Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số giải pháp nâng cao nề nếp trong công tác chủ nhiệm ở trường THPT miền núi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.83 KB, 12 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo là sự nghiệp chung của toàn xã hội nhưng
trong đó thầy cô giáo có vai trò và sứ mệnh lớn lao nhất. Ở trường học giáo viên
không chỉ truyền thụ kiến thức của các môn học mà còn có trách nhiệm thương
yêu, quan tâm, chăm sóc để học sinh trở thành người tử tế, có nhân cách.
Giáo dục ở bậc THPT có nhiều thuận lợi song cũng có vô vàn thử thách. Lứa
tuổi THPT khá năng động, sôi nổi, ham hiểu biết, có mục đích trong học tập, độ
tuổi này học sinh bắt đầu hình thành chiều sâu trong suy nghĩ. Song các em vẫn còn
nông nổi, bồng bột, dễ bị tác động, lôi kéo bởi nhiều điều xấu dẫn đến sa ngã, hư
hỏng. Những thay đổi về tâm sinh lí của lứa tuổi vị thành niên khiến các em thường
mất khả năng kiểm soát bản thân [2].
Mười năm dạy học giúp tôi nhận ra rằng một giáo viên chủ nhiệm có tâm, có
kinh nghiệm sẽ tác động vô cùng tích cực đến cuộc đời học sinh. Vì thế có thể
khẳng định giáo viên chủ nhiệm có một vai trò rất lớn, nói đúng hơn giáo viên chủ
nhiệm có vị trí quan trọng nhất trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng
đạo đức và hoàn thiện nhân cách của học sinh.
Có điều công tác chủ nhiệm chưa bao giờ là việc làm dễ dàng. Công tác này
đòi hỏi sự khéo léo, linh hoạt và nhiệt tâm của mỗi giáo viên. Vấn đề này càng trở
nên nan giải hơn với chúng tôi – những giáo viên chủ nhiệm tại các trường THPT
miền núi, nơi có hơn 80% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, trình độ dân trí
thấp, còn tồn tại nhiều tập tục và thói quen lạc hậu, giáo dục chưa được phụ huynh
xem trọng, cơ sở vật chất, hạ tầng thiếu thốn…
Qua đề tài “Một số giải pháp nâng cao nề nếp trong công tác chủ nhiệm ở
trường THPT miền núi” tôi sẽ đưa ra những kinh nghiệm thực tiễn để đóng góp
cùng đồng nghiệp trong việc nâng cao hơn hiệu quả công tác giáo dục, nhất là giáo
dục học sinh ở vùng núi.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Quản lí lớp học hay công tác chủ nhiệm có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo
dục toàn diện một con người. Nhưng trên thực tế ở nhiều trường, nhiều nơi lại chưa
quan tâm đúng mức vai trò của giáo viên chủ nhiệm. Thêm nữa một số thầy cô làm


công tác chủ nhiệm còn tỏ ra lúng túng, sử dụng phương pháp quản lí lớp thiếu hiệu
quả, thậm chí gây tổn hại về thể chất cũng như tinh thần của học sinh. Được kinh
qua công tác chủ nhiệm, nhất là trong năm học 2016 – 2017 tôi là giáo viên chủ
nhiệm của một lớp học sinh được đánh giá là ý thức kém nhất trường, tôi rút ra
được những kinh nghiệm nhỏ và mong muốn được chia sẻ về giải pháp có thể sử
dụng để nâng cao nề nếp do lớp mình quản lí, hi vọng sẽ giúp các giáo viên chủ
nhiệm thực hiện hiệu quả hơn phần việc mình được nhà trường giao cho.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
PGS.TS Đặng Quốc Bảo – Học viện quản lý Giáo dục từng cho rằng giáo
viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông là nhà quản lý không có dấu đỏ. Theo đó,
giáo viên chủ nhiệm trong trường phổ thông là linh hồn của lớp học [1]. Rõ ràng
1


học trò có tiến bộ hay không, lớp học có ngoan hay không phụ thuộc rất nhiều vào
giáo viên chủ nhiệm. Điều này càng đúng hơn với những lớp học THPT ở miền núi,
bởi đa phần học sinh ở đây đều phải trọ học xa nhà, gia đình không thực sự quan
tâm đến việc học tập và rèn luyện của con cái, giao phó, ỷ lại hết cho nhà trường.
Vì thế học sinh đạt được kết quả học tập và rèn luyện tốt hầu hết là do sự quan tâm,
quản lí của giáo viên mà “công trạng” này phải kể đến trước tiên là giáo viên chủ
nhiệm. Do vậy, trong đề tài này, tôi tập trung vào những giải pháp giúp các giáo
viên chủ nhiệm ở vùng núi đạt được hiệu quả về quản lí nề nếp lớp học trong quá
trình công tác.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Tiến hành thực hiện đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: thu thập thông tin thông qua đọc sách
báo, tài liệu nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở
cho lý luận của đề tài.
- Phương pháp quan sát: nhằm thu thập những số liệu, thông tin về quá trình
diễn biến của học sinh trong học tập và rèn luyện.

- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: thông qua phiếu
trả lời câu hỏi để có những thông tin cần thiết về ước mơ, mong muốn của học sinh về
nghề nghiệp, việc làm, về gia đình, thầy cô, về khó khăn trong học tập và cuộc sống …
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu: sau khi đã thu thập được thông tin từ
học sinh sẽ tiến hành xử lí số liệu, thống kê để sắp xếp thứ tự các khó khăn, mong
ước, nguyện vọng của học sinh…
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề
Nhiệm vụ và mục tiêu của nhà trường là đào tạo thế hệ trẻ trở thành lớp
người có nhân cách, có tri thức. Nói về giáo dục, người xưa đã khẳng định “Tiên
học lễ, hậu học văn”, câu nói chính là khuyên chúng ta nên học cách ứng xử, đối
nhân xử thế với người khác trước rồi sau đó mới bàn đến vấn đề học hỏi những
kiến thức văn hóa. Bác Hồ kính yêu của chúng ta cũng từng nói: “Người có tài mà
không có đức là người vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó”. Như vậy, một lần nữa ta thấy rèn luyện nhân cách, phẩm chất đạo đức là
nhiệm vụ đầu tiên, hàng đầu trong hệ thống trường học và người thực hiện điều này
hiệu quả nhất không ai khác là giáo viên chủ nhiệm.
Tác giả Vũ Tuấn Phong của báo Giáo dục và Thời đại cho rằng: có thể coi
GVCN như một nhà quản lý với các vai trò: Người lãnh đạo lớp học; Người điều
khiển lớp học; Người làm công tác phát triển lớp học; Người làm công tác tổ chức
lớp học; Người giúp hiệu trưởng bao quát lớp học; Người giúp hiệu trưởng thực
hiện việc kiểm tra sự tu dưỡng và rèn luyện của HS; Người có trách nhiệm phản hồi
tình hình lớp [1]… Nhưng đúng như một PGS.TS - một nhà giáo dục nổi tiếng đã
có lần phát biểu: Chúng ta hay đề cao việc dạy chữ, coi nhiệm vụ hàng đầu ở
trường học là giáo dục tri thức mà chưa chú trọng lắm về việc giáo dục phẩm chất,
nhân cách cho học sinh nên học sinh có hành vi lệch chuẩn ngày càng tăng. Hơn
2


nữa xã hội càng hiện đại thì những giá trị cổ truyền ngày càng mai một kéo theo đó

là sự băng hoại đạo đức của một bộ phận giới trẻ, trong đó có không ít những học
sinh đang ngồi trên ghế nhà trường [2].
Với sứ mệnh “trồng người” công tác chủ nhiệm rõ ràng là một nghệ thuật, đó
là nghệ thuật quản lí và nghệ thuật giáo dục. Để giáo dục học sinh trở thành con
ngoan, trò tốt, người GVCN phải nắm bắt được tâm lí, tích cách, đặc điểm, những
mặt mạnh cũng như hạn chế của học sinh, với học sinh dân tộc thiểu số còn phải
nắm được tập quán, phong tục của các em. Có như vậy mới dìu dắt, giúp đỡ các em
tiến bộ, thay đổi được thói hư, tật xấu, thích thú đến lớp, đến trường.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Ở trường THPT Quan Hóa, để có kết quả giáo dục tốt nhất, nhà trường mỗi
năm học đều lập 2 lớp mũi nhọn là lớp A1 và lớp A2 ở mỗi khối. Những lớp này
hội tụ hết các học sinh ngoan, có năng lực học tập, có mục đích học rõ ràng, phụ
huynh quan tâm đến việc học của con cái. Như vậy các lớp còn lại, nhất là các lớp
cuối như A4, A5 thường là các đối tượng học sinh học kém nhất khối và tất nhiên đi
đôi với đó là ý thức, nề nếp “cuối bảng” của trường. Mấy năm gần đây hệ thống lớp
A4 của các khối đều luôn là “nỗi ám ảnh” với các giáo viên giảng dạy bộ môn và là
vấn đề nan giải của GVCN, của nhà trường trong quá trình giáo dục bởi sự lì lợm, ý
thức tổ chức kỉ luật kém, thậm chí là cá biệt của các em.
Ngay từ đầu năm học 2016 - 2017, tôi được nhà trường phân công giảng dạy
môn Ngữ văn ở lớp 11a4 – một trong những lớp luôn khiến các thầy cô bị “tăng
xông” khi vào giảng dạy. Kể cả một số giáo viên kì cựu, có thâm niên và kinh
nghiệm trong nghề khi dạy lớp này cũng phải kêu than. Bản thân là một giáo viên
được xem là nghiêm khắc nhưng giảng dạy ở lớp này tôi cũng “bở hơi tai” sau khi
rời lớp. Song GVCN lớp khi được tôi trao đổi về tình hình lớp đã tâm sự rằng tiết
học của tôi là một trong những tiết các em nghiêm túc và hứng thú nhất còn những
giáo viên khác, đặc biệt các giáo viên non kinh nghiệm thì tiết học quả thật vô cùng
vất vả cho thầy cô bởi nhắc được nhóm này thì nhóm khác lại nói chuyện, làm việc
riêng, một số thì ngủ gục, không ghi bài, bỏ tiết…
Với thực trạng này lớp 11A4 luôn là lớp có số học sinh nghỉ học nhiều nhất
trường. Trong tất cả các buổi giao ban của trường, lớp này luôn nằm trong số 3 lớp

có học sinh nghỉ học đặc biệt là nghỉ học vô lí do nhiều nhất. Còn tình trạng học
sinh bỏ tiết, đi học muộn, làm việc riêng, không học bài cũ, sử dụng điện thoại, nói
tục, thậm chí vô lễ với giáo viên … thì diễn ra thường xuyên như cơm bữa. Kết quả
thi đua cuối học kì 1, lớp 11A4 đứng thứ 14/14 lớp của trường.
Sang học kì 2 của năm học, nhà trường phân công lại nhiệm vụ và giao cho
tôi công việc không chỉ giảng dạy môn Ngữ văn ở 11A4 mà còn kiêm luôn công tác
chủ nhiệm lớp này. Ban đầu tôi cũng khá hoang mang bởi bản thân chưa bao giờ
phải chủ nhiệm một lớp ý thức kém đến vậy. Nhiều đồng nghiệp tỏ ra cảm thông và
ái ngại cho tôi trước nhiệm vụ này. Rồi tôi tự thấy đỏ mặt khi nghe đến câu hát của
Trần Long Ẩn: “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai?”. Hơn
nữa, có phải nhiều điều tốt đẹp ở các em chưa được đánh thức? Hãy là người khơi
3


