Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phát huy tính chủ động, sáng tạo của hoc sinh thông qua nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học phần II tạo lập doanh nghiệp SGK công nghệ 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TRIỆU SƠN 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHÁT HUY TÍNH CHỦ ĐỘNG SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH
THÔNG QUA PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH TRONG DẠY HỌC
PHẦN II: TẠO LẬP DOANH NGHIỆP – SGK CÔNG NGHỆ 10

Người thực hiện: Lê Thị Huế
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Công nghệ nông nghiệp

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Phương pháp dạy học chủ động
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng Sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng dạy học môn Công Nghệ 10 trong trường THPT


2.2.2. Thực trạng giáo viên
2.2.3. Thực trạng học sinh
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Cách xây dựng trường hợp và yêu cầu đối với trường hợp
2.3.2. Tiến trình thực hiện
2.3.3. Vận dụng PP NCTHĐH vào dạy học phần Tạo lập doanh nghiệp – SGK
Công nghệ 10
2.3.3.1. Doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp
2.3.3.2. Phần xác định ý tưởng kinh doanh
2.3.3.3. Phần nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
1
1
2
2
2
2
2
2
3
4
4
4

4
5
5
5
6
6
7
9
11
12
13
14
15


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học – kĩ thuật, hội
nhập kinh tế ngày càng được mở rộng, đòi hỏi nền giáo dục cũng phải không
ngừng đổi mới, cải tiến để bắt kịp sự phát triển của giáo dục trên thế giới và các
nước trong khu vực.
Trước thực tế trên, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã
xác định "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo phát triển nguồn nhân
lực là một trong mười ba định hướng phát triển lớn để hiện thực hóa mục tiêu
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại" và "Giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”[8], trong đó phải kể
đến việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.
Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục
tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến cách thức đánh giá kết

quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy học(PPDH).
Chỉ có đổi mới PPDH, chúng ta mới có thể tạo ra được sự đổi mới thực sự trong
giáo dục, mới có thể đào tạo ra lớp người năng động, sáng tạo, có tiềm năng
cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng đến nền
kinh tế tri thức[2].
Ở nước ta việc đổi mới tư duy dạy học và PPDHđã diễn ra, nhất là những
năm gần đây, song vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép... người
giáo viên(GV) ít chú trọng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
cho học sinh(HS), ít khi đặt ra các vấn đề mang tính chất tìm tòi, khám phá để
học sinh phát huy năng lực tự học, tự khám phá và nghiên cứu. Thực trạng dạy
học trong trường THPT nói chung, Công nghệ 10 nói riêng phần lớn diễn ra theo
chiều hướng như vậy. Do đó, đổi mới PPDH để phát huy tính chủ động, sáng tạo
cho học sinh là một việc làm cấp bách và cần thiết. Tuy nhiên, môn Công nghệ
10 từ trước tới nay trong nhận thức của phụ huynh HS cũng như của HS đây là
môn học có vai trò thứ yếu và mờ nhạt trong nhà trường. Việc dạy và học
thường diễn ra một cách khô khan, nặng nề, ít gây hứng thú cho HS, do đó hiệu
quả giáo dục còn gặp nhiều hạn chế chưa đem lại những kết quả như mong đợi
của các nhà quản lý giáo dục cũng như các GV giảng dạy bộ môn. Là một GV
môn Công nghệ 10, tôi luôn ý thức nhiệm vụ của mình là phải đổi mới phương
pháp để nâng cao chất lượng dạy học đồng thời phát huy tính tích cực của HS.
Trong suốt một năm học qua, tôi đã áp dụng phương pháp nghiên cứu trường
hợp điển hình (PP NCTHĐH) vào trong quá trình giảng dạy của mình. Tôi nhận
thấy, hiệu quả và chất lượng dạy học tăng lên rất nhiều. Chính vì thế, tôi chọn đề
tài “Phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh thông qua phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình trong dạy học Phần II: Tạo lập doanh nghiệp
– SGK Công Nghệ 10”, góp phần thực hiện việc đổi mới tư duy và PPDH phát
huy tích cực của HS trong trường THPT hiện nay.
1



1.2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế và xây dựng kịch bản cho quá trình dạy học diễn ra theo đúng
chủ đích.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu việc vận dụng PP NCTHĐH trong dạy học phần Tạo lập
doanh nghiệp – SGK Công nghệ 10
- HS khối 10, trường THPT Triệu Sơn 4
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
- Nghiên cứu các tài liệu và cấu trúc liên quan đến các PP NCTHĐH.
- Nghiên cứu nội dung, hệ thống kiến thức chương trình Công Nghệ 10
nhất là nội dung phần Tạo lập doanh nghiệp.
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận, biện pháp thiết kế và kịch bản cho các nội
dung bài học có sử dụng PP NCTHĐH trong phần Tạo lập doanh nghiệp – Công
nghệ 10 theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho học sinh.
1.4.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi với các đồng nghiệp để tham khảo và rút kinh nghiệm
cho bản thân trong quá trình thực hiện đề tài.
1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm.
Tiến hành dạy học theo nội dung đề tài ở các lớp 10 của trường THPT
Triệu Sơn 4.
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp thống kê toán học trong việc tính toán kết quả của
quá trình thực hiện.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Phương pháp dạy học chủ động
Phương pháp dạy học chủ động(Active Teaching), là một thuật ngữ rút
gọn, được dùng để chỉ phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Dạy học chủ động hướng tới việc

hoạt động hóa, chủ động hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập
trung phát huy tính tích cực chủ động của học sinh chứ không phải phát huy tính
chủ động của giáo viên. Do đó đòi hỏi giáo viên phải nỗ lực rất nhiều so với
phương pháp dạy học truyền thống.
Theo một số nghiên cứu của Bigas(2003), cho thấy mối quan hệ chặt chẽ
giữa các hoạt động của người học với hiệu quả học tập. Tỷ lệ tiếp thu kiến thức
của người học tăng cao khi được vận dụng đa giác quan vào hoạt động học tập,
2


