Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Hướng dẫn ôn tập các biện pháp tu từ từ vựng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.77 KB, 19 trang )

A. CÁCH VIẾT MỘT ĐOẠN VĂN VỀ PHÂN TÍCH TÁC DỤNG CỦA PHÉP TU TỪ.
Em thường bị lúng túng khi viết một đoạn văn về phân tích tác dụng của các phép tu từ? em phải trình
bày những nội dung gì? trình bày như thế nào? rất mong các thầy cô hướng dẫn. (Lê Trung Dũng- Hs lớp
93)
Đó là một câu hỏi hay chứng tỏ em là người ham học hỏi, không phải chỉ riêng em mà nhiều bạn khác
cũng có những băn khoăn như thế, …
Tôi cũng đã tìm đọc nhưng cũng chưa có tài liệu nào nói về vấn đề này một cách đầy đủ, cụ thể cả.
Nhưng theo tôi, để viết (hoặc trình bày miệng) một đoạn văn thể hiện được cảm nhận của mình về một
tác dụng của một phép tu từ được sử dụng trong đoạn hoặc bài thơ (bài văn) (sau đây gọi chung là văn
bản) thì phải tiến hành các bước sau:
I.VỀ CHUẨN BỊ:
- Phải nắm vững những hiểu biết cơ bản về các phép tu từ đã được học
- Đọc kĩ văn bản đó.
- Xác định đúng biện pháp tu từ đã được sử dụng trong văn bản
- Nhận thấy được giá trị, ý nghĩa, hiệu quả, dụng ý diễn đạt thông qua phép tu từ mà tác giả sử dụng ở
trong văn bản đó.
II.VỀ CÁCH TRÌNH BÀY:
A. Phần mở đoạn:
Giới thiệu văn bản và biện pháp tu từ đã sử dụng.
B.Phần phát triển đoạn:
Phân tích giá trị tu từ:
1.Chỉ ra tên của phép tu từ đó ( có thể gồm nhiều phép được sử dụng trong đó.)
2.Tìm ra những từ ngữ thể hiện phép tu từ đó; cấu trúc, cấu tạo của phép tu từ ( kiểu, cách, công
thức, ý nghĩa biểu thị, mối liên hệ cụ thể của nó)
3.Nêu tác dụng, hiệu quả sử dụng của phép tu từ trong văn bản đó:
-Nêu những giá trị biểu cảm mà phép tu từ mang lại thể hiện trong văn bản.
-Vận dụng vốn sống, cảm thụ của bản thân về Ngữ - Văn liên quan đến nội dung văn bản và kiến
thức về biện pháp tu từ để phân tích, trình bày những suy nghĩ liên tưởng cảm nhận của riêng mình về giá
trị biểu cảm, hiệu quả việc sử dụng của phép tu từ của tác giả làm nên sự thành công về mặt nghệ thuật
nhằm diễn đạt thành công một nội dung nào đó cụ thể trong văn bản.
Cần bám sát những nội dung kiến thức về lý thuyết về các biện pháp tu từ mà bài học đã cung


cấp. Thường là ở phần ghi nhớ. Và căn cứ vào thực tế cụ thể nội dung nội dung biện pháp tu từ trong văn
bản đang xem xét.
C. Phần kết đoạn:
Khẳng định lại giá trị tu từ được dùng trong văn bản.
Nếu được thì có thể so sánh, liên tưởng thêm với những trường hợp tượng tự khác để thấy được
nét riêng độc đáo, sáng tạo của tác giả trong văn bản đó thì càng tốt.
Lưu ý:
- Không nhất nhất như trình bày ở trên, có thể linh hoạt thay đổi trật tự theo khả năng ý thích
cảm xúc sáng tạo của riêng em. Nhưng nên trình bày đủ ý và viết nó trong một đoạn văn hoàn chỉnh “có đầu có đuôi”
- Đừng biến nó thành một đoạn văn phân tích nội dung văn bản chung chung mà chỉ nên viết
đoạn văn dưới góc độ phân tích tác dụng hiệu quả của phép tu từ)
Sau đây là một vài ví dụ
VD1.Phân tích giá trị biểu cảm của phép tu từ so sánh được sử dụng trong phần lời của bài hát “
Quê hương” Nhạc Giáp Văn Thạch - lời thơ Đỗ Trung Quân.
Bài hát “Quê hương” Nhạc Giáp Văn Thạch, lời thơ Đỗ Trung Quân là một bài hát hay. Điều làm
nên sự thành công của bài hát này một phần là ở nghệ thuật so sánh trong phần lời của bài hát.


ở đây, Đỗ Trung Quân đã đem so sánh : “ Quê hương” với rất nhiều hình ảnh thân thuộc (vế
A) Quê hương là:
(vế B) - Chùm khế ngọt
- Con diều biếc
- Cầu tre nhỏ
- Con đò nhỏ
- Là đường đi học...
- Như là chỉ một mẹ thôi!...
Vế A: “ Quê hương” là một khái niệm trừu tượng, chỉ có một và lặp lại được đem so sánh với
rất nhiều vế B...là những hình ảnh, sự vật cụ thể rất đỗi thân quen, gần gũi gợi nhớ, chất chứa bao kỷ
niệm, tình cảm thiêng liêng...Có thể nói Đỗ Trung Quân đã “định nghĩa quê hương” bằng một điệp ngữ
kết hợp với nghệ thuật so sánh. Một sự so sánh bề ngoài thì “nổi” thì “ngang bằng” nhưng thực ra lại là “

chìm”, là “không ngang bằng”. Quê hương - một nội dung trừu tượng được so sánh với nhiều hình ảnh rất
cụ thể: chùm khế; con diều; cầu tre; con đò; đường đi học; là… mẹ. Quê hương là tất cả...là một không
gian rộng lớn.
Có thể nói nhà thơ đã cụ thể hóa, “vật chất hóa” khái niệm quê hương, tích tụ thêm cho “Quê
hương” thêm nhiều ý nghĩa, sinh động, gợi cảm, càng khơi gợi thêm cho mỗi một người nghe sự tự do
liên tưởng, cảm nhận theo những cảm xúc, nỗi niềm, ký ức riêng có của mỗi người vô cùng phong phú.
Chính sự so sánh độc đáo đó đã làm cho lời hát trở nên sinh động, gần gũi, vô cùng hàm súc và luôn tươi
mới gây được chú ý của nhiều người.
Nhờ thế mà lời thơ, bài hát đã nhanh chóng đi vào lòng người được giới trẻ thuộc lòng và hát say
mê...
VD2: Phân tích nét nghệ thuật ẩn dụ độc đáo trong câu thơ sau:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
(Nguyễn Khoa Điềm)
Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có câu thơ
ẩn chứa một hình ảnh ẩn dụ thật độc đáo:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng.
“Mặt trời” trong câu thơ thứ nhất là mặt trời của cõi tự nhiên vĩnh hằng đem ánh sáng nuôi
sống muôn loài trên trái đất.
Còn "Mặt trời" trong câu thơ thứ hai chính là em bé trên lưng mẹ. Em bé là mặt trời của mẹ cũng
giống như mặt trời của cõi tự nhiên vĩnh hằng vô cùng cần thiết đối với muôn loài vậy. Đó là một ẩn dụ
độc đáo.
ở đây, Cu tai, đứa con tuy còn nhỏ đang nằm trên lưng mẹ nhưng là linh hồn của người mẹ Tà Ôi.
Đứa con là nguồn sống, là nguồn động viên lớn lao đối với người mẹ, là ánh sáng của đời mẹ, đem lại cho
người mẹ tất cả bao hy vọng ước mơ và sức mạnh vượt gian nan, cực nhọc nguy hiểm, làm cho người mẹ
có một nghị lực phi thường tìm đến với cách mạng, phát rẫy, trỉa bắp, nuôi con, nuôi bộ đội, phục vụ
kháng chiến….
Nguyễn Khoa Điềm đã dùng hình ảnh mặt trời để so sánh ngầm, coi đứa con là mặt trời trong tâm
hồn của người mẹ. Đây cũng là một ẩn dụ độc đáo mới lạ đã thể hiện được tình cảm, sự gắn bó không rời

giữa hai mẹ con, là tấm lòng của người mẹ, là tình mẹ đối với con, là niềm hạnh phúc của người mẹ được
sống vì con..
Đó là một ẩn dụ tạo nên sự thành công của bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”.
Nhà thơ Viễn Phương cũng đã dùng hình ảnh mặt trời nhưng là để ngầm so sánh với Bác Hồ với
ý nghĩa là để ca ngợi Bác Hồ là con người vô cùng vĩ đại, có công lao to lớn, Bác là “mặt trời”đem lại
ánh sáng độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam vừa nhằm thể hiện niềm tôn kính thiêng liêng, sự biết ơn vô
hạn của nhân dân Việt Nam đối với Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
(Viễn Phương)
Cũng dùng hình ảnh mặt trời để diễn đạt cảm xúc suy nghĩ của mình nhưng hai nhà thơ đã khai
thác ở hai nghĩa ẩn dụ khác nhau rất tinh tế. Như vậy, nhờ cách dùng ẩn dụ khác nhau của các tác giả mà
đã tạo cho vốn từ vựng có thêm nhiều nét nghĩa khác nhau vô cùng phong phú.
*Trong bài văn nghị luận nếu biết vận dụng kết hợp nhuần nhuyễn kỹ năng phân tích tác dụng các
biện pháp tu từ này và đưa vào với một mức độ thích hợp thì bài viết sẽ đạt kết quả tốt hơn.
B. CÁC BIỆN PHÁP TU TỪ TỪ VỰNG
I. SO SÁNH
Cần nhớ rằng: Khi chúng ta nói: “Con hơn cha là nhà có phúc” thì chúng ta có một phép so sánh logic
hay được gọi là so sánh chính xác. Phương thức so sánh mà chúng ta đang trao đổi ở đây là so sánh hình
ảnh,
hay
còn
được
gọi