dậy những “vẻ đẹp tiềm ẩn” ấy. Thế nên điều tôi đau đáu là tìm các giải pháp tích
cực, hiệu quả để nâng cao ý thức, cải thiện nề nếp của lớp, giúp các em có lại được
kiến thức, hứng thú học tập, mục đích học tập và đặc biệt là hình thành nhân cách.
Đây chính là nền tảng để các em trở thành người con hiếu thảo, người học trò tốt,
con người có ích cho bản làng, xã hội.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
Qua điều tra, tìm hiểu, tôi rút ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
trạng nề nếp “cuối hạng” của lớp mình như sau:
- Là lứa tuổi cần nhất sự quan tâm, gần gũi, giám sát của cha mẹ nhưng
26/35 học sinh của lớp phải trọ học bởi trường quá cách xa gia đình (số còn lại
không trọ học nhưng khoảng cách từ nhà đến trường cũng phải từ 9 - 12km). Từ đó
khó khăn cho gia đình trong việc quản lí việc học tập, sinh hoạt, rèn luyện của con
em.
- Do đặc thù của người dân tộc thiểu số, cha mẹ các em vô cùng nuông
chiều, tin tưởng vào con cái, đáp ứng đa số những yêu cầu của các em, không giám
sát các em thường xuyên và kĩ càng.

- GVCN trước đó còn non kinh nghiệm, là người không dứt khoát, luôn sợ
mất lòng người khác kể cả học sinh nên quản lí lớp học không hiệu quả.
- Nhiều học sinh sa vào các cám dỗ: nghiện trò chơi điện tử (17/19 học sinh
nam thường xuyên chơi điện tử, trong đó có 3 em nghiện nặng), toàn bộ học sinh
nam của lớp đều biết và đã từng say rượu (có 6 em uống rượu thường xuyên vào
các bữa cơm trưa), nợ quán…
- Hầu hết điều biết yêu đương, có bạn trai, bạn gái, thậm chí có 1 HS nữ là
em Hà Thị Hạnh yêu sâu nặng đến độ gia đình hai bên đã gặp mặt nhau và cho các
em yêu đương công khai.
- Gần như toàn bộ các em trong lớp không có mục đích học tập, cho rằng chỉ
cần cố học hết lớp 12 để lấy bằng tốt nghiệp THPT theo yêu cầu của cha mẹ là đủ.
- Lực học của cả lớp yếu, thậm chí thuộc loại kém dẫn đến các em chán nản,
không muốn đến lớp hoặc đến lớp rồi nhưng không chú tâm học tập, sẵn sàng bỏ về
ở những tiết học cảm thấy khó hiểu, thấy giáo viên dễ tính.
Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm của năm học 2016-2017, tôi đã thực
hiện một số phương pháp, giải pháp theo trình tự sau và nhận thấy đạt được những
hiệu quả thiết thực:
Thứ nhất: lập kế hoạch chủ nhiệm, thực sự bám lớp
Qua nghiên cứu, đặc biệt là những môđun từ tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
dành cho giáo viên THPT, tôi đã lập ra một kế hoạch chủ nhiệm của riêng mình cho
phù hợp với thực tế công tác. Gọi là kế hoạch chủ nhiệm của riêng tôi bởi bản kế
hoạch này đồng thời cũng là một cuốn sổ ghi chép. Ở đó có kế hoạch chung cần
thực hiện cho lớp theo từng tuần, từng tháng dựa trên việc tìm hiểu những khó
khăn, thuận lợi, những tồn tại của lớp. Với một số lượng lớn tồn tại cần giải quyết ở
lớp, tôi xác định không thể cùng một lúc giải quyết hết được, vì thế tôi chia và sắp
xếp những vi phạm của các em theo thứ tự ưu tiên để “triệt tiêu” dần. Thứ tự này
4


dựa vào tần số mắc lỗi của các em. Đầu tiên sẽ là giải quyết dứt điểm việc nghỉ học

nhiều, đặc biệt nghỉ học vô lí do. Ưu tiên thứ hai là chấm dứt tình trạng đi học
muộn. Thứ tự tiếp theo là tình trạng bỏ tiết; trang phục và đầu tóc; không tham gia
lao động, không tham gia các hoạt động của lớp, của Đoàn, của nhà trường; vô ý
thức, vô lễ với giáo viên; nói tục, chửi bậy; làm việc riêng, sử dụng điện thoại khi
tham gia các hoạt động giáo dục… Bản kế hoạch này còn là nơi ghi chép tất cả
những thông tin về các em, mỗi em có 3 trang giấy trong đó ghi chép về địa chỉ,
hoàn cảnh gia đình, tính cách, những ưu điểm, hạn chế, nguyện vọng và những vi
phạm, những tiến bộ của các em, những biện pháp đã sử dụng để giáo dục các
em…
Một việc làm vô cùng hiệu quả nữa đó là thực sự bám lớp, bám trường.
Nghĩa là GVCN luôn đến sớm, không vắng mặt buổi nào trong các giờ sinh hoạt 15
phút đầu giờ. Có như vậy mới luôn nắm bắt được tình hình của học sinh. Ngoài ra
nên kiểm tra đột xuất trong các giờ ra chơi, trong các tiết mình trống giờ và đặc biệt
là trong các tiết của những giáo viên dễ tính, những tiết học mà các em hay vi phạm
nội quy. Thậm chí cả những tiết 5 GVCN cũng đảo qua vài lượt trong tuần. Làm
như vậy HS thấy rằng cô thật sự quan tâm, đang giám sát mình vô cùng chặt, như
thế các em giảm, không dám mắc lỗi nữa. Cũng chính vì có kế hoạch cụ thể và bám
lớp nên ngay từ tuần đầu nhận chủ nhiệm tôi đã ngăn chặn kịp thời “hiểm họa” của
lớp. Em Phạm Đình Sơn của lớp và học sinh lớp 11A5 do xích mích đã gọi bạn bè
của nhau định hết buổi học sẽ “tỉ thí” trước cổng trường. Từ buổi sinh hoạt 15 phút
đầu giờ, tôi đã nhận thấy sự khác thường trong thái độ của các em. Ngay sau đó tôi
liên lạc với phụ huynh hỏi han về tình hình tối hôm trước của em thì được báo là
em đi chơi về muộn và hình như có nói chuyện với bạn qua điện thoại về việc đánh
nhau. Tôi lập tức gọi em Sơn đến phòng chờ giáo viên hỏi chuyện, sau đó đến lớp
11A5 gọi em HS gây hấn với Sơn đến nghe hai bên trình bày. Cuối cùng tôi phân
tích thiệt hơn cho các em thấy hậu quả của việc đánh nhau, về cách ứng xử của bạn
bè, về việc ứng phó với những vấn đề trong cuộc sống, về việc đúng/ sai của cả hai,
về vai trò của lời xin lỗi, yêu cầu bên sai xin lỗi… Nhất là khẳng định rằng sự việc
đã được tôi biết, nếu các em dừng lại thì chấm dứt tất cả, nếu cố tình vi phạm sẽ bị
coi là cố tình đánh nhau có tổ chức và sẽ bị xử lí theo đúng quy định của công an