được trải nghiệm và tự mình khám phá kiến thức, đặc biệt là khi truyền đạt lại
cho người khác[4]

10%
đọc

20% nghe
30% nhìn
50% nghe và nhìn
70% trao đổi với người khác

80% sử dụng trong thực tế

90% truyền đạt cho người khác

Hình 1: Tháp học tập
thể hiện tỷ lệ phần trăm khả năng tiếp thu kiến thức tương ứng với các hoạt
động học tập của học sinh (theo hội thảo CPIO – 2010 – ĐHQG TPHCM)
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Nghiên cứu trường hợp điển hình là phương pháp sử dụng một câu

chuyện có thật hoặc chuyện được viết dựa trên những trường hợp thường xảy ra
trong cuộc sống thực tiễn để minh chứng cho một vấn đề hay một số vấn đề.
Nghiên cứu trường hợp điển hình có thể được thực hiện trên video hay một băng
catset mà không phải trên văn bản viết[7]. PP NCTHĐH là PP điển hình của dạy
học theo tình huống và phát huy tính chủ động của học sinh.
Ưu điểm:
- Việc sử dụng PP NCTHĐH tạo điều kiện cho việc thiết lập các tình
huống gắn lí thuyết với thực tiễn.
- Gây chú ý, quan tâm, hứng thú cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo, khích lệ sự thay đổi thái độ,
hành vi của học sinh theo chuẩn mực đạo đức, chính trị - xã hội.
Hạn chế:
- Mất nhiều thời gian, thích hợp cho việc vận dụng nhưng chưa thích hợp
cho việc truyền thụ kiến thức có hệ thống.
3


- Đòi hỏi cao với giáo viên và đối với người học: giáo viên cần biết làm
việc với tư cách là người điều phối và tổ chức quá trình học tập. Còn với học
sinh các em cần phải tự lực để vận dụng tri thức[2].
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng dạy học môn Công Nghệ 10 trong trường THPT
Dạy học Công nghệ 10 trong trường THPT hiện nay nói chung, và trong
trường Triệu Sơn 4 nói riêng vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập. Là một bộ môn
thực nghiệm nhưng Công Nghệ không kéo dài suốt 3 năm học như những bộ môn
khác mà lại phân thành hai nhóm: Nông nghiệp(dạy lớp 10) và Công nghiệp(lớp 11
và 12)hoàn toàn khác nhau về mặt bản chất. Do đó việc tạo ra niềm say mê và yêu
thích bộ môn này cho học sinh là điều vô cùng khó khăn. Hơn nữa với bộ môn như
Công Nghệ 10, thường chỉ cần có một giáo viên để giảng dạy, nên việc trao đổi
chuyên môn trong tổ, nhóm cũng như sự đóng góp của bộ môn này trong thành tích

chung của nhà trường hầu như là không đáng kể.
2.2.2. Thực trạng giáo viên
Trước đây ở hầu hết các trường THPT trong cả nước việc quan tâm đến
chất lượng giảng dạy và sự đầu tư của giáo viên cho bộ môn này còn rất hạn chế,
bởi các giáo viên tham gia giảng dạy không phải là giáo viên được đào tạo đúng
chuyên ngành mà là giáo viên của các bộ môn khác tham gia giảng dạy.
Trong những năm gần đây, cùng với sự đòi hỏi về việc nâng cao chất
lượng giáo dục sách giáo khoa Công nghệ 10 đã được đổi mới để cho phù hợp.
Song song với việc đó chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy cũng đã được
quan tâm hơn rất nhiều. Hiện nay ở các trường THPT đều đã có GV dạy Công
nghệ tốt nghiệp đại học đúng chuyên ngành nên việc dạy học theo phương pháp
đổi mới đã có nhiều thuận lợi. Là một giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành Kỹ
thuật Nông nghiệp, đã tham gia trực tiếp giảng dạy Công nghệ trong 10 năm
qua, tôi nhận thấy rằng việc dạy bộ môn này trong nhà trường vẫn còn nhiều
điều đáng quan tâm, đặc biệt làm thế nào để đem lại hứng thú cho học sinh, bản
thân tôi cũng phải tìm tòi để đổi mới PPDH, đổi mới cách truyền đạt để mỗi giờ
Công Nghệ không còn là sự nhàm chán, là sự bắt buộc học đối với học sinh.
2.2.3. Thực trạng học sinh
Học sinh với bộ môn Công nghệ nói chung đều ít có hứng thú, bởi xuất
phát từ thực tế cho thấy rằng đây không phải là bộ môn thi tốt nghiệp, cũng
không phải là môn đòi hỏi thi học sinh giỏi, lại cũng không là môn thi đại học
cho nên tâm lý của học sinh đều xem Công nghệ là môn học cũng được, không
học cũng được, học với thái độ thờ ơ, không quan tâm. Do đó giáo viên cần phải
nắm rõ đặc điểm của học sinh, cũng như đặc trưng của môn học để dạy học một
cách chủ động, để mỗi giờ lên lớp không còn là gánh nặng với học sinh và với
cả bản thân mình. Trong 10 năm qua cùng với những trải nghiệm thực tế ở các
4


