Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử địa phương ở trường THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (883.22 KB, 19 trang )

Phần 1. MỞ DẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học lịch
sử nói riêng được đặt ra từ những năm 60 của thế kỉ XX, trở thành phương
hướng của cuộc cải cách giáo dục những năm 80 và được khẳng định trong Luật
giáo dục. Đây là một nguyên tắc được quán triệt trong mọi hoạt động, mọi khâu
của quá trình dạy học. Nguyên tắc này xuất phát từ nhận thức đúng rằng trong
quá trình dạy học học sinh vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình nhận
thức, khắc phục tình trạng dạy học “lấy giáo viên làm trung tâm” đã tồn tại trong
nhiều thế kỷ. Tuy nhiên cũng không nên quá nhấn mạnh vào vai trò tự học, tự
nhận thức của học sinh mà coi thường vai trò của giáo viên. Như một nhà giáo
dục Đức cho rằng: “Đối với chúng tôi, việc dạy học tập trung vào học sinh
không phải là một kiểu dạy học lý tưởng, mà nếu thực hiện nó thì người ta có
được tất cả, hoặc không làm thì thu về số không. Dạy học tập trung vào học sinh
là một quá trình, trong đó thầy và trò cùng nhau làm giảm dần mối quan hệ điều
khiển, chỉ huy và bị điều khiển, bị chỉ huy một chiều. Thầy và trò cùng nhau học
tập, làm cho tất cả những gì thuộc về thuật ngữ “dạy học” đều được vận hành.
Nó tạo ra mối quan hệ xã hội không có sự sợ hãi, chia sẻ và thông hiểu lẫn
nhau”.
Nguyên tắc dạy học tích cực thể hiện quan niệm học sinh là chủ thể của
nhận thức (học tập) dưới sự hướng dẫn, giáo dục của giáo viên, trong khuôn khổ
nhà trường, theo chương trình, mục tiêu đã quy định. Điều đó có nghĩa dạy học
theo nguyên tắc phát huy “tích cực” không phải là từ bỏ phương pháp truyền
thống mà vấn đề là từ khả năng nhận thức của học sinh, từ những dạng bài giáo
viên sử dụng phương pháp truyền thụ, hướng dẫn, giúp đỡ làm cho hoạt động
nhận thức các em đúng hướng và đạt hiệu quả cao nhất.
Như vậy, việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học không
phải là vấn đề mới đối với giáo dục nước ta. Nó đã chi phối mọi hoạt động của
giáo dục từ xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa, cải tiến phương
pháp dạy học.... Tuy vậy, việc thực hiện chưa tốt vì giáo viên quan niệm chưa
sâu sắc và chưa có biện pháp sư phạm có hiệu quả. Thực tiễn đó đòi hỏi cần phải


tiến hành đổi mới một cách triệt để trước hết trong cách dạy của giáo viên và
việc học của học sinh.
Mặt khác, từ năm học 2018 – 2019 đây còn là nội dung được đưa vào cấu
trúc chương trình thi học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 11 do Sở giáo dục đào tạo
Thanh Hóa tổ chức. Do đó để nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học Lịch sử
địa phương đồng thời quán triệt nguyên tắc dạy học tích cực thì trong một giờ
học lịch sử địa phương đòi hỏi người giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp.
Bởi lịch sử địa phương có vị trí hết sức quan trọng đúng như một nhà giáo dục
học Nga nổi tiếng là Usinxki đã có lý khi nói đến “sự cần thiết tuyệt đối phải
đưa việc giảng dạy lịch sử địa phương” vào trường phổ thông. Đặc biệt, trong
bối cảnh hiện nay khi đất nước ta đang đổi mới thì việc giảng dạy lịch sử địa
1


phương còn góp phần bồi dưỡng tình cảm, ý thức trách nhiệm của bản thân với
quê hương, đất nước.
1.2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đối với giáo viên
Trên cơ sở lí luận phương pháp dạy học lịch sử, đề tài đi sâu vào đề xuất
một số biện pháp nhằm phát triển tính tích cực học sinh trong dạy học phần Lịch
sử địa phương.
1.2.2. Đối với học sinh
Vận dụng các con đường, biên pháp phát triển tính tích cực, độc lập trong
nhận thức, đặc biệt là tư duy giúp các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức
lịch sử địa phương, từ đó khơi gợi những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú
học tập và rèn luyện ngôn ngữ cho các em.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
-Tìm hiểu những lí luận dạy học Lịch sử nói chung, dạy học Lịch sử địa
phương nói riêng để lí giải rõ nội hàm khái niệm “nguyên tắc phát huy tính tích
cực của học sinh”.