địa phương, của Bộ giáo dục về thi hành kỉ luật học phổ thông. Hai em sau khi
được giảng giải đã thông suốt, gia đình các em đã vô cùng cảm kích khi tôi xử lí
gọn gàng mâu thuẫn của các em.
Thứ hai: tạo được sự tin tưởng nơi HS, tạo tinh thần đoàn kết cao trong
lớp học
HS chỉ thực sự nghe lời những người thầy mẫu mực. Do đó, GVCN cần sống
chuẩn mực, có sức cảm hóa thuyết phục, có bản lĩnh để xử lí kịp thời, đúng đắn các
tình huống sư phạm, phải biết đối xử khéo léo, công bằng và nghiêm minh đối với
HS. Muốn như vậy đầu tiên GVCN phải thật vững vàng trong chuyên môn. HS
không thể thán phục một người dạy thiếu kiến thức, nghèo nàn về phương pháp sư
5


phạm. Nói cách khác, cái “tài” trong chuyên môn của cô sẽ là nền tảng để trò khâm
phục.
Song điều cần nhất ở GVCN là trái tim nhân ái. Với HS, đặc biệt những lớp
học nhiều HS cá biệt như 11A4, GV tuyệt đối không dùng những lời lẽ nặng nề,
xúc phạm, mạt sát mà nên có thái độ ân cần, quan tâm, tạo cho các em một cảm
giác thân tình, an toàn, tin tưởng, khiến các em thấy lớp học cũng là một gia đình.
Tại gia đình này, GVCN chính là cha là mẹ. Người mẹ này không nên nói nhiều
như thế sẽ khiến các em nhàm chán, hãy thể hiện bằng hành động yêu thương,
nhưng là người nói được làm được. Hơn nữa, đừng ảo tưởng rằng HS của mình sẽ
tiến bộ ngay sau vài lần bị nhắc nhở hay xử phạt. Cần luôn hiểu rằng chúng sẽ tiếp
tục vi phạm, thậm chí phạm lỗi ở mức độ cao hơn bởi đó là đặc điểm tâm lí của lứa
tuổi thích thách thức, chúng coi đó là một cách khẳng định mình trước bạn bè, thầy
cô, mọi người. Chính những lúc này bản lĩnh của GVCN mới được khẳng định.
Người non kinh nghiệm sẽ dùng tiết dạy của mình xử lí HS vi phạm, có khi mắng
cả tiết học – đây đang là điều HS mong mỏi: thà nghe bị chửi còn hơn bị kiểm tra
bài cũ, phải ghi bài… Khả năng chịu đựng nỗi bực bội, sự tức giận đang ngày một
dâng cao chính là cách thức GVCN thoát khỏi cái “bẫy” HS giăng ra. Bằng một cái

đầu tỉnh táo, người GV sẽ tuyệt đối không buông những lời thoá mạ, mắng chửi
HS, không xử lí sự việc theo cảm tính, ngược lại hành xử rất văn minh, chủ yếu là
khơi lên sự tự giác nhận khuyết điểm của HS một cách nghiêm túc. Như thế,
GVCN đã nhận được sự tôn trọng, kính nể - yếu tố vô cùng cần thiết để HS vâng
lời.
Thứ ba: xây dựng thang điểm đánh giá riêng của lớp, phổ biến cho học
sinh biết về hình thức khen thưởng, kỉ luật đối với HS phổ thông song chỉ nên
sử dụng biện pháp giáo dục kỉ luật tích cực
Dựa vào cách tính điểm thi đua của Đoàn trường, thông tư của Bộ Giáo dục
và Đào tạo hướng dẫn về việc khen thưởng và thi hành kỉ luật HS các trường phổ
thông, GVCN nên tạo ra một thang điểm cụ thể riêng của lớp. Từ thang điểm này
quyết định việc xếp loại hạnh kiểm theo từng tuần, từng tháng sau đó là cả kì, cả
năm của học sinh. Thang điểm hạnh kiểm có cả điểm cộng cho những việc làm tốt
và điểm số tốt. Vì lớp học kém nên tôi mạnh dạn cho cộng điểm khi HS đạt điểm 8
từ các môn học. Bên cạnh đó là điểm trừ cụ thể với các loại lỗi nếu các em mắc
phải. Với biện pháp này HS sẽ luôn tự tính toán trước được mình đạt hạnh kiểm gì
trong tuần, trong tháng và như vậy sẽ luôn nỗ lực làm việc tốt, học tốt, không dám
vi phạm để phải nhận hạnh kiểm trung bình hoặc hạnh kiểm yếu.
Chắc chắn rằng chưa một GVCN nào chỉ dùng cách thuyết phục, cảm hóa,
tác động bằng tình cảm mà học sinh tự giác chấp hành nề nếp, nội quy vì đây là
điều phi thực tế. HS chăm ngoan thì chẳng cần người thuyết phục các em đã tự giác
chấp hành quy định. Ta đều thấy rằng đa phần HS chấp hành nội quy là do sợ bị kỉ
luật. Muốn các em chấp hành nội quy phải cho các em hiểu nội quy, quy định,
những điều được làm và không được làm của HS. Hơn nữa tôi sẽ phổ biến cho HS
biết về hình thức khen thưởng, kỉ luật đối với HS phổ thông theo thông tư 08 của
6