lớp về các phương pháp giảng dạy của mình tôi đã gom cho mình một số kinh

nghiệm và mạnh dạn phát triển nó thành đề tài, với hi vọng sẽ góp một phần nào
đó để các đồng nghiệp dạy cùng môn với tôi có thể tham khảo để đưa giờ học
Công nghệ trở thành giờ học được học sinh chờ đợi trong từng tuần.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Cách xây dựng trường hợp và yêu cầu đối với trường hợp
Trường hợp được lựa chọn từ những tình huống thực tiễn, hoặc những tình
huống có thể xảy ra. Khi xây dựng trường hợp cần bao gồm các nội dung sau:
- Phần mô tả trường hợp: các trường hợp cần được mô tả rõ ràng và cần
thực hiện các chức năng lý luận dạy học sau:
+ Trường hợp cần chứa đựng vấn đề và có xung đột.
+ Trường hợp cần có nhiều cách giải quyết
+ Trường hợp cần tạo điều kiện cho người học có thể trình bày theo cách
nhìn của mình
+Trường hợp cần vừa sức, phù hợp với điều kiện thời gian và người học
có thể giải quyết được dựa trên cơ sở kiến thức và kĩ năng của họ.
- Phần nhiệm vụ: xác định những nhiệm vụ học sinh cần giải quyết khi
nghiên cứu trường hợp. Các nhiệm vụ cần xác định rõ ràng, vừa sức với học
sinh và nhằm đạt mục tiêu dạy học.
- Phần yêu cầu về kết quả: phần này đưa ra những yêu cầu cần thực hiện
được trong khi nghiên cứu trường hợp. Việc đưa ra những yêu cầu nhằm định
hướng cho việc nghiên cứu trường hợp[2].
2.3.2. Tiến trình thực hiện
Tiến trình các giai đoạn được trình bày sau đây là tiến trình lí tưởng của
PP NCTHĐH. Trong thực tiễn vận dụng có thể linh hoạt, chẳng hạn có những
giai đoạn được rút gọn, kéo dài hơn hoặc bỏ qua tùy theo trường hợp cụ thể.
Các bước tiến hành PP NCTHĐH:
1. Nhận biết trường hợp: Làm quen với trường hợp nhằm mục đích nắm
được vấn đề và các tình huống cần xác định.
2. Thu thập thông tin:
- HS học cách tự lực tìm kiếm thông tin, hệ thống hóa và đánh giá thông tin

- Thu thập về các trường hợp từ các tài liệu sẵn có
3. Nghiên cứu và tìm ra các phương án giải quyết.
- Phát triển tư duy, sáng tạo theo nhiều hướng, làm việc theo nhóm
- Tìm các phương án giải quyết và thảo luận các ý kiến khác nhau.
4. Quyết định:
Đối chiếu và đánh giá các phương án giải quyết trên cơ sở các tiêu chuẩn
đánh giá và quyết định.
5. Bảo vệ:
5


Bảo vệ các quyết định với những luận cứ, bằng chứng thuyết phục.
6. So sánh:
So sánh các phương án giải quyết của nhóm với các quyết định trong thực tế,
việc quyết định luôn liên quan đến các tình huống, điều kiện, thời gian cụ thể[2].
2.3.3. Vận dụng PP NCTHĐH vào dạy học phần Tạo lập doanh nghiệp –
SGK Công nghệ 10
2.3.3.1. Doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp
Để dạy phần Doanh nghiệp nhỏ, GV cho HS xem đoạn phim phóng sự về
Cá kho Bá Kiến của kỹ sư Nguyễn Bá Toàn, sinh năm 1982 tại Ninh Giang –
Hải Dương(chương trình Sinh ra từ làng phát sóng lúc 18h30, thứ 4, ngày
25/1/2017 trên VTV6)[5].
Câu hỏi thảo luận:
- Em có nhận xét gì về việc lựa chọn mở công ty sản xuất cá kho của kỹ
sư Toàn với xuất phát điểm về nguồn vốn, về nguồn lao động?
- Tại sao công ty này mỗi năm có thể thuê lao động tới con số 300 người?
Nếu thuê hơn có được không? Vì sao?
- Khi đi vào hoạt động công ty đã có những thuận lợi và gặp phải những
khó khăn gì?
Yêu cầu: HS thảo luận trong thời gian quy định, HS thấy được sự lựa

chọn mở công ty chuyên cung cấp cá kho làng Vũ Đại, một đặc sản tiến vua một
thời là một việc làm cần thiết, đáng để học hỏi và hoan nghênh. Hàng năm, công
ty đã đem lại công ăn việc làm cho nhiều lao động trong khu vực, đặc biệt trong
những ngày giáp tết, con số có thể lên tới hàng trăm người. Tuy nhiên, đây là
một hình hình Doanh nghiệp nhỏ, nên số lao động trong năm không vượt quá
con số 300 người.
GV nhận xét: Công ty đã biết khai thác và tận dụng nguồn vốn ban đầu ít
để lựa chọn một loại hình kinh doanh phù hợp. Ở các quốc gia khác nhau, định
nghĩa pháp lý về doanh nghiệp nhỏ là khác nhau: ví dụ ở Mỹ, số lượng nhân
viên không quá 500 người, còn ở Liên minh Châu Âu là 50 người. Ở Việt Nam,
chính phủ đã ban hành Nghị định NĐ 90/2001/NĐ – CP, trong đó qui định tiêu
chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam[3].
- Vốn đăng kí kinh doanh không quá 10 tỷ đồng.
- Lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Nội dung bài học: Sau khi tìm hiểu nội dung phóng sự, GV dẫn dắt vào
nội dung bài học:
Đặc điểm của Doanh nghiệp nhỏ:
- Doanh thu không lớn
- Số lượng lao động không nhiều.
- Vốn kinh doanh ít
6


Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp nhỏ
Thuận lợi:
- Tổ chức hoạt động kinh doanh một cách linh hoạt, đẽ thay đổi phù hợp
với môi trường kinh doanh.
- Dễ quản lí chặt chẽ và có hiệu quả.
- Dễ đổi mới công nghệ kinh doanh
Ví dụ: Vì lao động hàng năm không vượt qua con số 300 người, chủ

doanh nghiệp quản lí trực tiếp các nhân viên của mình nên hiệu quả đem lại sẽ
cao, cùng với bộ máy gọn gàng, tinh nhẹ nên hoạt động của công ty có thể thay
đổi để thích ứng nhanh với nhu cầu thị trường.
Khó khăn:
- Vốn ít nên khó đầu tư đồng bộ.
- Thường thiếu thông tin về thị trường.
- Trình độ lao động thấp
- Trình độ quản lí thiếu chuyên nghiệp.
* Trong hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ cũng như các loại hình kinh
doanh khác sẽ đều có những khó khăn riêng, nhưng điều quan trọng là người chủ doanh
nghiệp làm thế nào để lèo lái con thuyền một cách an toàn và có hiệu quả, có như vậy mới
có thể duy trì hoạt động của doanh nghiệp và tạo công ăn việc làm cho người dân.
2.3.3.2. Phần xác định ý tưởng kinh doanh (Bài 54: Thành lập doanh nghiệp)
Đối với phần này, GV cho HS xem một đoạn phóng sự ngắn về chàng cử
nhân trẻ Nguyễn Duy Thiên Ân (sinh năm 1990 tại huyện Trảng Bom, tỉnh
Đồng Nai), khoa Công nghệ sinh học của Đại học Văn Lang – TPHCM, người
đã từ chối suốt học bổng toàn phần đi du học Pháp, để ở lại quê hương… nuôi
gà - Chương trình Sinh ra từ làng, trên kênh VTV6, phát sóng vào thứ 4, ngày
26 tháng 9 năm 2013, lúc 20h15).[5]

GV cho HS theo dõi đoạn phóng sự và nêu câu hỏi thảo luận
7


Câu hỏi thảo luận:
- Em có suy nghĩ gì về việc chàng cử nhân từ chối cơ hội mà rất nhiều bạn
trẻ mơ ước để ở lại nuôi gà?
- Việc làm của chàng trai có được xem là một ý tưởng kinh doanh hay
không? Vì sao?
- Đối tượng mà chàng trai phục vụ là ai? Đó có phải là khách hàng?

- Sản phẩm mà công ty sản xuất có những điều gì đặc biệt?
- Hãy liên hệ thực tế ở địa phương em về một gương điển hình kinh doanh
mà em biết.
Yêu cầu: HS thảo luận theo nhóm nhỏ, đưa ra được quan điểm, thái độ
của bản thân về cách mà chàng trai đã lựa chọn. Khẳng định được việc làm trên
là một ý tưởng kinh doanh hết sức sáng tạo, ngoài việc làm giàu cho quê hương
đất nước, còn chứng tỏ được năng lực tuyệt vời của bản thân chàng trai. Cần đưa
ra được đối tượng mà công ty phục vụ thuộc đối tượng khách hàng hiện tại, hay
khách hàng tiềm năng, và những điểm đặc biệt trong sản phẩm đã giúp cho
chàng trai có thu nhập 20 triệu đồng/ 1 ngày.

HS thảo luận và trình bày nội dung
GV nhận xét: Chương trình sinh ra từ làng đã giới thiệu rất nhiều những
tấm gương trẻ tiêu biểu trong cả nước về sự sáng tạo và nghi lực thay đổi vận
mệnh, làm giàu cho quê hương. Nguyễn Duy Thiên Ân là một chàng trai như
vậy, sau khi chương trình được phát sóng đã tạo nên sự lan tỏa trong cộng đồng
một cách sâu rộng về sự ngưỡng mộ cũng như sức sáng tạo, ý tưởng kinh doanh
tuyệt vời của Thiên Ân. Sản phẩm mà Thiên Ân cung cấp là loại trứng gà giàu
Omega 3, rất tốt cho trí não, tim mạch, giảm mỡ máu, làm đẹp…. nên rất thích
hợp cho nhiều đối tượng khách hàng, kể cả trẻ nhỏ và người già. Bằng chính sự
nỗ lực tuyệt vời của bản thân, cùng với sự nhiệt huyết, đam mê của tuổi trẻ đã
mang lại thành công rất lớn cho không chỉ bản thân mà còn làm rạng danh quê
hương của mình.
8


Nội dung bài học:
Qua việc phân tích đoạn phim trên, GV dẫn dắt HS tìm hiểu nội dung:
Ý tưởng kinh doanh có thể xuất phát từ nhiều lí do khác nhau:
- Nhu cầu làm giàu cho bản thân và có ích cho xã hội.