so
sánh
nghệ

thuật.
I.Khái niệm:
So sánh là sự đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác loại cùng có một dấu hiệu chung nào đấy nhằm
biểu hiện một cách hình tượng, đặc điểm của một trong những đối tượng đó. So sánh tu từ có tác dụng
tạo sắc thái biểu cảm, tạo cảm xúc cụ thể, sinh động, tạo tính hình tượng.
Thí dụ:
-Tiếng suối trong như tiếng hát xa - Hồ Chí Minh - Cảnh khuya
- Mặt ngay như cán tàn - Thành ngữ
... Đó là một sự so sánh có giá trị hình tượng và biểu cảm. Phương thức so sánh là một hình
thức biểu hiện đơn giản nhất của lời nói có hình ảnh. Có thể nói rằng hầu như bất cứ sự biểu đạt hình ảnh
nào cũng có thể chuyển thành hình thức so sánh.
II. Cấu tạo của phép so sánh:
Về mặt hình thức, so sánh khác với các cách chuyển nghĩa, ở chỗ bao giờ cũng gồm hai đối tượng lập
thành hai vế. Các đối tượng này có thể là sự vật, tính chất hay hoạt động. Hai đối tượng gắn với nhau để
tạo nên một hình thức so sánh. Mô hình đầy đủ của một phép so sánh thường là
* A + từ so sánh + B trong đó gồm:
- vế A nêu tên sự vật, sự việc được so sánh
- vế B nêu tên sự vật, sự việc dùng để so sánh với sự vật, sự việc nói ở vế A .
- Từ ngữ chỉ phương diện so sánh.
-Từ ngữ chỉ ý so sánh (từ so sánh): như, giường như, chừng như, hơn, thua, kém...
Trong thực tế mô hình trên có thể biến đổi. Các từ ngữ chỉ phương diện so sánh và từ ngữ chỉ ý so sánh
có thể được lược bớt. Vế B, từ so sánh có thể linh hoạt thay đổi vị trí
Thí dụ: - Tình anh như nước dâng cao,
- Tình em như tấm lụa đào tẩm hương - Ca dao
- Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da - Nguyễn Du - Truyện Kiều
-Có khi mô hình trên đổi thành:
*Như B + A:
-Như chiếc đảo bốn bề chao ngọn sóng,
Hồn tôi vang vọng cả hai miền - Tế Hanh
Trong thơ ca nhờ cấu trúc cân đối và do sự cô động của ngôn ngữ thơ, nên nhiều khi giữa A và B không

có từ so sánh:
Thí dụ: -Gái thương chồng (A)đương đông buổi chợ(B)
Trai thương vợ (A)nắng quái chiều hôm (B)- Tục ngữ
- Người ngồi đó lớn mênh mông,(A)
Trời xanh, biển rộng, ruộng đồng, nước non.(B) - Tố Hữu
*A bao nhiêu B bấy nhiêu
Thí dụ: Ai ơi, đừng bỏ ruộng hoang,


Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu - Ca dao
* A là B: Từ là ở đây có giá trị tương đương với như, nhưng có sắc thái khác. Nhưmang sắc thái giả
định, còn là mang sắc thái khẳng định.
Thí dụ: Nhân dân là bể,
Văn nghệ là thuyền.... - Tố Hữu - Việt Bắc
Thí dụ:- Họ là những chiến sĩ trẻ (họ như là những chiến sĩ trẻ)
- Chủ nghĩa Lê nin là cái cẩm nang thần kỳ (… như là cái cẩm nang...)
(Hồ Chí Minh – Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê nin)
Xét về mặt nội dung, đối tượng nằm ở hai vế của phép so sánh là khác loại, nhưng lại có những nét nào
đó giống nhau, nét giống nhau này có thể hoặc nổi hoặcchìm.
Thí dụ:
Nổi: Dù ai nói ngã nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân - Ca dao
Chìm: Trẻ em như búp trên cành,
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan. - Hồ Chí Minh
(vắng mặt phương diện so sánh - làm cho người đọc có thể liên tưởng ở nhiều phương diện; tươi non,
đầy sức sống, chứa chan hy vọng (gần với ẩn dụ)
Nét giống nhau nổi hoặc chìm này là cơ sở để cho phép so sánh có thể hình thành được và tạo nên hạt
nhân nội dung của phép so sánh. Đó cũng là căn cứ để bình giá so sánh.
Một phép so sánh được xem là tốt, là “đắt” phải đồng thời thoả mãn được cả hai điều kiện sau đây:
a. Đối tượng đưa ra so sánh là khác loại.

b. Phát hiện được nét giống nhau giữa hai đối tượng khác loại, đó chính là tài năng của người sử dụng so
sánh bộc lộ ra ở chỗ phát hiện đúng những nét giống nhau mà ít ai hoặc không ai để ý đến.
Thí dụ:
Còn duyên thì gắn như keo
Hết duyên nghễnh ngãng như kèo đục vênh - Ca dao
Phải chăng câu ca dao này là lời trách móc của một người con gái đối với người con trai nào
đó! Sự gắn bó của tình yêu so sánh với sự gắn bó của keo với nhau, hoặc của keo với một vật khác thì đó
là một sự so sánh không phải không hay, vì người so sánh đã phát hiện rất đúng đắn nét giống nhau giữa
hai đối tượng khác loại ( tình yêu và keo); nhưng cách so sánh này không phải là thật ‘mới mẻ”,bất ngờ.
Song khi câu ca dao so sánh sự không gắn bó của tình yêuvới sự “nghễnh ngãng” của cái kèo nhà bị
đục vênh thì quả là một sự so sánh vừa độc đáo, vừa mang sắc thái dân tộc, bởi vì cách so sánh này
không phải dễ dàng nhận thấy và phát hiện ra, cho nên nó luôn luôn mới mẽ, gợi hình và gợi cảm.
Từ sự phân tích trên đây cho thấy so sánh là phương tiện giúp ta nhận thức sâu sắc hơn những
phương diện nào đó của sự vật, là phương tiện giúp ta bày tỏ lòng yêu ghét, ý khen chê, thái độ khẳng
định hoặc phủ định đối với sự vật. Do đó so sánh là phương tiện được dùng trong nhiều phong cách ngôn
ngữ: trong khẩu ngữ cũng như văn viết, trong phong cách nghệ thuật cũng như phong cách chính luận.
So sánh mang phong cách đặc trưng của của thời đại, phong cách dân tộc, phong cách tác giả.
Tìm hiểu sự khác nhau giữa cách so sánh trong văn học cổ điển với văn học hiện đại, giữa cách so sánh
trong ca dao với thơ ca bác học, giữa cách so sánh của nhà thơ này với nhà văn khác là một điều thú vị.
Có người ưa dùng cách so sánh mang tính chất trí tuệ, có người ưa so sánh mộc mạc, chân chất, chính xác
và pha màu hài hước như văn chương dân gian.
III. Đối tượng so sánh:
a.So sánh đồng loại:
- So sánh người với người:
Thí dụ: Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo
Khi tới trường cô giáo như mẹ hiền - Lời bài hát
- So sánh vật với vật:
Thí dụ: Từ xa nhìn lại, cây gạo sừng sững như một tháp đèn khổng lồ- Vũ Tú Nam
b.So sánh khác loại:
- So sánh vật với người:

Thí dụ: Ngôi nhà như trẻ nhỏ


Lớn lên với trời xanh - Đồng Xuân Lan
- So sánh cái cụ thể với cái trừu tượng và ngược lại:
Thí dụ:
Trường Sơn: chí lớn ông cha
Cửu Long: lòng mẹ bao la sóng trào - Lê Anh Xuân
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra - Ca dao
IV.Các kiểu so sánh
1.So sánh ngang bằng: A là B ( những từ so sánh chỉ ý ngang bằng)
Thí dụ: Ba mẹ là lá chắn
che chở suốt đời con - lời bái hát
2.So sánh không ngang bằng: A chẳng( chưa) bằng B ( những từ so sánh chỉ ý không ngang bằng)
Thí dụ: Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi –Tố Hữu
Các từ so sánh

Kiểu so sánh

Là, như, y như, giống như, tựa So sánh ngang bằng
như, tựa như là, bao nhiêu…
bấynhiêu
Hơn, không bằng, kém, chưa So sánh ngang khôngbằng
bằng, chẳng bằng…
V.Luyện tập:
1.Tìm hiểu cấu tạo của so sánh trong các ví dụ mục II.III rồi điền vào bảng sau:
Vế A
(sự vật được

so sánh)