Bộ Giáo dục. Tôi cho in thông tư 08 này trên khổ giấy A3 và dán bằng băng dính
hai mặt trên tường lớp học. Qua đây các em thực sự mới nắm được các mức độ kỉ

luật mà mình sẽ phải nhận với các lỗi cụ thể, điều mà trước đây các em còn rất mơ
hồ.
Như đã phân tích, với mật độ phạm lỗi dày đặc như thế HS của lớp chắc chắn
không dễ gì ngoan ngoãn ngay. Tôi xác định 3 tuần đầu tiên các em vẫn tiếp tục vi
phạm nội quy. Những HS mắc lỗi cần phải bị xử phạt mới mong làm gương và giữ
uy tín cho GV – người nói là làm. Tuy nhiên chỉ sử dụng các hình phạt tích cực.
Tùy thuộc vào loại lỗi, số lỗi HS vi phạm trong tuần để áp dụng một số hình phạt
tích cực theo thứ tự sau: vệ sinh trường (nên kết hợp với lao công của nhà trường),
trồng cây xanh (liên hệ với người phụ trách cơ sở vật chất của nhà trường), đọc
sách – báo tại phòng đọc thanh niên của Đoàn trường, vệ sinh – lao động tại Nghĩa
trang liệt sĩ huyện, nhà chùa hoặc khu di tích văn hóa lịch sử gần trường (hình phạt
đọc sách báo và vệ sinh những nơi linh thiêng nên nhờ Đoàn trường giám sát). Sau
3 tuần đầu tôi nhận thấy số lượng và số lượt HS vi phạm giảm đáng kể. Tuy nhiên,
điều này chưa có hiệu quả với một số HS cá biệt. Với các HS tiếp tục phạm lỗi hãy
đánh vào lòng tự trọng của các em bằng cách yêu cầu các em viết cam kết không tái
phạm, vi phạm bất kì lỗi nào theo nội quy của lớp, của trường. Bản cam kết này
phải được đọc trước lớp. Sau khi các em đọc xong tôi nhẹ nhàng hỏi: “Cô và các
bạn tin được lời em hứa chứ?”. Cách thức này thực sự hiệu quả với những em có
lòng tự trọng cao. Bởi các em không muốn trở thành một kẻ chỉ giỏi hứa hẹn.
Tuy vậy, vẫn còn những HS cố tình vi phạm. Lúc này GVCN xử lí theo cách
mời phụ huynh đến trường gặp để trao đổi. Sau khi trao đổi cần tiếp tục cho các em
viết cam kết một lần nữa nhưng trong bản cam kết này có thêm chữ kí của phụ
huynh. Việc này tạo cho các em sự ràng buộc cũng cho gia đình biết được con em
mình đã được GVCN sử dụng nhiều phương pháp, biện pháp giáo dục song chưa
tiến bộ và đây là ngưỡng cuối, nếu còn vi phạm sẽ tiến hành kỉ luật theo thông tư
08 của Bộ Giáo dục.
Thực hiện các biện pháp giáo dục theo trình tự như trên tôi thực tế không
phải dùng đến mức tiếp theo là kỉ luật theo thông tư 08. Bởi các em khi được quan
tâm, tin tưởng, giáo dục một cách chặt chẽ, khoa học như vậy đều khơi dậy, phát
huy được những tình cảm cao đẹp, những tính tốt mà từ trước tới giờ các em cố

tình lơ là hoặc bỏ qua trong chính mình.
Thứ tư: phải tìm mọi cách liên lạc, trao đổi thường xuyên với phụ huynh
học sinh
Không cần phải nhắc lại vai trò vô cùng quan trọng của gia đình trong việc
giáo dục nhân cách, đạo đức của HS. Công tác giáo dục chỉ thực sự có hiệu quả khi
có sự kết hợp giữa gia đình và nhà trường. Nếu một HS được cả gia đình và
GVCN, tập thể sư phạm quan tâm, nhắc nhở thường xuyên chắc chắn em không thể
nào trở thành người hư hỏng. Nhưng ở miền núi phụ huynh thay đổi số điện thoại
thường xuyên, lại quá nuông chiều con. Khi trao đổi với phụ huynh về tình hình
học tập, rèn luyện của các em chúng tôi luôn gặp những tình huống, câu trả lời mà
7


các đồng nghiệp miền xuôi không bao giờ có thể tưởng tượng ra dù đầu óc phong
phú đến mức nào. Em Hà Văn Lợi của lớp tôi điều khiển xe gắn máy khi chưa đủ
độ tuổi, bị xử phạt từ công an giao thông. GVCN trao đổi về việc gia đình không
được cho các em sử dụng xe nữa thì nhận được câu trả lời: “Cả nhà chị không ai
biết đi xe, chỉ mình nó, mua xe về phải cho nó mang đi học thôi”. Hay bố em Ngân
Văn Văn khi được GVCN thông báo rằng em nghỉ học không phép 2 buổi liên tiếp
rồi thì trả lời rằng: “Tôi bảo nó về để đi ăn cưới thay cho tôi, và chỉ cho cả nhà biết
nó muốn bán con lợn nào” (bố mẹ em này nuôi lợn, giờ cần một khoản tiền để lợp
lại bếp, phải bán lợn, gọi em về để hỏi ý kiến về con lợn cần bán). Những lúc như
vậy, GVCN bất đắc dĩ phải “giáo dục” luôn phụ huynh. Kiên nhẫn giải thích về luật
pháp, về vai trò của họ đối với con cái, về trách nhiệm giám hộ của họ trước pháp
luật, về mất mát nếu họ quá nuôg chiều con, buông lỏng việc quản lí con…
Song trường hợp khiến tôi “lao tâm khổ tứ” nhất chính là em Lò Văn Mưu ở
xã Trung Sơn. Gia đình em cách trường khoảng 60km. Bố nghiện ma túy, mẹ phải
cách li bố khỏi đám bạn nghiện bằng cách dẫn bố vào rừng sâu làm nương làm rẫy
vì thế không có sóng điện thoại. Mỗi tháng gia đình về bản một lần nhờ người gửi
300.000 tiền học cho em. Bản chất em hiền lành nhưng một phần chán nản về gia