- Muốn kiếm sống và khẳng định bản thân.
- Muốn thử sức trên thương trường.
- Muốn tận dụng các nguồn lực của bản thân, gia đình và xã hội
Thị trường của doanh nghiệp là bao gồm các khách hàng hiện tại và khách
hàng tiềm năng của doanh nghiêp
- Khách hàng hiện tại: là khách hàng thường xuyên trao đổi hàng hóa với
doanh nghiệp
- Khách hàng tiềm năng: là đối tượng mà doanh nghiệp sẽ hướng tới.
2.3.3.3. Phần nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp (Bài 54: Thành lập
doanh nghiệp)
GV cho HS tìm hiểu câu chuyện kinh doanh của hai ông lớn ngành giải
khát là Cocacola và Pepsicola[6]

Coca – Pepsi: Cuộc chiến chưa có hồi kết
Sự cạnh tranh giữa Coca cola và Pepsi cola đã diễn ra từ hơn một trăm
năm về trước trên toàn thế giới. Khi vào đến Việt Nam, “hai ông lớn” này vẫn
tranh giành thị trường cực kì khốc liệt: Nếu như những năm đầu của thập niên
90 của thế kỉ trước thì Pepsi cola chiếm lĩnh phần thị trường nước gải khát ở
Miền Nam, còn Coca cola lại hoàn toàn chiếm lĩnh thị trường Miền Bắc. Nhưng
hiện tại chúng ta thấy ở khắp nơi trên đất nước đều đã có mặt các sản phẩm của
cả hai công ty, Coca cola và Pepsi cola đã mất vị trí độc tôn của mình tại mỗi
khu vực. Và cuộc chiến này chắc chắn sẽ còn tiếp diễn và dai dẳng cho tới khi
9


người tiêu dùng không còn hứng thú với nước giải khát nói chung, với sản phẩm
của Coca và Pepsi nói riêng, song điều đó là không tưởng. Đây được xem là
cuộc đại chiến thế kỉ không tiếng súng khốc liệt nhất, nhưng cũng sôi nổi và náo
nhiệt vô cùng.
Câu hỏi thảo luận:

- Theo em vì sao Pepsi cola ra đời sau nhưng lại chọn Coca cola làm đối
thủ cạnh tranh trực tiếp của mình?
- Khi mới vào thị trường Việt Nam đầu những năm 90 của thế kỉ trước, cả
hai đều có vị trí độc tôn ở từng thị trường, nhưng càng về sau lại không thể giữ
được vị thế đó?vì sao?
- Tìm hiểu một vài chiến lược để chiếm lĩnh thị trường của nhau của hai
dòng sản phẩm này?
Yêu cầu:
Sau thời gian cụ thể HS thảo luận với nhau, cần đưa ra các nhận định về
việc nghiên cứu thị trường của hai doanh nghiệp này, và tìm hiểu một vài chiến
lước phát triển kinh doanh để mở rộng thị trường của mình. Đây là vấn đề mấu
chốt để quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. HS đọc tài liệu, nghiên cứu,
suy luận và phân tích.
GV nhận xét:
Không chỉ có Pepsi cola mà bất kể một doanh nghiệp nào khi quyết định
đối thủ cạnh tranh trực tiếp của mình cũng phải hết sức cẩn trọng, điều đầu tiên
cần phải tìm hiểu được nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm của doanh
nghiệp đó, và phần thị trường mà doanh nghiệp đang nắm giữ. Mà hai điều đó,
Coca cola đều có và cực kì có tiếng trong thế giới nước giải khát. Do đó chọn
Coca cola là một chiến lược hết sức thông minh nhưng cũng vô cùng mạo hiểm
của Pepsi cola, và cho đến thời điểm này họ đã thành công.
Ngoài cuộc đấu tranh dai dẳng, cạnh tranh khốc liệt của Pepsi và Coca thì
ngay ở thị trường trong nước chúng ta cũng thấy có rất nhiều doanh nghiệp như
Honda và Yamaha; Tide và Omo; Sam sung và Nokia …. đều là những cặp đối
thủ “không đội trời chung” trong kinh doanh. Việc nghiên cứu thị trường của
doanh nghiệp càng cẩn trọng, cụ thể bao nhiêu thì khả năng thành công của
doanh nghiệp sẽ càng lớn bấy nhiêu.
Nội dung bài học:Thông qua tình huống trên, GV sẽ dẫn dắt vào nội dung
bài học
Nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp thực chất là:

- Tìm hiểu nhu cầu của khách hàng đối với các sản phẩm, hàng hóa của
doanh nghiệp. Nhu cầu của khách hàng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
+ Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa
+ Giá cả hàng hóa
10