Phương diện so
sánh

Từ so sánh

Vế B
(sự vật dùng để so
sánh)

2. Đọc, tìm, ghi lại những đoạn văn có chứa phép so sánh trong các văn bản đã học hoặc đã đọc mà em
thích.
Viết thành những đoạn văn trình bày lại cảm thụ của em.
3.Tìm các vế B.. của vế A- “Quê hương” trong bái hát “Quê hương” của Đỗ Trung Quân và phân tích giá
trị biểu cảm của phép tu từ so sánh được sử dụng trong đó.
Gợi ý:
Trong bái hát “ Quê hương” Đỗ Trung Quân đã đem so sánh vế A(sự vật được so sánh) : Quê hương với
rất nhiều vế B(sự vật dùng để so sánh):
- Chùm khế ngọt
- Con diều biếc
- Cầu tre nhỏ
- Con đò nhỏ
- Là đường đi học...
- Như là chỉ một mẹ thôi!...
Vế A là một khái niệm trừu tượng, chỉ có một và lặp lại được đem so sánh ngang bằng mà lại
không ngang bằng với rất nhiều vế B...là những hình ảnh, sự vật cụ thể rất đỗi thân quen, gần gũi gợi nhớ
chất chứa kỷ niệm, tình cảm thiêng liêng...Có thể nói Đỗ trung Quân đã “định nghĩa” Quê hương- một nội
dung trừu tượng bằng những hình ảnh rất cụ thể... Một sự so sánh bề ngoài thì “nổi” thì “ngang bằng”
nhưng thực ra lại là “ chìm”, là “không ngang bằng”, quê hương là tất cả... làm cho mỗi người đọc tự do

liên tưởng, cảm nhận về quê hương theo những cảm xúc ký ức riêng. Vì thế mà lời hát sinh động, gần


gũi, mà vô cùng hàm súc và luôn tươi mới. Tác giả đã phát hiện ra hình ảnh và cách so sánh độc đáo gây
được chú ý của nhiều người.
Nhờ thế mà lời thơ, bài hát đã nhanh chóng đi vào lòng người được giới trẻ thuộc lòng và hát say mê...
II. NHÂN HOÁ
1.
Khái
niệm:
Nhân hoá là gọi hoặc tả con vật, cây cối, đồ vật…bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả
con người; làm cho thế giới loài vật, cây cối, đồ vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được
những
suy
nghĩ,
tình
cảm
của
con
người.
Nhân hoá có tác dụng làm cho các sự vật trở nên sống động gần gũi với con người.
Có thể nói thêm rằng:
Nhân hoá hay nhân cách hoá là một biến thế của ẩn dụ, ở đó người ta chuyển đổi ý nghĩa của các từ ngữ
chỉ thuộc tính của con người sang đối tượng không phải con người.
Có người cho nhân hoá thực ra là nhân vật hoá, tức là cách biến mọi vật thành nhân vật đối thoại hay như
là một nhân vật của mình
2.Các kiểu nhân hoá:
Về mặt hình thức, nhân hoá có thể được tổ chức bằng cách:
a.Dùng những từ vốn gọi người để gọi sự vật:
Dùng những từ vốn gọi người ( cô, dì, chú, bác, anh, chị) để gọi sự vật.

Thí dụ:
Có con chim vành khuyên nhỏ. Dáng trông thật ngoan ngoãn quá. Gọi “dạ” bảo “vâng”.Lễ phép ngoan
nhất nhà. Chim gặp bác chào mào, “chào bác!”. Chim gặp cô Sơn Ca, “ chào cô!”. Chim gặp anh chích
choè, “ chào anh!”. Chim gặp chị Sáo Nâu, “chào chị!”- lời bài hát
b. Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt động tính chất của vật:
Thí dụ:
Dùng các động từ thuộc về hoạt động của con người để miêu tả sự tồn tại và vận động của trời - núi trăng- hoa:
Vì mây cho núi lên trời
Vì chưng gió thổi hoa cười với trăng.
Dùng các tình từ miêu tả, các động từ hành vi của người, khoác lên cho các đối tượng không phải người:
...Lúa đã chen vai đứng cả dậy. - Trần Đăng
Hoặc: Súng vẫn thức. Vui mới giành một nữa,
Nên bâng khuâng sương biếc nhớ người đi.- Tố Hữu
Nhờ nhân hoá mà cảnh vật trở nên sinh động lạ thường!
c.Trò chuyện, xưng hô với vật như đối với người
Coi các đối tượng không phải người mà như là người và tâm tình nói chuyện với chúng.
Thí dụ:
....Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mờ
Buồn trông con nhện chăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai,
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ? - Ca dao
Trò chuyện với sự vật, hô - gọi sự vật như trò chuyện với con người, hô gọi con người:
Thí dụ:
Núi cao chi lắm núi ơi ?
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương. - Ca dao
3. Nội dung, cơ sở và tác dụng của nhân hóa:
Về mặt nội dung, cơ sở để tạo nên nhân hoá là sự liên tưởng, nhằm đi đến phát hiện ra những nét giống
nhau giữa người và đối tượng không phải là người. Ở đây đòi hỏi một sự quan sát tinh vi, một sự hiểu biết



chính xác về những thuộc tính của con người cũng như thuộc tính của đối tượng không phải con người.
Như vậy, sự thống nhất giữa tính chính xác của việc rút ra nét cá biệt giống nhau và tính bất ngờ của sự
liên tưởng trong nhân hoá là căn cứ để bình giá nó.
Từ sự phân tích về hình thức và nội dung của nhân hoá như trên cho ta thấy cơ sở chung để cấu tạo nên
nó, cũng như đối với so sánh và ẩn dụ, là rút ra những nét giống nhau giữa hai đối tượng khác loại.
Nhưng nhân hoá khác so sánh ở chỗ chỉ có một vế còn vế kia ngầm thừa nhận. Và nó khác ẩn dụ ở chỗ nó
là phương tiện để trực tiếp miêu tả đối tượng không phải con người, còn ẩn dụ là một cách gọi tên khác
cho đối tượng định miêu tả.
Tác dụng chủ yếu của nhân hoá đối tượng với sự biểu đạt là miêu tả và trữ tình.
Trước hết, nhân hoá là cách đưa các đối tượng không phải con người sang thế giới con người. Khi các đối
tượng không phải con người được khoác áo con người thì thường tạo nên một không khí mới, sinh động,
chúng trở nên gần gụi hơn, dễ hiểu hơn đối với chúng ta, mở rộng trường liên tưởng…
Thí dụ: Chủ nghĩa cá nhân khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc, mà ai cũng biết: xuống dốc dễ hơn lên
dốc - (Hồ Chí Minh- Đạo đức cách mạng)
Nhờ sử dụng nhân hoá mà đối tượng được nói đến ở đây trở nên thật sinh động. Qua sự nhân hoá này,
chúng ta thấy chủ nghĩa cá nhân vốn có tài ẩn náu, nay hiện ra rất cụ thể, như một con người, tưởng như
cũng hành động, cũng nói năng khôn khéo, cũng biết len lõi vào chỗ yếu của con người để tìm nơi dung
thân...
Sự liên tưởng rút ra nét giống nhau giữa người và đối tượng không phải người thường gắn với cách nhìn,
với thái độ của người nói. Cho nên, bằng nhân hoá, người ta có thể bộc lộ tâm tư của mình một cách kín
đáo. Trong nhiều trường hợp, người nói dùng nhân hoá vừa là để miêu tả đối tượng không phải con
người, làm phương tiện, làm cái cớ để thể hiện tình cảm riêng, sâu kín của mình. Thí dụ câu ca dao nói
với nhện, với sao được trích ra ở trên cho chúng ta thấy đằng sau lời hỏi nhện, nghe sao tha thiết, thoáng
hiện lên một nỗi buồn nhớ không nguôi giữa cảnh đêm khuya của một tâm hồn....
Do có cả chức năng nhận thức và tình cảm, cho nên nhân hoá được sử dụng rộng rãi trong nhiều phong
cách ngôn ngữ khác nhau: khẩu ngữ tự nhiên, trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, trong ngôn ngữ
chính luận...
Bên cạnh nhân hóa, phải kể đến vật hoá hay vật cách hoá, ở đây người ta chuyển đổi ý nghĩa của những

từ ngữ chỉ thuộc tính của vật để biểu thị về con người. Vật cách hoá thường được dùng trong văn châm
biếm, đùa vui, nhưng nó không phải không có giá trị biểu cảm.
Thí dụ:
Gái chính chuyên lấy được chín chồng,
Vo viên bỏ lọ gánh gồng đi chơi.
Ai ngờ quang đứt lọ rơi,
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng. - Ca dao
Hoặc:
Người tình ta để trên cơi,
Nắp vàng đậy lại để nơi giường thờ
Đêm qua ba bốn lần mơ,
Chiêm bao thì thấy dậy sờ thì không. - Ca dao
Đằng sau sự đùa vui ta cảm thấy một tình yêu tha thiết và một nỗi buồn cô đơn, thấm thía vì sự cách trở
với người thương.
4. Luyện tập:
1. Phép nhân hoá sau đây được tạo ra bằng cách nào?
a.
Núi cao chi lắm núi ơi ?
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương. - Ca dao
b. Chủ nghĩa cá nhân khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc, mà ai cũng biết: xuống dốc dễ hơn
lên dốc. (Hồ Chí Minh- Đạo đức cách mạng)
Gợi ý câu 1
a)- Gọi: núi ơi ? - Trò chuyện với sự vật, hô - gọi sự vật như trò chuyện với con người, hô gọi con
người:


b) Chủ nghĩa cá nhân khéo dỗ dành - Dùng những từ vốn chỉ hoạt động, tính chất của người để chỉ hoạt
động tính chất của vật.
2. Viết một đoạn văn với nội dung tự chọn trong đó có dùng phép nhân hóa. Nêu tác dụng mà em mong
muốn có được trong đó.