đình, một phần không có người giám sát nên em nghiện điện tử, bỏ học thường
xuyên. Tôi đã phải đến tận chỗ trọ của em, nói chuyện và yêu cầu em đến lớp. Song
em hiểu rằng tôi muốn cảm hóa các em cùng gia đình, mà gia đình em thì tôi sẽ “bó
tay” trong vấn đề liên lạc. Tôi hiểu rằng muốn “nắm” được em phải giải quyết được
việc liên lạc với cha mẹ của em. Qua vn.edu – mạng giáo dục thì không được vì
điện thoại không có sóng, nếu gửi thư về địa chỉ gia đình sẽ không khả thi bởi
không có ai ở nhà, cách nhanh nhất là nhờ Bí thư Đoàn xã Trung Sơn thông báo về
cho trưởng bản. Danh sách số điện thoại các Bí thư Đoàn xã tôi nhờ đ/c Bí thư
Đoàn trường xin từ Huyện Đoàn Quan Hóa. Mặt khác nhờ đến hội trưởng Hội cha
mẹ học sinh của lớp. Chỉ sau một tuần mẹ em đã đến trường gặp tôi trong sự ngỡ
ngàng của em. Sau buổi gặp gỡ, cam kết với mẹ em, em hoàn toàn “lột xác”, trở
thành một học trò chuyên cần, ngoan ngoãn. Chính “phi vụ Lò Văn Mưu” này đã
khiến HS trong lớp tâm phục, khẩu phục hơn về tôi.
Thứ năm: tìm các biện pháp, phương pháp để học sinh cố gắng hơn, học
tốt hơn
HS chỉ thực sự cố gắng khi được khích lệ. GVCN nên sử dụng tiết sinh hoạt
cuối tuần thành tiết học làm người. Ngoài việc tổng kết về hoạt động của lớp trong
tuần, phổ biến những công việc tuần tới, xử lí những trường hợp HS vi phạm mà
không thể cho qua, GVCN nên tận dụng tiết sinh hoạt lớp để giáo dục HS về đạo
đức, lối sống. Hãy cho các em nghe những câu chuyện về các tấm gương nỗ lực
vươn lên trong cuộc sống, những câu chuyện về cách học làm người, những câu
chuyện cảm động về gia đình, thầy trò, bạn bè… hoặc là những mẩu chuyện cười,
những bài báo hay trên báo Hoa học trò mượn từ tủ sách thanh niên của Đoàn
trường. GVCN cũng có thể trao đổi, tư vấn cho các em về định hướng nghề nghiệp,
về tâm sinh lí lứa tuổi, về giới tính, về tình bạn, tình yêu… Tóm lại tiết sinh hoạt
8


cuối tuần cần đa dạng và bổ ích. Làm được điều này các em chăm đến lớp hơn,
thích thú trong học tập hơn.

Một điều không khó nhận ra là ý thức thường đi cùng với lực học. Những lớp
học giỏi không bao giờ là lớp cá biệt. Ngược lại ở những lớp nề nếp kém lực học
của các em rất yếu, ở trường THPT miền núi thì phải dùng từ kém mới đúng bản
chất. Khi học kém đương nhiên kéo theo hệ quả là chán học. Chán học thì không
muốn đến lớp hoặc đến lớp để tụ tập, chơi bời, quậy phá. 100% HS của lớp 11A4
hổng kiến thức ở tất cả các môn. Với bộ môn Ngữ văn do mình giảng dạy tôi lựa
chọn 3 HS có khả năng nhất lớp bồi dưỡng riêng, phụ đạo riêng. Khi các em đã có
kiến thức cơ bản phải giảng lại cho lớp trong các giờ sinh hoạt 15 phút hoặc các giờ
ra chơi, các giờ học thêm buổi chiều. Còn những bộ môn khác tôi áp dụng câu tục
ngữ “Học thầy không tày học bạn” - chủ động liên hệ, nhờ các em học giỏi ở các
lớp A1, A2 phụ đạo thêm cho các em. Khi học tập có sự tiến bộ các em sẽ chăm
ngoan hơn. Có điều phải thật kiên trì, phải theo dõi và biết được sự tiến bộ của từng
em, khích lệ những em thực sự ham học, thông tin thường xuyên cho gia đình biết
về sự tiến bộ của các em. Không nên làm kiểu “đầu voi đuôi chuột” sẽ không bào
giờ có hiệu quả. Cũng không nên quá kì vọng vào sự tiến bộ một sớm một chiều
của các em mà phải xác định ít nhất khoảng 2,5 tháng mới mong các em chấn chỉnh
được tinh thần học tập, năng lực học tập.
Thứ sáu: phối hợp chặt chẽ với các GV bộ môn, các tổ chức, đoàn thể
trong nhà trường, hội cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương nơi các em cư
trú
Không ai gần gũi với HS hơn GV trực tiếp giảng dạy các em. Bởi vậy GV bộ
môn chính là một trong những nguồn thông tin mà GVCN cần khai thác triệt để và
trao đổi thường xuyên về tình hình của các em. Bất kì GV nào khi đứng lớp cũng
mong cho HS trở nên tốt đẹp hơn về mọi mặt nên các GV bộ môn luôn sẵn sàng
hợp tác và giúp đỡ GVCN. Song đôi khi cũng cần cân nhắc kĩ lưỡng, xem xét kĩ
càng những phản ánh của GV bộ môn về HS của lớp. Dù là rất ít khi nhưng sẽ có
lúc HS nghịch ngợm, khó bảo trong giờ, GV bộ môn do bực bội, không kìm chế
được cơn giận sẽ có nhận xét không tốt, sẽ yêu cầu GVCN vào cuộc để xử phạt HS.
Thậm chí có GV hùng hồn tuyên bố không nhận HS đó vào học tiết của mình. Lúc
này, GVCN phải thật sự bình tĩnh và đặc biệt là vô cùng khéo léo để vừa “trấn an”