+ Thu nhập bằng tiền của dân cư
- Tìm ra phần thị trường của doanh nghiệp (tìm kiếm cơ hội kinh doanh)
* Tất cả các yếu tố trên giúp cho doanh nghiệp hình thành quy trình phục
vụ khách hàng hiệu quả, đồng thời có các biện pháp thích hợp nhằm thu hút
khách hàng đến với doanh nghiệp và các sản phẩm của doanh nghiệp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua thực tế giảng dạy, trong năm học vừa qua, với 7 lớp khối 10 tại trường
THPT Triệu Sơn 4 thì việc áp dụng PP NCTHĐH để phát huy tính chủ động, sáng
tạo của học sinh đã đem lại hiệu quả nhất định. Nó đã thực sự lôi cuốn, tạo được sự
phấn khởi của học sinh khi tham gia vào mỗi tiết học Công nghệ.
Tôi đã tiến hành dạy bốn lớp 10B1, 10B2 (Ban KHTN, lực học của học sinh
tốt hơn) và 10B5, 10B6(Ban cơ bản)theo hai giáo án tương đương với hai phương
pháp hoàn toàn khác nhau: một giáo án được dạy theo phương pháp truyền
thống(10B2,10B6), một giáo án có sử dụng PP NCTHĐH(10B1, 10B5). Sau khi
dạy xong phần Tạo lập doanh nghiệp, tôi đã tiến hành kiểm tra 5 phút để có kết quả
làm căn cứ cho quá trình sử dụng phương pháp dạy học chủ động trong bộ môn mà
tôi đang hoàn thiện.
Kết quả kiểm tra như sau:
TN - KHTN: lớp thực nghiệm Ban KHTN;
TN – CB: lớp thực nghiệm Ban cơ bản
ĐC - KHTN: lớp đối chứngBan KHTN;
ĐC – CB: lớp đối chứngBan cơ bản

Điểm
Lớp
10B1
TN KHTN

10B2
ĐC KHTN

10B5
TN - CB

10B6
ĐC - CB


số
4
2
4
2
4
1
4
1

1

2

3


4

5

6

7

8

9

10

0
0
%
0
0
%
0
0
%
0
0
%

0
0

%
0
0
%
0
0
%
0
0
%

0

1
2.38
%
2
4.76
%
2
4.88
%
4
9.76
%

3

8
19.05

%
13
30.95
%
10
24.39
%
10
24.39
%

16
38.10
%
11
26.19
%
10
24.39
%
9
21.95
%

8
19.05
%
3

5

11.90%
1

1
2.38
%
0

7.14%

2.38%

0%

9
21.95
%
2

3
7.32%
1

1
2.44
%
0

4.88%


2.44%

0%

0%
5
11.9%
1
2.44
%
3
7.32
%

7.14%
7
16.67
%
5
12.20
%
12
29.27
%

Bảng 1:Thống kê kết quả thực nghiệm và đối chứng theo Ban học

11



Điểm
Kết
quả
Thực
nghiệ
m
Đối
chứng


số
8
3
8
3

1

2

3

4

5

6

7


8

9

10

0
0
%
0
0
%

0
0
%
0
0
%

1
1.20
%
8
9.64
%

3
3.61
%

6
7.23
%

8

18
21.69
%
23
27.71
%

26
31.33
%
20
24.10
%

17
20.48
%
5

8
9.64
%
2
2.41

%

2
2.41
%
0

9.64%
19
22.89
%

6.02%

0%

Bảng 2: Thống kê kết quả thực nghiệm và đối chứng không theo Ban học
Kết quả thống kê ở Bảng 1 cho thấy:
- Ở hai lớp Ban KHTN, khả năng nhận thức của học sinh là như nhau,
nhưng kết quả kiểm tra đã có sự chênh lệch khá rõ: lớp thực nghiệm(10B1) tỷ lệ
HS đạt điểm khá, giỏi tương đối cao(điểm 8 chiếm 19,05%, điểm 9 chiếm
11,9%, điểm 10 là 2,38%), trong khi đó lớp đối chứng(10B2) số học sinh có
điểm trung bình từ 5 trở lên lại khá phổ biến, chỉ có một học sinh đạt 9 điểm,
không có học sinh đạt điểm 10; số học sinh đạt điểm giỏi ở lớp 10B1 (lớp thực
nghiệm) nhiều gấp 4 lần lớp 10B2 (lớp đối chứng).
- Ở hai lớp Ban cơ bản, ta cũng thấy có sự phân hóa về điểm số tương đối
rõ rệt khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm (lớp 10B5) và không áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm (10B6); hơn nữa,lớp 10B5, lực học không tốt bằng lớp 10B2
nhưng khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm đã cho kết quả HS có điểm 8 trở lên
cao gấp 3 lần lớp 10B2; cả hai lớp thực nghiệm 10B1 - Ban KHTN và 10B5 –

Ban cơ bản, đều có tỷ lệ điểm giỏi cao như nhau (10B1 là 30,95%, 10B5 là
31,7%)
Kết quả thống kê ở Bảng 2cho ta thấy,sử dụng PP NCTHĐH trong dạy học
(không phân biệt theo ban học)số lượng học sinh có điểmgiỏi ở các lớp thực
nghiệm cao hơn 3,5 lần ở các lớp đối chứng; điểm dưới trung bình ở các lớp
thực nghiệm cũng ít hơn 3 lần so với lớp đối chứng.
Trong quá trình dạy học ở 4 lớp, các em đều nghiêm túc tiếp thu kiến
thức. Vậy nguyên nhân tại sao lại có sự khác biệt về kết quả như vậy?
Câu trả lời là: cách lĩnh hội và làm chủ kiến thức của học sinh hoàn toàn
khác nhau,ở lớp thực nghiệm giáo viên đã tạo không khí sôi nổi, phấn khởi trong
giờ học, tạo cơ hội cho học sinh được bày tỏ quan điểm của mình và quan điểm
12