- Nghiên cứu chương trình tài liệu tham khảo dạy học Lích sử địa phương
cấp THCS, tài liệu Tập huấn Lịch sử địa phương trong nội dung Bồi dưỡng
thường xuyên cho Giáo viên do Sở giáo dục đào tạo Thanh Hóa biên soạn và
phát hành.
- Đề xuất một số biện pháp sư phạm nhằm vận dung nguyên tắc phát huy
tính tích cực của học sinh trong dạy học phần Lịch sử địa phương .
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Về lí thuyết:
+ Đề tài sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó chủ yếu là những
phương pháp lịch sử, logic trên cơ sử nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mac Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm và đường lối của Đảng cộng sản Việt
Nam, đảm bảo tính trung thực, khách quan trong nghiên cứu lịch sử.
+ Phương pháp nghiên cứu tổng hợp để tiếp cận nghiên cứu, đi sâu vào
các vấn đề về lí luận dạy học nói chung, dạy học Lịch sử địa phương nói riêng
để lí giải rõ nội hàm khái niệm nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh.
+ Phương pháp so sánh để tìm ra những nét chung và những nét nổi trội
khi vận dụng các biện pháp nhằm phát triển tính tích cực độc lập trong nhận
thức đặc biệt là tư duy học sinh so với phương pháp truyền thống trước đây.
Đồng thời, sử dụng phương pháp này sẽ góp phần nhận diện đặc trưng cửa việc
đổi mới PPDH Lịch sử hiện nay.
- Về thực tiễn:
+ Dự giờ đồng nghiệp dạy cùng khối chương trình ban cơ bản.
+ Thực nghiệm sư phạm: thực nghiệm đề tài vào giảng dạy nội dung Lịch
sử địa phương do bản thân trực tiếp đứng lớp ở trường Trung học phổ thông Bá
Thước.
+ Chọn bốn lớp có năng lực tiếp thu bài tương đương nhau: hai lớp có vận
dụng triệt để các biện pháp phát huy tính tích cực của học sinh (HS) trong giờ
2


dạy, hai lớp không sử dụng nhằm kiểm chứng những biện pháp mà đề tài nêu ra

từ đó rút ra các kết luận khoa học và khẳng định tính khả thi của đề tài.
+ Sử dụng phương pháp toán học thống kê trên cơ sở so sánh các giá trị
thu được giữa lớp thực nghiệm và lớp đối chứng để đánh giá hiệu quả của những
biện pháp dạy học mà đề tài đưa ra.
Phần 2: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Xuất phát từ quan điểm “dạy chữ để dạy người”, quan niệm đồng bộ, toàn
diện hiệu quả bài học lịch sử đuợc xác định không chỉ bằng việc hình thành kiến
thức, mà còn là kết quả của việc giáo dục và phát triển tư duy, kĩ năng, kĩ xảo,
tính tích cực học tập của học sinh. Để đạt đuợc điều này một trong những biện
pháp quan trọng để nâng cao chất lượng dạy học là phải chú trọng đến vai trò
của người học, coi học sinh là chủ thể của quá trình dạy học.
Việc phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học nói chung, dạy học
lịch sử địa phương nói riêng còn xuất phát từ mục tiêu đào tạo, trong đó nổi bật
một điểm quan trọng là đào tạo thế hệ trẻ thành người lao động làm chủ nước
nhà. Để thành công dân, chủ nhân xã hội, học sinh phải được rèn luyện trong
quá trình được đào tạo và tự đào tạo.
Việc phát huy tính tích cực của HS trong học tập không phải để các em tự
phát, tùy tiện mà cần có sự hướng dẫn, giúp đỡ, giáo dục tích cực, có hiệu quả
GV. Và vai trò của GV không hề hạn chế phát huy tính tích cực của học sinh mà
làm cho hoạt động nhận thức của các em đúng hướng, có kết quả cao. Đúng như
nhà giáo dục người Đức Đixteve đã khẳng định: "Người giáo viên tồi truyền đạt
chân lí, người giáo viên giỏi dạy cách tìm ra chân lí". Điều đó có nghĩa người
giáo viên không chỉ giới hạn công việc của mình ở việc đọc cho học sinh chép
những kiến thức có sẵn, bắt các em học thuộc lòng và kiểm tra các em ghi nhớ
như thế nào.[7]
Cuối cùng việc phát triển tính tích cực độc lập nhận thức còn góp phần
phát triển hứng thú học tập và rèn luyện ngôn ngữ cho học sinh. Bởi vì sự phong
phú sinh động của nhiều nguồn kiến thức, kết hợp với việc khôn khéo gợi mở,
hướng dẫn của GV sẽ lôi cuốn học sinh tham gia xây dựng bài. Hơn thế nữa