GV bộ môn, vừa chỉ ra cho HS thấy cái lỗi không đáng có của mình. Gặp riêng và
nhẹ nhàng chỉ ra cái nóng vội mà lại có phần ngoài quy định của GV bộ môn,
nhưng để giữ uy tín và thể diện cho GV bộ môn tôi chủ động cho HS viết kiểm
điểm, đến gặp GV để xin lỗi, hơn nữa còn đứng ra “bảo lãnh” để em được phép vào
lớp. Với cách làm này GVCN thực sự đã “lấy lòng” được GV bộ môn, lại cũng cho
thấy vai trò “làm cha, làm mẹ” của mình trong mắt HS. Đương nhiên nề nếp lớp sẽ
được cải thiện từ sự giúp đỡ của GV bộ môn và bài học rút ra từ sai phạm của HS.
Một thành phần nữa GVCN có thể kết hợp chặt chẽ để cải thiện nề nếp HS là
tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của nhà trường. Các thành viên của BCH Đoàn
trường là những người trẻ, năng động, đi đầu, nhiệt tình trong công việc vì thế hãy
9


phối hợp với họ, giao cho BCH chi đoàn có ý kiến trong các cuộc họp Đoàn trường
về việc giúp đỡ, quan tâm đến nề nếp lớp. Hãy gửi danh sách những HS mắc nhiều
lỗi nhất của lớp cho Đoàn trường, họ sẽ cùng với GVCN đi kiểm tra ý thức học của
các em này trong từng buổi học. Đặc biệt, Đoàn trường sẽ giám sát, giúp đỡ GVCN
trong việc xử phạt lao động, vệ sinh của HS. Vì nếu phạt mà không kiểm tra, thẩm
định thì coi như hình phạt vô ý nghĩa.
Ngoài ra, GVCN cần phải có ý kiến với ban nề nếp của nhà trường. Danh
sách những HS vi phạm nhiều của lớp không chỉ được gửi đến Đoàn trường mà còn
gửi cho ban nề nếp. Trong tuần học, BCH Đoàn trường, ban nề nếp chỉ cần vài buổi
đột xuất đến lớp hỏi những thông tin đại loại như: HS A, HS B… hôm nay có đi
học không, có vi phạm gì trong các tiết học đã qua chưa… Sau đó ghi chép về HS
này vào sổ theo dõi. Biện pháp này hiệu quả vô cùng vì HS sẽ cảm thấy mình quả
thật đang ở mức “báo động” khi mà luôn luôn “được quan tâm” từ cô giáo chủ
nhiệm, từ BCH Đoàn trường, từ ban nề nếp của nhà trường.
Không chỉ dừng lại ở phạm vi nhà trường, GVCN còn phải tận dụng và có
mối liên hệ chặt chẽ với hội cha mẹ HS của lớp. Không cha mẹ nào muốn con cái
của mình hư đốn. Những người trong ban đại diện hội cha mẹ HS được chính các

phụ huynh của lớp tín nhiệm đề ra, con cái của họ là những HS thuộc diện ngoan
nhất lớp. Vì thế họ hoàn toàn nhiệt tình trong các công việc liên quan đến lớp.
Những lời thân tình từ bác hội trưởng hội cha mẹ với các em HS cá biệt có tác dụng
rất lớn. Đặc biệt, nhiều dòng họ hiện nay thành lập hội sinh hoạt họ, trưởng họ của
các em là người tiếng nói có giá trị nhất trong họ. Bởi trưởng họ là người cành trên
nhất, lại có vốn sống, sống mẫu mực nên vô cùng uy tín. Điển hình như em Lữ Văn
Hoàng ở bản Ban, xã Hồi Xuân thường xuyên đi chơi đêm không về nhà, sáng ra
không đến lớp. Cha mẹ khi được trao đổi đã khẳng định việc “bất lực” trước em,
trăm sự chỉ còn nhờ cô giáo. GVCN đã khuyên gia đình nên nhờ đến sự vào cuộc
của trưởng họ. Bản thân GVCN cũng trực tiếp gọi điện trao đổi tình hình về em với
bác trưởng họ Lữ ở bản Ban. Sau khi được bác trưởng họ trao đổi, làm công tác tư
tưởng, yêu cầu hứa hẹn, em Hoàng đã chấm dứt hẳn tình trạng đi chơi qua đêm, đã
đi học chuyên cần trở lại.
Nhà trường, gia đình và xã hội đều có vai trò trong giáo dục phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống cho HS. Có người ví von đây là cái “kiềng ba chân” tạo nên
nhân cách của học trò. GVCN luôn phải ý thức được điều nay. Do đó, việc phát huy
sức mạnh giáo dục của mối liên kết nhà trường – gia đình – xã hội là điều vô cùng
cần thiết cho công tác giáo dục. Trong năm học vừa qua tôi đã có sự liên kết chặt
chẽ với một số trưởng bản, bí thư Đoàn xã của các em HS cá biệt. Chính nhờ họ mà
việc liên lạc với phụ huynh HS diễn ra dễ dàng hơn, việc tác động đến ý thức rèn
luyện của các em nhanh chóng hiệu quả hơn. Câu chuyện về em Lò Văn Mưu đã
nêu ở trên là minh chứng rõ ràng nhất.
2.4. Kết quả đạt được
Từ việc kiên trì thực hiện, kết hợp các giải pháp và sự giúp đỡ của nhà
trường, của Ban đại diện hội cha mẹ HS của lớp, của các cá nhân và tổ chức chính
10


quyền ở địa phương các em sinh sống, sự nỗ lực và quyết tâm của chính các em,
tập thể 11A4 đã có sự “thay da đổi thịt”, nhận được sự yêu mến, thậm chí là

