh lớp B6 khóa học 2014 - 2017 quê ở
Vạn Thắng - Nông Cống. Năm học lớp 10 em này thường xuyên đánh nhau
ngoài trường, uống rượu bia, hút thuốc … qua tìm hiểu tôi biết được mẹ em là
một thợ may, còn bố em thường xuyên ghi đề, đánh bài, vào ra tù nhiều lần.
Bằng tình yêu thương, của người giáo viên với học trò tôi đã thường xuyên nhắc
nhở, động viên, khuyên bảo em bỏ đi những thói hư tật xấu. Lên lớp 11, 12 em
này đã thay đổi hoàn toàn và còn được nhận giấy khen. Mỗi lần gặp lại cô trò có
nhiều kỷ niệm để ôn lại trong đó có cả nỗi buồn lẫn niềm vui …
Ngoài những học sinh kể trên còn những em học sinh khác như: Nguyễn
Thị Trang lớp C9, Lê Thị Vân Anh lớp C5, Nguyễn Thị Hiếu lớp A8 … và nhiều
em học sinh cá biệt khác nữa trong trường qua quá trình giáo dục các em đã có
sự tiến bộ rất nhiều.
* Qua quá trình thực hiện giải pháp tôi đã rút ra một số kinh nghiệm như
sau:
- Phải có niềm tin ở các em.
- Điều tra nắm rõ nguyên nhân của hiện tượng cá biệt.
- Nắm rõ tâm lý của từng đối tượng để tìm ra giải pháp thích hợp trong
việc giáo dục.

17


- Khi tiến hành các biện pháp không được nôn nóng giải quyết tất cả sai
phạm cùng một lúc mà nên phân phối thời gian chọn ra những sai phạm gì cấp
bách hoặc vấn đề cơ bản thì giải quyết trước.
- Nên có sự thông cảm chia sẻ với các em - không yêu cầu quá cao.
- Luôn tạo mối quan hệ gần gũi để cảm hóa các em.

- Giáo viên phải biết phối kết hợp với các bộ phận - đoàn thể khác trong
nhà trường.
KẾT LUẬN CHUNG
1. Kết luận:
Giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức
tạp; đòi hỏi người giáo viên luôn có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự
cố gắng và nổ lực của chúng ta sẽ là chiếc chìa khóa để các em bước ra một
cuộc đời mới và không phải học sinh cá biệt nào cũng giáo dục thành công. Dù
vậy, chúng tôi vẫn đang hàng ngày nổ lực, cố gắng, học hỏi để thực hiện tốt
công việc này.
Trường THPT Như Thanh là một địa chỉ đáng tin cậy đối với các em học
sinh và cha mẹ học sinh trong huyện, trong tỉnh. Tập thể cán bộ giáo viên, nhân
viên của nhà trường không chỉ cố gắng nâng cao về trình độ chuyên môn mà còn
đặc biệt chú ý đến công tác giáo dục về đạo đức, nhân cách cho học sinh, trong
đó có công tác giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt. Đã có nhiều thế hệ học
sinh cá biệt chưa ngoan nhưng qua ba năm học tập tại trường các em đã thực sự
trưởng thành tự tin và có ý thức tốt trong cuộc sống.
2. Đề xuất, kiến nghị:
Để giáo dục đạo đức tốt cho học sinh nữ cá biệt, qua nghiên cứu tôi có
một số đề xuất sau:
- Trước hết mỗi giáo viên phải gương mẫu, yêu trò, yêu nghề để học sinh
học tập và noi theo.
- Phân tích cụ thể các đối tượng học sinh cá biệt.
- Kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên bộ môn - giáo viên chủ nhiệm - các
đoàn thể trong nhà trường, gia đình và xã hội.
- Đề nghị tăng thêm số tiết cho giáo viên làm công tác chủ nhiệm bởi
những người giáo viên này rất vất vả, tốn nhiều thời gian khi giáo dục những
học sinh cá biệt.
- Tăng cường những buổi dạy kĩ năng sống, những giờ ngoại khóa cho
học sinh.


18


- Đề nghị Sở Giáo dục - Đào tạo có những lớp học chuyên đề trong việc
giáo dục đạo đức cho học sinh nhất là học sinh nữ.
- Ban nữ sinh - Ban giám hiệu nhà trường cần quan tâm hơn nữa về đạo
đức học sinh nữ trong nhà trường.
- Cần giáo dục các em một cách từ từ, từng bước bằng việc thuyết phục là
chính.
- Nhà trường kết hợp với chính quyền địa phương để giáo dục học sinh.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân trong quá trình giáo
dục đạo đức cho học sinh nữ cá biệt. Trong phần trình bày chắc hẳn không tránh
khỏi sai sót, rất mong được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và ban giám khảo.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày…. tháng ....năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Bùi Thị Thường

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm - NXB giáo dục năm 1995.
2. Tâm lí học sư phạm. Trường ĐHSP Hà Nội năm 1994.

3. Tổ chức hoạt động giáo dục. Hà Nội năm 1996.
4. Lí luận quản lí giáo dục và phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục - Tập 2.
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003.
5. Từ điển tiếng Việt
6. Các báo: - Báo giáo dục và thời đại.
- Báo Hoa học trò.
- Báo dân trí…
7. Điều lệ trường THCS, THPT có nhiều cấp học.

20



×