III. HOÁN DỤ
1.Khái niệm:
Hoán dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng, khái niệm bằng tên gọi của một sự vật, hiện tượng, khái
niệm khác có quan hệ gần gũi với nó nhằm tăng sức gợi cảm cho sự diễn đạt.
Có thể nói thêm rằng:
Hoán dụ là cách chuyển đổi lâm thời tên gọi ở đối tượng này sang biểu thị một đối tượng khác,
dựa trên mối quan hệ khách quan, vật chất hoặc logic có tính chất gần gũi nhau giữa hai sự vật (Vì vậy,
nói chung, có bao nhiêu mối quan hệ thì có thể có bấy nhiêu phương thức hoán dụ nhỏ)
2. Các kiểu hoán dụ:
a. Lấy bộ phận để gọi toàn thể.
Ví dụ:
Đầu xanh có tội tình gì
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi - Nguyễn Du
Đầu xanh: con người ở độ tuổi trẻ trung, tuổi trẻ, thanh niên
Má hồng: người con gái đẹp, người đàn bà sống kiếp lầu xanh
b.Lấy
vật
chứa
đựng để
gọi
vật
bị
chứa
đựng
Thí dụ: Cả nước ôm em khúc ruột của mình... Tố Hữu
Cả nước( vật chứa đựng) biểu thị: “ đồng bào cả nước ta” (vật bị chứa đựng)
Hoặc: Vì sao trái đất nặng ân tình,
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh. - Tố Hữu
Trái đất( vật chứa đựng) biểu thị: “đông đảo những người sống trên trái đất” (vật bị chứa
đựng)

c.Lấy
đặc
điểm,
tính
chất
(dấu
hiệu)
của
sự
vật
để chỉ
sự
vật
Thí dụ: Áo chàm đưa buổi phân li,
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. - Tố Hữu
áo chàm: áo bằng vải thô nhuộm màu chàm của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc. - biểu thị đồng bào các
dân tộc ở Việt Bắc.
d.
Lấy
cái
cụ
thể
để
gọi
cái
trừu
tượng
Thí dụ:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao. - Ca dao

Một cây( số lượng cụ thể- biểu thị số ít); Ba cây( số lượng cụ thể- biểu thị số nhiều)
3. Mục đích và tác dụng của hoán dụ:
Mục đích của hoán dụ là nhấn mạnh vào một dấu hiệu, một thuộc tính nào đó của đối tượng
được nói đến: dấu hiệu hoặc thuộc tính này được dùng làm cái đại diện, cái thay thế cho đối tượng.
Về mặt hình thức, hoán dụ giống ẩn dụ ở chỗ chỉ có một vế (vế biểu hiện), còn vế kia(vế được
biểu hiện) bị che lấp đi. Nhưng trong khi ẩn dụ lâm thời biểu hiện mối quan hệ giống nhau giữa hai sự
vật, thì hoán dụ biểu thị mối quan hệ gần gụi, có thực giữa đối tượng biểu hiện và đối tượng được biểu
hiện. Như vậy, xét về mặt nội dung, cơ sở để hình thành hoán dụ là sự liên tưởng phát hiện ra mối quan hệ
khách quan có thực có tính chất vật chất hoặc logic giữa các đối tượng.
Nhờ được xây dựng trên mối quan hệ khách quan có thực giữa các đối tượng, cho nên hoán dụ
có khả năng khắc hoạ đặc điểm của đối tượng định nói đến. Nhấn mạnh đặc điểm nào, khắc hoạ đặc điểm
nào của đối tượng định nói là tuỳ thuộc vào năng lực phát hiện và ý định chủ quan của người nói. Nói
cách khác, tài năng của người nói thể hiện ở chỗ biết phát ra mối quan hệ khách quan có thực một cách
chính xác, tiêu biểu và bất ngờ với mọi người. Những hoán dụ tốt, làm đọng lại trong lòng người đọc
nhiều suy nghĩ mới mẻ chính là những hoán dụ thoả mãn được những điều kiện nói trên.
Thí dụ:


Bàn
tay
ta
làm
nên
tất
cả,
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm.- Hoàng Trung Thông
Đặc trưng khéo léo của bàn tay, công cụ kỳ diệu của lao động, làm chúng ta liên tưởng đến sức
sáng tạo phi thường của sức lao động, điều mà người nói nhận thức như là một quy luật muốn khẳng định,
muốn khắc hoạ trước mọi người.
Chức năng chủ yếu của hoán dụ là nhận thức. Nó được dùng trong nhiều phong cách ngôn ngữ

khác nhau; nhưng trong khi ẩn dụ được dùng nhiều trong ngôn ngữ thơ ca, thì hoán dụ thường đắc dụng
trong văn xuôi nghệ thuật, vì sức mạnh của nó vừa ở tính cá thể hoá và tính cụ thể, vừa ở tính biểu cảm
kín đáo và sâu sắc.
4.Luyện tập:
1. Xác định kiểu hoán dụ, phân tích ý nghĩa biểu thị trong các câu thơ sau:
a.
Đầu xanh có tội tình gì,
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
(Nguyễn Du)
b.
Áo nâu liền với áo xanh,
Nông thôn liền với thị thành đứng lên.
(Tố Hữu)
c.
Vì sao Trái Đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên người Hồ Chí Minh
(Tố Hữu)
Gợi ý:
a. Kiểu hoán dụ: Lấy bộ phận để chỉ toàn thể
Đầu xanh:con người ở độ tuổi trẻ trung,( tuổi trẻ, thanh niên)
Má hồng: người con gái đẹp, người đàn bà sống kiếp lầu xanh
Biểu thị tình cảm nuối tiếc của tác giả gây ấn tượng cho người đọc đối với nàng Kiều
b. Kiểu hoán dụ: lấy đặc điểm của sự vật để chỉ sự vật
Áo nâu:( để chỉ) những người nông dân
Áo xanh:( để chỉ) những người công nhân
Nêu được đăc điểm riêng phổ biến về trang phục của người nông dân, công nhân nước ta. Thể
hiện sự quan sát, miêu tả cụ thể, gần gũi ý nói: Các tầng lớp, giai cấp đang cùng nhau đứng lên xây dựng
đất nước.
c. Kiểu hoán dụ lấy vật chứa đựng để biểu thị vật được chứa đựng
Trái Đất - đông đảo nhân dân

Thể hiện tình cảm cao đẹp, thiêng liêng của nhân dân các nước trên thế giới đối với Bác Hồ
IV.ẨN DỤ
1. Khái niệm:
Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm
tăng sức gợi hình, gợi cảm, hàm súc cho sự diễn đạt.
Ẩn dụ là cách lấy tên gọi của một đối tượng này để lâm thời biểu thị của một đối tượng khác, trên cơ sở
thừa nhận ngầm một nét giống nhau nào đấy giữa hai đối tượng..
Thí dụ:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. - Nguyễn Du - Truỵện Kiều
Vàng, ngọc là những vật quý được ví ngầm với nàng Kiều để biểu lộ sự quý trọng của người
nói (Kim Trọng) đối với tấm thân và cả phẩm giá của người yêu. Kẻ chân mây cuối trời cũng là một ẩn
dụ, vì đây có sự khai thác những nét giống nhau trong cách so sánh ngầm giữa ý “ xa vời cô quạnh” của
thành ngữ này với tấm lòng người nói là Kim Trọng sắp xa cách và cô đơn buồn nhớ người yêu...
Người ta gọi ẩn dụ là một lối ví ngầm, vì cấu tạo của nó có những điểm gần gũi với so sánh như
sau:


Về mặt nội dung(cấu tạo bên trong), ẩn dụ cũng giống so sánh ở chỗ phải rút ra nét cá biệt
giống nhau giữa hai đối tượng vốn là khác loại, không cùng bản chất. Nét giống nhau là cơ sở để hình
thành ẩn dụ, đồng thời cũng là hạt nhân nội dung của ẩn dụ.
Nhưng về mặt hình thức (cấu tạo bên ngoài) ẩn dụ khác so sánh ở chỗ chỉ công khai sử dụng
một đối tượng (một về - đối tượng dùng để biểu thị) còn đối tượng được nói đến (đối tượng được biểu thị)
thì giấu đi, ẩn đi, không phô ra như so sánh. Người nghe dựa vào quy luật liên tưởng những nét tương
đồng và dựa vào văn cảnh để tìm ra cái đối tượng được nói đến, nhưng đã bị ẩn đi trong câu nói.
2. Các kiểu, dạng ẩn dụ thường gặp:
- Ẩn dụ hình thức (dựa vào sự tương đồng về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng).
Thí dụ:
Về thăm nhà Bác làng sen,


hàng
râm
bụt thắp lên lửa
hồng Nguyễn
Đức
Mậu
Lửa hồng - màu đỏ
- Ẩn dụ cách thức (dựa vào sự tương đồng về cách thức thực hiện hành động).
Thí dụ trên: Thắp - nở hoa
- Ẩn dụ phẩm chất ( dựa vào sự tương đồng về phẩm chất giữa các sự vật hiện tượng).
Thí dụ:
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm - Minh Huệ
Người cha- Bác Hồ.
- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác ( Dựa vào sự tương đồng về cảm giác).
Thí dụ: Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quảng. - Nguyễn Tuân
(nắng) giòn tan-(nắng) to, rực rỡ
Đối tượng dùng để biểu thị và đối tượng được biểu thị có thể là cụ thể hoặc trừu tượng. Như vậy, trên lý
thuyết, có thể có 4 dạng ẩn dụ:
Dạng 1: lấy đối tượng cụ thể biểu thị đối tượng cụ thể.
Dạng 2: lấy đối tượng cụ thể biểu thị đối tượng trừu tượng
Dạng 3: lấy đối tượng trừu tượng biểu thị đối tượng cụ thể
Dạng 4: lấy đối tượng trừu tượng biểu thị đối tượng trừu tượng.
Trong thực tế thường gặp hơn cả là hai dạng cấu tạo 1 và 2 bởi vì xu hưóng miêu tả thường là cụ thể hoá
trừu tượng hoặc làm cụ thể hoá cái trừu tượng hoặc làm cụ thể hơn cái đã cụ thể.
Thí dụ:
Chim bay tung cánh chim bay

Ba
mươi
sáu
triệu
chim
bầy gọi
nhau
Tố
Hữu
Hoặc:
Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc, ánh sáng vẫn ngời lên, ánh sáng của một tấm lòng thương
người và yêu đời vô hạn. (Hoài Thanh - đọc “Nhật ký trong tù”)
Vấn đề được đặt ra trong cấu tạo của ẩn dụ là: nhân tố nào khiến cho người tiếp nhận liên tưởng đến đối
tượng bị dấu kín như người thông báo đã liên tưởng? Có hai loại nhân tố: nhân tố logic và nhân tố tâm lýxã hội. Thử lấy câu ca dao sau đây để phân tích:
Thuyền về có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
Đứng về mặt logic, ta thấy quan hệ giữa người con trai và người con gái trong câu ca dao này có nét
giống với quan hệ giữa thuyền và biển đó là quan hệ di động- cố đinh: Một bên thì đang ngược xuôi, đi
lại; một bên thì đang đứng đấy đợi chờ bên kia. Do đó, cứ theo luận lý thông thường, người ta có thể giả
định người con trai đang đi về và người con gái đang ở lại cũng giống như bất cứ quan hệ trong một cặp
di động- cố định nào. Trong thực tế lựa chọn cặp nào còn do tâm lý xã hội, thói quen xã hội quy định. Ca
dao đã chọn cặp di động-cố định thuyền-bến. Sử dụng như vậy dễ rung động lòng người, bởi vì theo thói
quen suy nghĩ, liên tưởng của người bình dân Việt Nam xa xưa, hình ảnh “cây đa, bến cũ, con đò..” tồn tại


như một dấu ấn quen thuộc, gần gụi. Vì vậy, khi đọc câu ca dao cổ này, người ta nghĩ ngay đến tấm lòng
rất mực thủy chung của người con gái...
Như vậy, ẩn dụ không gọi thẳng lên đối tượng mà để người ta tự tìm đến đối tượng trong văn
cảnh theo quy luật của logic, của tâm lý. Quá trình liên tưởng đến đối tượng đó là quá trình phân tích
logic-tâm lý để xác nhận sự cần thiết phải dùng tên gọi mới đó trong văn cảnh. Bởi vậy, ẩn dụ là một cấu

tạo ngôn ngữ hết sức mềm dẻo. Quy luật biểu hiện của nó là: câu nói về vẻ xa xôi, bóng gió nhưng lại rất
gần, rất cụ thể; câu nói có vẻ vòng vèo, quanh co nhưng lại rất thẳng, rất thực; câu nói có vẻ kín đáo,
không lộ liễu nhưng lại công khai, rất rõ ràng, câu nói không gọi thẳng tên đối tượng, nhưng lại nói rất
nhiều về đối tượng đó. Tóm lại, đó là quy luật của một lối diễn đạt lấy cực nọ biểu hiện cực kia; lấy xa
nói gần, lấy vòng nói thẳng, lấy kín nói hở, lấy ít nói nhiều. Cách tỏ tình trong câu ca dao sau đây thể hiện
rất rõ quy luật diễn đạt của ẩn dụ:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vường hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vường hồng có lối nhưng chưa ai vào
Nói xa (chuyện mận đào) nhưng lại rất gần(chuyện đôi ta), nói vòng kín đáo (lối vào vườn
hồng) nhưng lại rất thẳng thắn, rất công khai (muốn tỏ tình và sẵn sàng tỏ tình)...
Ngoài giá trị hình tượng, giá trị chủ yếu của ẩn dụ là biểu cảm. Paul (Paolơ): “ Sức mạnh của so
sánh là nhận thức, còn sức mạnh của ẩn dụ là cảm xúc”. Vì vậy, ẩn dụ được dùng nhiều trong thơ ca. Tuy
vậy, hiện nay ẩn dụ còn được dùng rộng rãi trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, không những
trong thơ ca, trong văn xuôi nghệ thuật mà cả trong phong cách chính luận nữa.
Thí dụ:
Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ, bỗng bừng lên buổi bình
minh của thời đại. (Lê Duẩn)
Tác giả không gọi thẳng tên chế độ thực dân phong kiến để nói, nhưng lại nói rất nhiều, rất sâu
sắc về nó, lên án nó rất mạnh mẽ (bóng đêm), đồng thời qua ẩn dụ buổi bình minh, tác giả cũng lại nói rất
nhiều, rất sâu sắc với tất cả niềm tin, sự ca ngợi về thời kỳ cách mạng mới do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo dưới ánh sáng của chủ nghĩa Lê nin.
Những điều phân tích về nội dung biểu hiện của ẩn dụ trên đây cho thấy chức năng của ẩn dụ
không phải là định danh mà là biểu cảm. Tuy vậy không nên nghĩ rằng ẩn dụ chỉ tác động đến tình cảm,
không tác dụng gì đến lý trí. Bởi vì bất cứ một sự so sánh nào, dù là công khai hay ngầm hiểu, bao giờ
cũng gắn với cách nhìn, cách đánh giá của con người ta đối với các sự vật.
Thí dụ:
Đi chệch khỏi tính Đảng sẽ sa vào vùng bùn của chủ nghĩa cá nhân tư sản. - Trường Chinh
Khi dùng vũng bùn làm ẩn dụ để chỉ hệ tư tưởng và quan điểm tư sản thì đồng thời tác giả cũng phủ định,

phê phán hệ tư tưởng và quan điểm tư sản.
Khi sử dụng ẩn dụ, nên chú ý những điểm sau đây:
a. Ẩn dụ là phương tiện biểu đạt, chứ không phải là mục đích của sự biểu đạt. Không có nội dung
biểu đạt nào khác ngoài cái nội dung chứa đựng trong cái tên gọi bình thường của nó thì không nên dùng
ẩn dụ. Không biến việc sử dụng ẩn dụ thành những lời văn sáo rỗng, không có nội dung. Mặt khác không
biến ẩn dụ thành một câu đố. Phải làm sao cho người nghe, người đọc có thể trở lại được với cái giả thiết
không nói ra của tác giả. Muốn vậy, như đã phân tích cấu tạo nội dung của ẩn dụ, phải tạo cho nó một cơ
sở logic và cơ sở tâm lý chắc chắn.
b. Do được sử dụng khá rộng rãi, cho nên ẩn dụ cũng thuộc loại công cụ có thể biểu thị đặc
trưng của phong cách thời đại, phong cách dân tộc, phong cách tác giả. tập “ Từ ấy” Tổ Hữu thường lấy
những hình ảnh thiên nhiên tươi sáng, đẹp đẽ, ấm áp để làm ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lý (Từ ấy), tắm
nắng xuân hồng (ý xuân), buổi xuân đào(Như những con tàu), mùi hương chân lý..vv.Những ẩn dụ này
biểu thị lòng khát khao mãnh liệt với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa ở một chiến sĩ trẻ rất mực yêu đời...
Ca dao Việt Nam xưa thường lấy những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống làng quê làm ẩn dụ,
như: thuyền, bến, mận, đào. tre non, cau non...Những ẩn dụ trong ca dao thường mộc mạc, chân chất
nhưng đượm tình.