ngôn ngữ liên quan chặt chẽ đến tư duy, tư duy có phát triển thì ngôn ngữ mới
mạch lạc, chính xác. [3]
2.2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ
2.2.1. Thực trạng chung
Những năm gần đây, việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông đã có nhiều
tiến bộ về nhận thức, nội dung và phương pháp dạy học, đa số giáo viên đã có sự
say mê, tâm huyết với nghề, nhiều học sinh đã yêu thích môn lịch sử. Nhưng
nhìn chung, bộ môn lịch sử trong đó có lịch sử địa phương vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của cuộc cách mạng nước ta hiện nay. Chất lượng bộ môn khá
thấp đặc biệt qua kì thi THPT quốc gia hằng năm đặt ra nhiều vấn đề cần trăn
trở.
Việc dạy - học lịch sử địa phương ở nhà trường phổ thông theo bản thân
tôi vẫn còn nhiều vấn đề bất cập:
3


Thứ nhất, do chương trình Lịch sử địa phương chỉ được phân bố khoảng 1
đến 2 tiết trong cả năm học và được xếp vào cuối chương trình, nên cả giáo viên
lẫn học sinh thường ít quan tâm và thực hiện một cách chiếu lệ, thậm chí nhiều
nơi còn sử dụng những tiết lịch sử địa phương để ôn tập cho học sinh.
Thứ hai, do phải đảm bảo tính bao quát toàn bộ tiến trình lịch sử của địa
phương, trong khi số tiết lại quá ít nên các giáo trình lịch sử địa phương thường
chỉ viết một cách khái quát về lịch sử chung của tỉnh nên nội dung thiếu sinh
động, khô khan và thậm chí chưa thật sự địa phương.
Thứ ba, phương pháp tiến hành các tiết dạy lịch sử địa phương vẫn theo lối
dạy học trên lớp là chủ yếu nên chưa tạo được hứng thú cho học sinh. Về hình
thức tổ chức cho học sinh tham quan, học tập ở các di tích lịch sử chỉ diễn ra ở
các trường nằm ở trung tâm hoặc gần di tích, còn vùng xa, vùng khó khăn hầu
như không được tiến hành.... Trong giờ học, giáo viên chủ yếu sử dụng tài liệu
thành văn, các nguồn tài liệu khác như đồ dùng trực quan, tài liều truyền miệng,