của cả nhóm trước lớp(lớp thực nghiệm), một bên các em tiếp thu một cách thụ
động thông qua việc thông báo, giải thích của giáo viên. Cụ thể:
Ở lớp thực nghiệm:
- Các học sinh đều hăng say tìm tòi, trao đổi và phát biểu tích cực.
- Không khí lớp học thoải mái, học sinh tự tin chủ động trong việc lựa
chon nội dung, kịch bản phù hợp nhất để trình bày.
- Đa số học sinh đã nắm bắt được trọng tâm kiến thức của bài.
- Biết vận dụng một cách sáng tạo vào kịch bản của mình những tình
huống từ thực tế, trình bày lưu loát như học sinh Lê Thị Quỳnh, Lê Văn Hiếu …
- Tạo nên sự phấn khởi, niềm đam mê đối với một lĩnh vực mà các em
đều yêu thích đó là kinh doanh nên các em rất nhiệt tình, tích cực.
Ở lớp đối chứng:
- Không khí lớp học trầm lắng, học sinh không nhiệt tình trong việc xây
dựng bài và phát biểu ý kiến.
- Việc nắm bắt kiến thức của học sinh rất thụ động, phụ thuộc vào giáo
viên nên lượng kiến thức các em có chỉ dừng lại ở mức độ nhớ và tái hiện mà

chưa có sự vận dụng vào thực tế.
Như vậy, qua kết quả thực nghiệm này, tôi càng có thêm cơ sở thực tiễn
để tin rằng sử dụng phương pháp dạy học theo hướng chủ động đem lại nhiều
thuận lợi cho cả GV và HS: HS tích cực tham gia vào công việc học tập, có
hứng thú và chủ động hơn trong việc làm chủ kiến thức của mình; sôi nổi, nhiệt
tình trong việc bày tỏ ý kiến của mình; GV cũng nhẹ nhàng hơn trong việc
truyền đạt kiến thức cho HS, chỉ cần định hướng công việc cho HS để các em
“tự thân vận động”, tự do sáng tạo, tự do khám phá.
Do giới hạn về thời gian cũng như nội dung của đề tài nên tôi vẫn chưa
thể tiến hành thực nghiệm trên phạm vi rộng. Với những kết quả đã đạt được, tôi
tin rằng sử dụng PP NCTHĐH trong dạy học Công nghệ là rất cần thiết, và có
hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học trong các nhà
trường hiện nay.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3. 1. Kết luận
Từ những nghiên cứu đã thực hiện, tôi rút ra được một số kết luận sau:
- Bước đầu đã đi nghiên cứu được cơ sở thực tiễn của PP NCTHĐH trong
dạy học chủ đông.
- Đã thiết kế và xây dựng kịch bản cho một số bài thuộc phần Tạo lập doanh
nghiệp.
- Tìm hiểu ưu điểm, nhược điểm cũng như quy trình sử dụng từng phương
pháp NCTHĐH dạy học trong phần Tạo lập doanh nghiệp
13


- Đã tiến hành dạy ở 4 lớp 10B1, 10B2, 10B5, 10B6 để đưa ra kết quả
trong việc bước đầu sử dụng phương pháp trên trong quá trình dạy học. Từ
những kết quả đầu tiên này, có thể thấy rằng sử dụng PP NCTHĐH thực sự đã
đem lại hiệu quả cao trong việc truyền đạt kiến thức cho học sinh theo hướng
tích cực và phân loại chất lượng học sinh.

- Đối với phương pháp này khi vận dụng chung cho các tiết học ở cùng
một lớp cần chú ý đến những đặc trưng cơ bản của từng nội dung để lựa chọn
trường hợp phù hợp tránh hiện tượng nhàm chán cho học sinh.
3.2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu đề tài tôi rút ra một số kiến nghị sau:
- PP NCTHĐH thực sự có hiệu quả vì vậy cần quan tâm hơn nữa để phát
triển trong dạy học bộ môn Công nghệ vốn mang tính khô khan và nhàm chán.
- GV cần phải có chuẩn bị tốt cho học sinh về kĩ năng cũng như khả năng
thuyết minh, thuyết trình trước đám đông.
- Trong quá trình thực hành các phương pháp, GV nên cho HS tiếp cận
với từng giai đoạn của phương pháp và tránh việc sử dụng một phương pháp cho
tất cả các nội dung trong một bài để trách sự nhàm chán trong giờ học.
- Với bốn lớp được tiến hành thực hiện phương pháp, ngoài những lớp có
khả năng suy luận và tư duy tương đối tốt (10B1, 10B2) thì cũng có những lớp
khả năng tư duy và suy luận chưa thực sự thuyết phục (10 B5, 10B6), cho nên
đối với mỗi một đối tượng học sinh khác nhau GV nên định hướng để khi các
em sử dụng phương pháp không quá khả năng của bản thân HS.
- Do hạn chế về mặt thời gian nên tôi mới chỉ dừng lại và đi sâu vào việc
thiết kế nội dung cho phần Tạo lập doanh nghiệp. Chúng ta có thể vận dụng
phương pháp này vào dạy học, đặc biệt là đối với bộ môn đặc trưng như bộ môn
Công nghệ 10, tôi tin sẽ rất hiệu quả.