Vì vậy người sử dụng ẩn dụ phải có ý thức làm sao cho ẩn dụ của của mình mang phong cách
riêng và người khai thác ẩn dụ phải tìm cho được cái cốt lõi của những phong cách thời đại, phong cách
dân tộc và phong cách tác giả.
c.Khi đưa ra một ẩn dụ, nếu có điều kiện nên tiếp tục phát triển để khai thác khả năng của ẩn dụ
đó. Về mặt này, Nguyễn Du là một tài năng đặc biệt.
Thí dụ:
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông. - Truyện Kiều
Nhà thơ nhận cảm từ hoa lựu một dấu hiệu tương ứng với lửa- màu đỏ chói chang, do đó có thể
dùng lửa lựu. Hình ảnh này tác động vào thị giác của chúng ta và tiếp tục hoạt động theo quy luật tự
nhiên của nó:Lửu lựu- lập loè đơm bông.
Mấy câu thơ sau đây của Tố Hữu ca ngợi Bác Hồ vĩ đại, cũng được viết với sự phát triển của
các

ẩn
dụ
theo
quy
luật
tự
nhiên
của
chúng:
Cứ
nghĩ
hồn
thơm
đang
tái
sinh,
Ngôi
sao
ấy
lặn
hoá
bình
minh,
Cơn
mưa
vừa
tạnh
Ba
Đình
nắng

Bác
đứng
trên
kia
vẫy
gọi
mình.
Theo
chân
Bác
Ngôi
sao… lặnhoá
bình
minh;
Cơn
mưa
tạnh
nắng...
3.Luyện tập:
1. Chỉ ra các ẩn dụ và nêu ý nghĩa ẩn dụ trong các câu ca dao, câu thơ sau:
A.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
B.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
C.
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
D.

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
*Gợi ý :a) cây đa bến cũ - kỷ niệm đẹp
con đò khác đưa - cô gái đã đi lấy người con trai khác làm chồng (đã thay đổi…)
*Gợi ý : b) thuyền - người con trai (người ra đi- di động)
bến - người con gái (kẻ ở lại- cố định)
*Đặt trong quan hệ song song:thuyền - bến, những vật cần có nhau, luôn luôn gắn bó - so sánh
ngầm
*Gợi ý : c) lửa lựu - mùa hè ( hoa lựu màu đỏ, nở vào đầu hè- ý nói mùa hè đang đến)
*Gợi ý : d) con chim chiền chiện - cuộc sống mới
hót - ca ngợi mùa xuân, đất nước, cuộc đời mới đầy sức sống đang trỗi dậy (tiếng reo vui của con người)
giọt (tiếng hót- chuyển đổi cảm giác )- ca ngợi cái đẹp của sáng xuân cũng là cái đẹp của cuộc đời, cuộc
sốn
IV.ẨN DỤ
1. Khái niệm:
Ẩn dụ là gọi tên sự vật, hiện tượng này bằng tên sự vật, hiện tượng khác có nét tương đồng với nó nhằm
tăng sức gợi hình, gợi cảm, hàm súc cho sự diễn đạt.
Ẩn dụ là cách lấy tên gọi của một đối tượng này để lâm thời biểu thị của một đối tượng khác, trên cơ sở
thừa nhận ngầm một nét giống nhau nào đấy giữa hai đối tượng..
Thí dụ:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời. - Nguyễn Du - Truỵện Kiều


Vàng, ngọc là những vật quý được ví ngầm với nàng Kiều để biểu lộ sự quý trọng của người
nói (Kim Trọng) đối với tấm thân và cả phẩm giá của người yêu. Kẻ chân mây cuối trời cũng là một ẩn
dụ, vì đây có sự khai thác những nét giống nhau trong cách so sánh ngầm giữa ý “ xa vời cô quạnh” của
thành ngữ này với tấm lòng người nói là Kim Trọng sắp xa cách và cô đơn buồn nhớ người yêu...

Người ta gọi ẩn dụ là một lối ví ngầm, vì cấu tạo của nó có những điểm gần gũi với so sánh như
sau:
Về mặt nội dung(cấu tạo bên trong), ẩn dụ cũng giống so sánh ở chỗ phải rút ra nét cá biệt
giống nhau giữa hai đối tượng vốn là khác loại, không cùng bản chất. Nét giống nhau là cơ sở để hình
thành ẩn dụ, đồng thời cũng là hạt nhân nội dung của ẩn dụ.
Nhưng về mặt hình thức (cấu tạo bên ngoài) ẩn dụ khác so sánh ở chỗ chỉ công khai sử dụng
một đối tượng (một về - đối tượng dùng để biểu thị) còn đối tượng được nói đến (đối tượng được biểu thị)
thì giấu đi, ẩn đi, không phô ra như so sánh. Người nghe dựa vào quy luật liên tưởng những nét tương
đồng và dựa vào văn cảnh để tìm ra cái đối tượng được nói đến, nhưng đã bị ẩn đi trong câu nói.
2. Các kiểu, dạng ẩn dụ thường gặp:
- Ẩn dụ hình thức (dựa vào sự tương đồng về hình thức giữa các sự vật, hiện tượng).
Thí dụ:
Về thăm nhà Bác làng sen,

hàng
râm
bụt thắp lên lửa
hồng Nguyễn
Đức
Mậu
Lửa hồng - màu đỏ
- Ẩn dụ cách thức (dựa vào sự tương đồng về cách thức thực hiện hành động).
Thí dụ trên: Thắp - nở hoa
- Ẩn dụ phẩm chất ( dựa vào sự tương đồng về phẩm chất giữa các sự vật hiện tượng).
Thí dụ:
Anh đội viên nhìn Bác
Càng nhìn lại càng thương
Người Cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm - Minh Huệ
Người cha- Bác Hồ.

- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác ( Dựa vào sự tương đồng về cảm giác).
Thí dụ: Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại
chiêm bao đứt quảng. - Nguyễn Tuân
(nắng) giòn tan-(nắng) to, rực rỡ
Đối tượng dùng để biểu thị và đối tượng được biểu thị có thể là cụ thể hoặc trừu tượng. Như vậy, trên lý
thuyết, có thể có 4 dạng ẩn dụ:
Dạng 1: lấy đối tượng cụ thể biểu thị đối tượng cụ thể.
Dạng 2: lấy đối tượng cụ thể biểu thị đối tượng trừu tượng
Dạng 3: lấy đối tượng trừu tượng biểu thị đối tượng cụ thể
Dạng 4: lấy đối tượng trừu tượng biểu thị đối tượng trừu tượng.
Trong thực tế thường gặp hơn cả là hai dạng cấu tạo 1 và 2 bởi vì xu hưóng miêu tả thường là cụ thể hoá
trừu tượng hoặc làm cụ thể hoá cái trừu tượng hoặc làm cụ thể hơn cái đã cụ thể.
Thí dụ:
Chim bay tung cánh chim bay
Ba
mươi
sáu
triệu
chim
bầy gọi
nhau
Tố
Hữu
Hoặc:
Nhưng giữa bao nhiêu tối tăm dày đặc, ánh sáng vẫn ngời lên, ánh sáng của một tấm lòng thương
người và yêu đời vô hạn. (Hoài Thanh - đọc “Nhật ký trong tù”)
Vấn đề được đặt ra trong cấu tạo của ẩn dụ là: nhân tố nào khiến cho người tiếp nhận liên tưởng đến đối
tượng bị dấu kín như người thông báo đã liên tưởng? Có hai loại nhân tố: nhân tố logic và nhân tố tâm lýxã hội. Thử lấy câu ca dao sau đây để phân tích:
Thuyền về có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

Đứng về mặt logic, ta thấy quan hệ giữa người con trai và người con gái trong câu ca dao này có nét
giống với quan hệ giữa thuyền và biển đó là quan hệ di động- cố đinh: Một bên thì đang ngược xuôi, đi