điền dã ít được khai thác, sử dụng nên bào học khô khan, nhàm chán.[3]
Hơn thế nữa, thực trạng học sinh không ham thích học lịch sử địa phương
vẫn diễn ra dẫn đến một số tiết học chưa đảm bảo nội dung và yêu cầu của
chương trình.
Những thực tế trên chính là nguyên nhân làm cho hiệu quả dạy - học lịch
sử địa phương ở trường phổ thông hiện nay chưa cao, việc giáo dục tư tưởng,
tình cảm, đạo đức thông qua lịch sử địa phương vì vậy cũng chưa đạt kết quả
như mong muốn. Mặc dù trong chương trình dạy môn lịch sử không thể thiếu
mảng kiến thức này.Đây không chỉ là thiếu sót của người dạy mà còn là một
thiệt thòi cho HS khi muốn tìm hiểu về lịch sử của dân tộc, quê hương.
2.2.2. Thực trạng của trường THPT Bá Thước
Đối với trường THPT Bá Thước, do đặc thù của một trường miền núi cao
nên lâu nay nhiều giáo viên không chỉ ở bộ môn Lịch sử có quan điểm là học
sinh miền núi chỉ cần dạy theo phương pháp truyền thống là phù hợp nên đã
không tích cực trong quá trình tìm tòi và đổi mới phương pháp dạy học cho phù
hợp với sự phát triển chung của nền giáo dục, cũng như sự phát triển tư duy của
học sinh nên tạo cho học sinh sự nhàm chán khi học bộ môn.
Do đó việc đổi mới phương pháp dạy và học để tạo hứng thú học tập cho
học sinh là rất cần thiết trong thời điểm hiện nay.
Thiết nghĩ Thanh Hoá là một tỉnh lớn, có bề dày lịch sử lâu đời và oanh
liệt, gắn với lịch sử chung của dân tộc. Vì lẽ đó, không có lí do nào để chúng ta
- những người dạy Sử lại bỏ trống mảng kiến thức này. Cá nhân tôi cho rằng, với
nguồn tư liệu lịch sử địa phương hết sức phong phú như vậy thì số tiết trong
phân phối chương trình quả là quá ít, bởi vì chúng ta có rất nhiều điều cần giảng
dạy cho các em và các em cũng có nhiều điều chưa biết.
Xuất phát từ thực trạng trên tôi xin đưa ra đề tài “Vận dụng nguyên tắc
phát huy tính tích cực nhằm nâng cao hiệu quả dạy học Lịch sử địa phương
ở trường trung học phổ thông ” mà qua thực tế tôi thấy phát huy được tính
năng động, sáng tạo của học sinh.
4



2.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC PHÁT HUY TÍNH
TÍCH CỰC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA
PHƯƠNG
Để khắc phục những bất cập trên nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử
địa phương, bên cạnh việc tiến hành nghiêm túc các giờ học lịch sử địa phương
theo đúng quy định của chương trình, giáo viên và các trường phổ thông cần
thay đổi mạnh mẽ hai vấn đề liên quan đến nội dung và phương pháp giảng dạy
dưới đây:
Thứ nhất, lịch sử địa phương là một phần của lịch sử dân tộc, không có một
sự kiện hay nhân vật lịch sử nào lại không gắn liền với một địa phương cụ thể cả
và lịch sử dân tộc được viết trên cơ sở lịch sử của các địa phương trong cả nước.
Ngược lại, lịch sử địa phương tuy có những nét riêng, nhưng về cơ bản cũng tiến
triển theo xu hướng phát triển chung của lịch sử dân tộc. Vậy tại sao trong quá
trình giảng dạy lịch sử dân tộc, chúng ta lại không lồng ghép vào bài giảng
những đặc trưng riêng, những sự kiện nhân vật lịch sử của địa phương gắn liền
với từng giai đoạn lịch sử của dân tộc.
Cách làm này sẽ đưa lịch sử dân tộc gần gũi, sinh động, thực tế và tạo cho
các em những ấn tượng sâu sắc hơn về lịch sử của địa phương mình. Đồng thời
giúp cho nội dung của lịch sử địa phương gắn với bối cảnh chung của lịch sử
dân tộc.
Thứ hai, hiện tại ở các địa phương, hệ thống các di tích văn hoá - lịch sử
được xây dựng, trùng tu rất nhiều. Tại sao chúng ta không khai thác những di
tích đó để tiến hành một số tiết học lịch sử địa phương có nội dung liên quan
thay cho những tiết dạy thuyết trình trên lớp.
Vì vậy, khi dạy học Lịch sử địa phương giáo viên cần tuân thủ các nguyên tắc
và phương pháp dạy học cơ bản của bộ môn. Tuy nhiên, do đặc thù của Lịch sử
địa phương là loại kiến thức khá quen thuộc và gần gũi nên giáo viên cần chú ý
một số điểm sau:

+ Do ưu thế của Lịch sử địa phương là những sự kiện, nhân vật lịch sử rất
quen thuộc, dễ tiếp xúc ngay tại địa phương. Ở một mức độ nào đó, có khi học
sinh đã biết, đã nghe, đã nhìn thấy. Vì vậy, giáo viên phải tận dụng tối đa các
hình thức dạy học, phát huy hết khả năng của học sinh đối với việc thu nhận
kiến thức thông qua các kênh khác nhau như: hỏi người lớn trong gia đình, sưu
tầm tài liệu đã được in ấn trên địa bàn qua sách báo, tranh ảnh, điền dã tại các
địa phương gần nơi sinh sống, gặp các nhân chứng lịch sử, gặp gỡ các nghệ
nhân, danh nhân địa phương, trao đổi trong nhóm, thảo luận cả lớp, tổ chức cho
các em thực hiện một dự án nhỏ về nội dung bài học... tránh việc các em phải
ngồi nghe các thông tin cứng nhắc, khô khan và thiếu tính hấp dẫn, cụ thể, sinh
động là điều mỗi giáo viên đều có thể làm được.
+ Phải đổi mới cách đánh giá các nội dung địa phương: Cho dù thời lượng
dành cho các tiết địa phương trong chương trình không nhiều nhưng không nên
coi đây là phần phụ, nội dung ngoại khoá của chương trình chính khoá, học chỉ
để biết. Nên có cách đánh giá, cho điểm với những cách làm riêng của chương
trình địa phương như viết bài thu hoạch, sáng tác thơ ca, sưu tầm tài liệu, vẽ
5


tranh, thi diễn thuyết các chủ đề theo nhóm, lớp...nhằm tạo ra sự thích thú của
các em với những nội dung trong bài học.
2.3.1. Sưu tầm tư liệu
Ở bậc THPT không có khóa trình riêng về lịch sử địa phương, song song
với các khóa trình lịch sử dân tộc và thế giới mà chương trình quy định là một số
tiết về lịch sử địa phương trong khóa trình lịch sử dân tộc. Vì vậy Giáo viên chú
ý việc sưu tầm và sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong giảng dạy lịch sử dân
tộc (liên hệ, bổ sung, cụ thể hóa một số sự kiện lớn của lịch sử dân tộc). Về phía
học sinh, muốn có một giờ học lịch sử địa phương đạt hiệu quả cao thì ngoài
phương pháp giáo viên tổ chức cho HS một số hoạt động phát huy tính tích cực,
hăng say của HS.Giáo viên nên hướng dẫn, tổ chức cho học sinh có thời gian

chuẩn bị trước ở nhà (có thể khoảng một tuần, nửa tháng). Như vậy với hình
thức này HS trên cơ sở nguồn tư liệu sưu tầm giúp các em nhận thức mối quan
hệ giữa lịch sử địa phương với lịch sử dân tộc, qua đó chủ động tiếp thu kiến
thức.
Ví dụ:
a) Cuộc khởi nghĩa Bà Triệu
- Khi học bài 16: "Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập" ở
mục 2 GV yêu cầu học sinh chuẩn bị trước tư liệu viết về Bà
Triệu, sưu tầm bản đồ, tranh ảnh...hoặc sử dụng phần mềm
powerpoint trình chiếu một số hình ảnh và yêu cầu HS giới thiệu
(Giáo viên có thể đưa ra câu hỏi cho HS về nhà chuẩn bị như:
Bà Triệu tên thật là gì? Bà quê ở đâu? Nguyên nhân nổ ra cuộc
khởi nghĩa của Bà? Đền thờ Bà nay ở huyện nào?...) tiếp đó giáo
viên có thể cho HS chuẩn bị trước các ảnh tư liệu về Bà Triệu:
tranh ảnh vẽ về chân dung, về cuộc khởi nghĩa và về đền thờ
Bà...

-HS sưu tầm những câu ca, bài đồng dao viết về Bà Triệu mang tính địa phương
như bài:
"Có bà Triệu tướng
Vâng lệnh trời ra.
6


Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước
Theo gót bà Vương"
(Đồng dao)
-GV gợi ý cho HS về nhà sưu tầm thơ ca dân gian viết về Bà Triệu được lưu