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác

Lê Thị Huế


14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Chiến lược phát triển giáo
dục 2001- 2010, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[2]. Sử dụng PP NCTHĐH trong dạy học môn GDCD lớp 12, Phạm
Thị Dinh, THPT Sông Ray.
[3]. Quản trị doanh nghiệp thương mại, GS.TS. Phạm Vũ Luận, 2004, NXB
Thống kê, Hà Nội.
[4]. Hội thảo CPIO, 2010, ĐHQG TPHCM.
[5]. Chương trình “Sinh ra từ làng”, VTV6, Đài THVN, năm 2013, 2017
[6]. www.doanhnhansaigon.vn
[7]. https//tusach.thuvienkhoahoc.com
[8].http// nhanvanviet.com

15


PHỤ LỤC
1. Một vài hình ảnh của cử nhân Nguyễn Duy Thiên Ân và kỹ sư Nguyễn Bá Toàn cùng
với sản phẩm:

Nguyễn Duy Thiên Ân tại nơi sản xuất và sản phẩm trứng gà Omega 3

1


Kỹ sư Nguyễn Bá Toàn tại cơ sở sản xuất và sản phẩm cá kho Bá Kiến

2. Câu chuyện cạnh tranh thế kỉ của Coca cola và Pepsi cola
Câu chuyện được bắt đầu vào năm 1886 khi một người đàn ông tên John S. Pemberton
phát hiện ra công thức loại nước soda đầu tiên và đặt tên công ty là Coke (Coca Cola). 13 năm
sau đó, đối thủ chính của Coca xuất hiện khi một dược sĩ tên Caleb Bradham tạo ra công thức
của Pepsi Cola.
Khi Coca bắt đầu xây dựng nhà máy ở nước ngoài tại Paris, Bordeaux và các thành
phố châu Âu khác (năm 1919), thì Pepsi tuyên bố phá sản vào năm 1923 do những hạn chế
trong việc phân phối đường dưới thời thế chiến thứ nhất.
Năm 1928, Pepsi Cola được Tập đoàn Craven Holdings có trụ sở tại bang Virginia
(Mỹ) mua lại. Tuy nhiên, đến năm 1931, Pepsi lại một lần nữa bị phá sản và được bán lại cho
chủ tịch của một chuỗi cửa hàng bánh kẹo, ông Charles G. Guth.
Trong khi đó, Coca liên tục mở rộng thị trường sang Australia, Áo và Nam Phi. Mãi
đến năm 1938, sau khi Walter S. Mack đảm đương vị trí chủ tịch, Pepsi mới chính thức vươn
mình, dần dần trở thành đối thủ chính của Coca.
Để đuổi kịp Coca, Pepsi không ngại bỏ tiền thuê những ngôi sao điện ảnh, thể thao và
những người nổi tiếng để làm đại diện thương hiệu cho mình. Các quảng cáo của Pepsi
thường xoay quanh chủ đề chọn lựa của các ngôi sao giữa Pepsi và Coca, mà Pepsi luôn được
lựa chọn, với slogan: “Sự chọn lựa của thế hệ mới”. Pepsi từng nổi tiếng bằng việc đưa hình
ảnh Phó tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Thủ tướng Nga Khrushchev cùng uống Pepsi
lên các mặt báo.
2


Trong khi Coca luôn nhấn mạnh đến thức uống, thì Pepsi nhấn mạnh lên người dùng
thức uống. Từ năm 1950, Pepsi thay đổi chiến lược tiếp thị từ “giá trị sản phẩm” sang “phong
cách sống”, giao cho diễn viên điện ảnh Joan Crawford phụ trách. Pepsi là công ty đầu tiên áp
dụng chiến lược tiếp thị này và cũng là công ty có chiến dịch tiếp thị theo kiểu phong cách
sống kéo dài nhất.
Không chỉ cạnh tranh bằng những người nổi tiếng, Coca và Pepsi luôn cạnh tranh từng
chút một trong các loại sản phẩm. Hễ hãng này ra một loại hương vị mới thì hãng kia chẳng

bao lâu cũng cho ra lò một dòng sản phẩm có hương vị tương tự.
Coca-Cola và Pepsi cũng dấn bước vào một cuộc chiến tranh trên không gian ảo với
sự xuất hiện của trang Pepsi Stuff (thuộc Pepsi) năm 2005 và Coca-Cola trả đũa bằng việc mở
trang Coke Rewards. Cả 2 chương trình này đều trao phần thưởng cho các khách hàng thu
thập được nhiều nút chai hoặc vỏ lon, sau đó đổi thành điểm để nhận quà.
Năm 1985, 2 đối thủ truyền kiếp Coca-Cola và Pepsi bắt đầu triển khai những chiến
dịch tranh giành nhau ngoài không gian vũ trụ. Họ thiết kế những thùng nước ngọt đặc biệt để
gửi theo phi hành đoàn của tàu vũ trụ Space Shuttle Challenger và STS-51-F nhằm thử
nghiệm công nghệ đóng gói và phân phối trong tình trạng không trọng lực. Tuy nhiên, các
chương trình không gian của cả 2 công ty đều bị đánh giá là thất bại. Nó chỉ được nhắc đến
như bằng chứng về sự đấu đá kịch liệt của 2 đại gia nước ngọt.
Những thập niên 90 của thế kỉ trước, khi cả hai bước vào thị trường kinh doanh ở Việt
Nam cũng đã thấy sự cạnh tranh rất khốc liệt. Ở giai đoạn đầu Coca chiếm lĩnh thị trường
Miền Bắc với biểu tượng hoa Đào, thì Pepsi lại chiếm lĩnh thị trường Miền Nam, với biểu
tượng hoa Mai. Nhưng tính đến thời điểm hiện tại, cả hai đã có ở hầu khắp thị trường trong cả
nước và vẫn luôn tìm cách để chiếm lĩnh phần thị trường của nhau.
3. Bài kiểm tra 5 phút
Câu hỏi: Tìm hiểu chiến lược phát triển kinh doanh của hai dòng sản phẩm xe máy
của hãng Yamaha và Honda mà em biết (đối tượng khách hàng, sản phẩm cạnh tranh, ưu
điểm và hạn chế của từng loại…)

3



×