lại; một bên thì đang đứng đấy đợi chờ bên kia. Do đó, cứ theo luận lý thông thường, người ta có thể giả
định người con trai đang đi về và người con gái đang ở lại cũng giống như bất cứ quan hệ trong một cặp
di động- cố định nào. Trong thực tế lựa chọn cặp nào còn do tâm lý xã hội, thói quen xã hội quy định. Ca
dao đã chọn cặp di động-cố định thuyền-bến. Sử dụng như vậy dễ rung động lòng người, bởi vì theo thói
quen suy nghĩ, liên tưởng của người bình dân Việt Nam xa xưa, hình ảnh “cây đa, bến cũ, con đò..” tồn tại
như một dấu ấn quen thuộc, gần gụi. Vì vậy, khi đọc câu ca dao cổ này, người ta nghĩ ngay đến tấm lòng
rất mực thủy chung của người con gái...
Như vậy, ẩn dụ không gọi thẳng lên đối tượng mà để người ta tự tìm đến đối tượng trong văn
cảnh theo quy luật của logic, của tâm lý. Quá trình liên tưởng đến đối tượng đó là quá trình phân tích
logic-tâm lý để xác nhận sự cần thiết phải dùng tên gọi mới đó trong văn cảnh. Bởi vậy, ẩn dụ là một cấu
tạo ngôn ngữ hết sức mềm dẻo. Quy luật biểu hiện của nó là: câu nói về vẻ xa xôi, bóng gió nhưng lại rất
gần, rất cụ thể; câu nói có vẻ vòng vèo, quanh co nhưng lại rất thẳng, rất thực; câu nói có vẻ kín đáo,
không lộ liễu nhưng lại công khai, rất rõ ràng, câu nói không gọi thẳng tên đối tượng, nhưng lại nói rất
nhiều về đối tượng đó. Tóm lại, đó là quy luật của một lối diễn đạt lấy cực nọ biểu hiện cực kia; lấy xa
nói gần, lấy vòng nói thẳng, lấy kín nói hở, lấy ít nói nhiều. Cách tỏ tình trong câu ca dao sau đây thể hiện
rất rõ quy luật diễn đạt của ẩn dụ:
Bây giờ mận mới hỏi đào
Vường hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vường hồng có lối nhưng chưa ai vào
Nói xa (chuyện mận đào) nhưng lại rất gần(chuyện đôi ta), nói vòng kín đáo (lối vào vườn
hồng) nhưng lại rất thẳng thắn, rất công khai (muốn tỏ tình và sẵn sàng tỏ tình)...
Ngoài giá trị hình tượng, giá trị chủ yếu của ẩn dụ là biểu cảm. Paul (Paolơ): “ Sức mạnh của so
sánh là nhận thức, còn sức mạnh của ẩn dụ là cảm xúc”. Vì vậy, ẩn dụ được dùng nhiều trong thơ ca. Tuy
vậy, hiện nay ẩn dụ còn được dùng rộng rãi trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, không những
trong thơ ca, trong văn xuôi nghệ thuật mà cả trong phong cách chính luận nữa.

Thí dụ:
Đất nước Việt Nam chìm trong bóng đêm kéo dài hàng thế kỉ, bỗng bừng lên buổi bình
minh của thời đại. (Lê Duẩn)
Tác giả không gọi thẳng tên chế độ thực dân phong kiến để nói, nhưng lại nói rất nhiều, rất sâu
sắc về nó, lên án nó rất mạnh mẽ (bóng đêm), đồng thời qua ẩn dụ buổi bình minh, tác giả cũng lại nói rất
nhiều, rất sâu sắc với tất cả niềm tin, sự ca ngợi về thời kỳ cách mạng mới do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo dưới ánh sáng của chủ nghĩa Lê nin.
Những điều phân tích về nội dung biểu hiện của ẩn dụ trên đây cho thấy chức năng của ẩn dụ
không phải là định danh mà là biểu cảm. Tuy vậy không nên nghĩ rằng ẩn dụ chỉ tác động đến tình cảm,
không tác dụng gì đến lý trí. Bởi vì bất cứ một sự so sánh nào, dù là công khai hay ngầm hiểu, bao giờ
cũng gắn với cách nhìn, cách đánh giá của con người ta đối với các sự vật.
Thí dụ:
Đi chệch khỏi tính Đảng sẽ sa vào vùng bùn của chủ nghĩa cá nhân tư sản. - Trường Chinh
Khi dùng vũng bùn làm ẩn dụ để chỉ hệ tư tưởng và quan điểm tư sản thì đồng thời tác giả cũng phủ định,
phê phán hệ tư tưởng và quan điểm tư sản.
Khi sử dụng ẩn dụ, nên chú ý những điểm sau đây:
a. Ẩn dụ là phương tiện biểu đạt, chứ không phải là mục đích của sự biểu đạt. Không có nội dung
biểu đạt nào khác ngoài cái nội dung chứa đựng trong cái tên gọi bình thường của nó thì không nên dùng
ẩn dụ. Không biến việc sử dụng ẩn dụ thành những lời văn sáo rỗng, không có nội dung. Mặt khác không
biến ẩn dụ thành một câu đố. Phải làm sao cho người nghe, người đọc có thể trở lại được với cái giả thiết
không nói ra của tác giả. Muốn vậy, như đã phân tích cấu tạo nội dung của ẩn dụ, phải tạo cho nó một cơ
sở logic và cơ sở tâm lý chắc chắn.
b. Do được sử dụng khá rộng rãi, cho nên ẩn dụ cũng thuộc loại công cụ có thể biểu thị đặc
trưng của phong cách thời đại, phong cách dân tộc, phong cách tác giả. tập “ Từ ấy” Tổ Hữu thường lấy
những hình ảnh thiên nhiên tươi sáng, đẹp đẽ, ấm áp để làm ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lý (Từ ấy), tắm


nắng xuân hồng (ý xuân), buổi xuân đào(Như những con tàu), mùi hương chân lý..vv.Những ẩn dụ này
biểu thị lòng khát khao mãnh liệt với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa ở một chiến sĩ trẻ rất mực yêu đời...
Ca dao Việt Nam xưa thường lấy những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống làng quê làm ẩn dụ,

như: thuyền, bến, mận, đào. tre non, cau non...Những ẩn dụ trong ca dao thường mộc mạc, chân chất
nhưng đượm tình.
Vì vậy người sử dụng ẩn dụ phải có ý thức làm sao cho ẩn dụ của của mình mang phong cách
riêng và người khai thác ẩn dụ phải tìm cho được cái cốt lõi của những phong cách thời đại, phong cách
dân tộc và phong cách tác giả.
c.Khi đưa ra một ẩn dụ, nếu có điều kiện nên tiếp tục phát triển để khai thác khả năng của ẩn dụ
đó. Về mặt này, Nguyễn Du là một tài năng đặc biệt.
Thí dụ:
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông. - Truyện Kiều
Nhà thơ nhận cảm từ hoa lựu một dấu hiệu tương ứng với lửa- màu đỏ chói chang, do đó có thể
dùng lửa lựu. Hình ảnh này tác động vào thị giác của chúng ta và tiếp tục hoạt động theo quy luật tự
nhiên của nó:Lửu lựu- lập loè đơm bông.
Mấy câu thơ sau đây của Tố Hữu ca ngợi Bác Hồ vĩ đại, cũng được viết với sự phát triển của
các
ẩn
dụ
theo
quy
luật
tự
nhiên
của
chúng:
Cứ
nghĩ
hồn
thơm
đang
tái
sinh,

Ngôi
sao
ấy
lặn
hoá
bình
minh,
Cơn
mưa
vừa
tạnh
Ba
Đình
nắng
Bác
đứng
trên
kia
vẫy
gọi
mình.
Theo
chân
Bác
Ngôi
sao… lặnhoá
bình
minh;
Cơn
mưa

tạnh
nắng...
3.Luyện tập:
1. Chỉ ra các ẩn dụ và nêu ý nghĩa ẩn dụ trong các câu ca dao, câu thơ sau:
A.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
B.
Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
C.
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
D.
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng
*Gợi ý :a) cây đa bến cũ - kỷ niệm đẹp
con đò khác đưa - cô gái đã đi lấy người con trai khác làm chồng (đã thay đổi…)
*Gợi ý : b) thuyền - người con trai (người ra đi- di động)
bến - người con gái (kẻ ở lại- cố định)
*Đặt trong quan hệ song song:thuyền - bến, những vật cần có nhau, luôn luôn gắn bó - so sánh
ngầm
*Gợi ý : c) lửa lựu - mùa hè ( hoa lựu màu đỏ, nở vào đầu hè- ý nói mùa hè đang đến)
*Gợi ý : d) con chim chiền chiện - cuộc sống mới
hót - ca ngợi mùa xuân, đất nước, cuộc đời mới đầy sức sống đang trỗi dậy (tiếng reo vui của con
người) giọt (tiếng hót- chuyển đổi cảm giác )- ca ngợi cái đẹp của sáng xuân cũng là cái đẹp của cuộc
đời, cuộc sống hứng (tiếng hót- chuyển đổi cảm giác ) - sự thừa hưởng một cách trân trọng những thành
quả cách mạng hứng (tiếng hót- chuyển đổi cảm giác ) - sự thừa hưởng một cách trân trọng những thành

quả cách mạng
C. THỰC HÀNH:
Để nhận biết rõ hơn chúng ta thử thực hành qua một số bài tập sau:


Bài tập1:
Chỉ ra các ẩn dụ và nêu ý nghĩa ẩn dụ trong các câu ca dao, câu thơ sau:
A.
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác đưa.
*Gợi ý:
Cây đa bến cũ - những kỷ niệm đẹp
Con đò khác đưa - cô gái đã đi lấy người con trai khác làm chồng - đã thay đổi, xa nhau…
(Tác giả dân gian đã chọn được hình ảnh ẩn dụ đẹp,quen thuộc, gợi nhớ diễn đạt được một lời oán trách
kín đáo).
B.

Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền

*Gợi ý:
thuyền - người con trai (người đang xuôi ngược, đi lại - di động)
bến - người con gái (kẻ đang đứng đó, ở lại - cố định)
Đặt trong quan hệ song song: thuyền - bến, những vật cần có nhau, luôn luôn gắn bó - so sánh ngầm.
(hình ảnh ẩn dụ gần gũi, đẹp dễ rung động diễn tả được nỗi nhớ, tấm lòng rất mực thủy chung, chờ
đợi của người con gái).
C
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
*Gợi ý:

lửa lựu - mùa hè
( hoa lựu màu đỏ, nở vào đầu hè - ý nói mùa hè đang đến)
D.
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
*Gợi ý:
con chim chiền chiện - cuộc sống mới
hót - ca ngợi mùa xuân, đất nước, cuộc đời mới đầy sức sống đang trỗi dậy (tiếng reo vui của con
người)
giọt (tiếng hót- chuyển đổi cảm giác )- ca ngợi cái đẹp của sáng xuân cũng là cái đẹp của cuộc đời,
cuộc sống.
hứng (tiếng hót- chuyển đổi cảm giác ) - sự thừa hưởng một cách trân trọng những thành quả cách
mạng
.
Bài tập 2
a.Phân biệt ẩn dụ và hoán dụ trong câu thơ sau của Nguyễn Bính:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào.
*Gợi ý:
- Hoán dụ:
thôn Đoài, thôn Đông - người thôn Đoài, người thôn Đông (ẩn)
- Ẩn dụ:
cau, trầu - chỉ người đang yêu, đang nhớ nhau - cách nói lấp lửng, bóng gió trong tình yêu đôi
lứa(ẩn)
b. Xác định hoán dụ trong ví dụ sau:
Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ
Bắp chân đầu gối vẫn săn gân.
(Tố Hữu)



*Gợi ý : bắp chân đầu gối vẫn săn gân - tinh thần kháng chiến dẻo dai (ẩn)
Bài tập 3
Tìm và phân tích ẩn dụ và hoán dụ trong các ví dụ sau:
a.
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
(Ca dao)
b.
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay.
(Tố Hữu)
c.
Về thăm nhà Bác làng Sen
Có hàng râm bụt thắp lên lửa hồng.
(Nguyễn Đức Mậu)
d.
Bàn tay ta làm lên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm
(Hoàng Trung Thông)
*Gợi ý:
a. Khăn thương nhớ - người con gái (em - ẩn) - miêu tả tâm trạng của cô gái một cách kín đáo, đây là
ẩn dụ
b. Áo chàm- con người (người dân Việt Bắc - ẩn) - lấy vật(y phục) trên người để chỉ người, đây là
hoán dụ
c. Lửa hồng- Màu đỏ của hoa râm bụt( ẩn)- màu đỏ, lửa hồng giống nhau (tương đồng) về hình thức
(màu sắc), đây là ẩn dụ.

d. Bàn tay- con người lao động - lấy bộ phận con người để chỉ toàn thể con người, đây là hoán dụ
sỏi đá- đất xấu, bạc màu, đất đồi núi.- thiên nhiên khắc nghiệt.
cơm- lương thực, cái ăn, cái phục vụ con người, thành quả lao động- Ca ngợi lao động, sức sáng tạo kì
diệu của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, đây là ẩn dụ
Bài tập 4 :
a.
“Thuyền ơi có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền” (1)
Có thể thay bằng :
“Chàng ơi có nhớ thiếp chăng
Thiếp thì một dạ khăng khăng đợi chàng” (2)
Được không? Vì sao ?
*Gợi ý:
Bề ngoài thì được bởi:
Trong câu (1) giữa Chàng , thiếp – đối tượng được biểu hiện - ẩn có sự liên tưởng tương đồng(Giống
nhau) với Thuyền , bến – hình ảnh biểu hiện
Trong cả hai câu (1)và(2) có sự tương đồng - giống nhau :
- Thuyền - chàng: không cố định , dễ thay đổi
- Bến - thiếp
: cố định , không thay đổi
Giá trị biểu cảm: những người có quan hệ tình cảm gắn bó nhưng phải xa nhau (khẳng định sự thủy
chung)
Nhưng cách tỏ tình “dũng cảm” nói “toạc” ra như ở câu 2 thì chẳng còn vẻ kín đáo tế nhị, e thẹn,
bóng gió xa xôi… như tâm trạng của những người mới yêu, đang yêu nữa ! nên nó chằng thành ca dao ,
chẳng thành ẩn dụ nữa.
b.

Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa.



Cô gái , vợ - Chàng trai , chồng(đối tượng được biểu hiện) - ẩn Giống nhau, tương đồng với cây đa ,
bến cũ - con đò (hình ảnh biểu hiện)
Cụ thể hơn:
Cây đa , bến cũ làm ta liên tưởng đến: Cô gái , người vợ ở nhà với nét nghĩa cố định, không thay đổi.
Còn con đò làm ta nghĩ đến: Chàng trai , người chồng với công việc nay đây mai đó: không cố định,
dễ thay đổi.
Tạo nên giá trị biểu cảm: những người có quan hệ tình cảm gắn bó nhưng phải xa nhau, phải thay
đổi… (thể hiện sự luyến tiếc, oán trách thầm kín…)
Như vậy cả (a) và (b) đều có sự giống nhau, đều dùng tên gọi của B - Lấy hình ảnh biểu hiện (Thuyền
, bến - Cây đa , bến cũ - con đò ) để gọi tên cho A (A ẩn) (Chàng , thiếp) - đối tượng được biểu hiện. Nhờ
có mối quan hệ tương đồng (cố định - thủy chung ; di dời - dễ thay đổi). Tạo được giá trị biểu
cảm từ phép tu từ ẩn dụ với sự liên tưởng tương đồng.
Bài tập 5.
Xác định và phân tích biện pháp tu từ trong các ví dụ sau:
A.
“Em tưởng giếng sâu
Em nối sợi gàu dài
Ai ngờ giếng cạn
Em tiếc hoài sợi dây”
(Ca dao)
*Gợi ý:
A (vế được biểu hiện)
B ( vế biểu hiện)
- Tình cảm chân thật, sâu sắc
-Giếng sâu
- Vun đắp tình cảm
-Gàu dài
- Tình cảm hời hợt
- Giếng cạn

-Tiếc công vun đắp tình cảm
- Sợi dây
Hàm ý than thở, oán trách người yêu - Ẩn dụ
B.
Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông - (Nguyễn Du)
*Gợi ý:
A: Mùa hè
B: Lửu lựu lập lòe
Bức tranh mùa hè sinh động - Ẩn dụ
C.
“Đầu xanh đã tội tình gì ,
Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi”
(Nguyễn Du)
Ở đây, dùng tên gọi của B - lấy hình ảnh biểu hiện (Đầu xanh, Má hồng – Là những từ chỉ bộ phận (đầu ,
má) để gọi tên cho A (A ẩn) – hình ảnh được biểu hiện ( “Tuổi thơ”, “Tuổi trẻ , “Thanh xuân”, “Mĩ nhân”,
“Nàng Kiều”, “ Phận gái lầu xanh” - Con người) - nhờ có mối quan hệ bộ phận - toàn thể (của con
người)
(Toàn thể-A)
(Bộ phận-B)
- Người con gái đẹp , nàng Kiều ...
Đầu xanh
- Tuổi trẻ , tuổi thơ , tuổi thanh niên
Má hồng
Tạo được giá trị biểu cảm: Số phận bất hạnh của con người trong xã hội phong
kiến. Nhận thức vấn đề được rút ra từ phép tu từ hoán dụ
D.
“ Áo nâu liền với áo xanh
Nông thôn liền với thị thành đứng lên”
(“Ba mươi năm đời ta có Đảng” – Tố Hữu)

*Gợi ý:
A
B


Nông dân(Cái bên ngoài//cái bên trong)
- Áo nâu
Công nhân(Cái áo // con người)
- Áo xanh
Giá trị nhận thức:
Các tầng lớp, giai cấp đứng lên xây dựng đất nước – Hoán dụ
E.
“Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
(Hoàng Trung Thông)
* Gợi ý
A
B
- Sức lao động Tương cận (gần nhau)
- Bàn tay
- Đất xấu, bạc màu
- Sỏi đá
- Lúa gạo
(Bộ phận chỉ toàn thể)
- Cơm
Ca ngợi sức lao động con người trước thiên nhiên khắc nghiệt – Hoán dụ
F.
Xác định và phân tích các biện pháp tu từ đã học (nếu có)
“ Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên”

(ca dao)
*Gợi ý :
-B:
Mắt
- A (ẩn) :
Cô gái
(lấy cái bộ phận để nói cái toàn thể - Hoán dụ )
G. Xác định và phân tích các biện pháp tu từ đã học (nếu có)
“ Hắn đã tới cái dốc bên kia cuộc đời “ ( Nam Cao)
*Gợi ý :
+ B:
“..cái dốc bên kia cuộc đời”
+ A (ẩn) : Quá nửa đời người.
(không còn trẻ , bệnh tật , ốm đau , cô độc - Ẩn dụ)
LƯU Ý:
Trong từng đoạn thơ, văn cụ thể có thể chứa đựng cùng một lúc nhiều phép tu từ:
Ví dụ:
“Bàn tay ta làm nên tất cả
Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”
(Hoàng Trung Thông)
Trong hai câu thơ trên vừa có cả hoán dụ , ẩn dụ, nói quá.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ trầu không thôn nào”.
(Nguyễn Bính)
Trong hai câu thơ trên vừa có cả ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa.
Do đó, khi gặp trường hợp cụ thể (tùy theo yêu cầu bài tập, đề ra…) chúng ta cần xem xét kỹ để phát
hiện hết….




×