“ngưỡng mộ” của một số lớp khác.
Thay vì xếp thứ 14/14 trong bảng tổng hợp thi đua của Đoàn trường như học
kì 1, sang học kì 2 lớp tôi vươn lên vị trí 6/14, chỉ xếp sau 5 lớp mũi nhọn của nhà
trường. Lớp tôi được hội đồng thi đua khen thưởng của nhà trường xét tặng tập thể
được khen thưởng về nề nếp.
Nhiều em của lớp 11A4 từ những HS thường xuyên vi phạm nội quy, thậm
chí là HS cá biệt, luôn gây phiền toái cho thầy cô, bạn bè nay đã lấy lại niềm tin,
tình cảm tốt đẹp nơi thầy cô, bè bạn.
Bản thân tôi là GVCN được các đồng nghiệp đánh giá cao trong năng lực
chủ nhiệm lớp, luôn là GVCN có kinh nghiệm được tham gia trong các buổi họp kỉ
luật HS vi phạm của Hội đồng kỉ luật nhà trường. Nhiều GVCN chủ động hỏi kinh
nghiệm từ tôi để áp dụng vào việc quản lí lớp. Đáng nói nhất là nhiều phụ huynh đã
rất xúc động, biết ơn cô đã giúp con em họ trở thành người con ngoan, có ý thức.
Các em HS thì gắn cho tôi rất nhiều biệt danh “ma ma tổng quản”, “sếp”, “sư phụ”
và châm ngôn của chúng là: điều 1 “ma ma tổng quản”, “sếp”, “sư phụ” luôn đúng,
điều 2 nếu “ma ma tổng quản”, “sếp”, “sư phụ” sai thì quay lại điều 1.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Quả thực, quản lí một lớp học để có nề nếp tốt không dễ, nhất là lớp học
đứng cuối bảng thi đua của trường miền núi lại càng vất vả hơn. Công việc này đòi
hỏi ở người GVCN thời gian, công sức, nhiệt huyết, thậm chí cả tiền bạc và sức
khỏe. Trong hai tháng đầu tiên chủ nhiện lớp 11A4 thuê bao điện thoại di động của
tôi tháng nào cũng phải trả khoảng 400.000đ/ tháng trong khi trước lúc chủ nhiệm
chỉ phải trả khoảng 150.000đ/ tháng. Tôi cũng phải thường xuyên thức khuya, dậy
sớm, suy nghĩ thật kĩ càng, lật đi lật lại vấn đề để có thể sử dụng các phương pháp,
biện pháp hiệu quả nhất, đến mức nhiều khi cơ thể suy nhược, mệt mỏi. Thêm nữa,
bản thân luôn phải tự trau rồi, tự rèn luyện mình nhiều hơn để luôn phải thật bình
tĩnh, khéo léo, linh hoạt mới “sắm đủ các vai” trong quá trình chủ nhiệm: người
lãnh đạo lớp học; chuyên gia tâm lí; người bạn lớn của HS; nhà tuyên truyền pháp
luật bất đắc dĩ; cầu nối giữa GV bộ môn và HS, giữa nhà trường và gia đình, xã

hội; người hướng nghiệp … Vì thế công tác chủ nhiệm ở trường học là nhiệm vụ
nặng nề nhất. Song nếu có một tình yêu, lòng say mê nghề nghiệp, đặt lợi ích của
HS lên hàng đầu, có niềm tin vào các em, vào “thiên lương” của mỗi con người,
luôn tâm niệm “Tất cả vì học sinh thân yêu”, cộng thêm việc chịu khó tìm tòi, kiên
nhẫn, không chịu bỏ cuộc, các GVCN sẽ thành công khi nhận nhiệm vụ chủ nhiệm.
Công thức chung nhất khi làm GVCN là không bi quan, khi được phân công
chủ nhiệm đã không muốn làm thì sẽ không tìm được, không nhìn ra niềm vui của
công tác này. Cái được nhất của GVCN chính là lòng tin yêu, tình cảm gắn bó của
HS – thậm chí nó đi theo các em cả đời, uy tín và niềm tin tưởng của phụ huynh,
11


đồng nghiệp. Những điều này không có bất kì một thế lực, quyền năng, loại tiền
bạc nào có thể tạo ra được.
3.2. Đề xuất
Công tác chủ nhiệm vất vả vô ngần song chưa được coi trọng đúng mức. Bộ
Giáo dục và Đào tạo cần xem xét lại chế độ chính sách cho GVCN, nếu có thể nên
tăng lên 6 tiết/tuần thay vì chỉ được tính 4 tiết/tuần như hiện nay. Hơn nữa cần có
danh hiệu thi đua về công tác chủ nhiệm trong năm học và được cấp giấy khen,
bằng khen như các danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”, “Lao động tiên tiến”, có như thế
mới tôn vinh, khích lệ được các GVCN. Bên canh đó nên chú trọng phát hành
những tài liệu tham khảo về công tác chủ nhiệm để các GV làm tốt hơn nhiệm vụ
chủ nhiệm của mình.
Sở Giáo dục và Đào tạo cần mở thêm những lớp tập huấn, những cuộc hội
thảo, chuyên đề về công tác chủ nhiệm để giáo viên có thể học hỏi, rút kinh nghiệm
trong công tác giáo dục học sinh.
Đề tài này hoàn toàn xuất phát từ kinh nghiệm, từ những điều thực tế xảy ra
và đã áp dụng hiệu quả tại trường chúng tôi. Tuy nhiên do thời gian và khuôn khổ
của đề tài nên có thể còn nhiều thiếu sót. Rất mong được sự nhiệt tình đóng góp ý
kiến của các đồng chí, đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Quan Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Phạm Thị Nghị

12



×