truyền trong nhân dân mà các bà, các chị, vẫn thường hát ru em bé thuở ấu thơ
như:
"Ai qua Nông Cống tỉnh Thanh
Dừng chân nhớ Triệu Thị Trinh anh hùng"
Hoặc:
Cửu Chân trăm trận gan hơn sắt,
Lục Dận Nhiều phen mắt đã vàng.
(Thơ ca dân gian)
b. Tìm hiểu về Lê Lợi
- Trong chương trình Lịch sử lớp 10 Ban Cơ bản bài 19 "Những cuộc
kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ X - XV" giáo viên cho HS chuẩn bị
trước về tiểu sử và sự nghiệp của danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi và Lê
Lợi, cùng với một số thủ lĩnh khác cũng ở quê Thanh như: Nguyễn Chích, Lê
Lai, Lê Thận, Lê Lý...
- Ngoài ra GV còn ra câu hỏi cho HS về nhà tìm tài liệu chuẩn bị trước
như: Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở đâu? Có những anh hùng hào kiệt và những
người yêu nước nào tìm về hưởng ứng cuộc khởi nghĩa...?
Em hiểu gì về câu nói:"Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi"?
- HS sưu tầm câu chuyện kể về Lê Lợi, tranh ảnh Lê Lợi về cuộc khởi
nghĩa: truyện Sự tích Hồ Gươm viết về ông Lê Lợi sau khi đánh thắng giặc
Minh, đất nước thanh bình, vua Lê Lợi trả gươm thần cho Long Quân, qua đây
để nói về danh nhân đất mẹ Hương Trù Sơn, huyện Lôi Dương (nay là huyện
Thọ Xuân-Thanh Hoá) là của nhân dân địa phương Thọ Xuân nhưng trở thành

7


tác phẩm truyện cổ tích dân gian nổi tiếng của cả nước.

Ảnh: Anh hùng dân tộc Lê Lợi

Dựa vào kết quả đã chịu khó sưu tầm, chuẩn bị tài liệu có sẵn, giờ học
lịch sử địa phương sẽ rất sôi nổi và có hiệu quả.
2.3.2. Thiết kế các bài tập nhận thức
- Thiết kế bài tập nhận thức rèn luyện các thao tác tư duy để khái quát các
sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Bài tập nhận thức không chỉ dừng lại ở khắc sâu các sự kiện cơ bản mà
còn đòi hỏi ở học sinh biết khái quát sự liên hệ, tính kế thừa để nâng lên mức
khái quát lí luận.
Ví dụ:
Khi dạy phần Tìm hiểu phong trào Cần vương ở Thanh Hóa giáo viên sau
khi cho học sinh tìm hiểu các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như khởi nghĩa Ba Đình,
khởi nghĩa Hùng Lĩnh, hay khởi nghĩa Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước xây dựng
bài tập nhận thức: “Từ diễn biến các cuộc khởi hãy rút ra đặc điểm và vị trí
phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa”. Để giải quyết bài tập này đòi hỏi học
sinh phải vận dụng các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp các sự kiện lịch
sử để rút ra bản chất. Trong quá trình các em làm việc giáo viên có thể gợi mở
để HS thấy được vấn đề sau:
Về đặc điểm
- Phong trào nổ ra sớm và mạnh mẽ, tỏ rõ ý thức thiết tha với độc lập, thể
hiện sức mạnh đoàn kết của nhân dân kiên quyết đánh bại quân xâm lược. Đây
là nhân tố quyết định sự bùng nổ rộng khắp và sức sống mãnh liệt của phong
trào.
- Phong trào diễn ra một diện rộng càng về sau quy mô càng lớn. Điểm
đặc biệt là phong trào ở đồng bằng, trung du tan vỡ thì phong trào ở miền núi
lại phát triển với xu hướng liên kết chặt chẽ với phong trào ngoài tỉnh.
- Phong trào mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc.
8


- Lãnh đạo là các văn thân, sĩ phu, thổ ty, lang đạo và cả nông dân,

phương thức đấu tranh phong phú với mọi vũ khí thô sơ trong tay.
- Phong trào cuối cùng thất bại do thiếu đường lối, vũ khi thô sơ, nổ ra
khi thực dân Pháp còn mạnh....
Về vị trí, ý nghĩa lịch sử:
- Thanh Hóa là một trong những trung tâm phát triển mạnh mẽ của
Phong trào Cần vương. Điều này thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của
nhân dân các dân tộc trong tỉnh.
- Phong trào gây cho Pháp những tổn thất nặng nề, góp phần với phong
trào cả nước làm chậm quá trình “bình định” của Pháp.
- Tuy thất bại nhưng phong trào đã nêu một tấm gương sáng ngời về tinh
thần đoàn kết của nhân dân, sự hết lòng nhân dân Thanh Hóa, để lại nhiều bài
học kinh nghiệm về xây dựng và tổ chức lực lượng.
- Thiết kế bài tập theo hướng rèn luyện thao tác so sánh đối chiếu để rút ra
kết luận khái quát về các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu về Thanh Hóa từ thời tiền sử đến thế kỉ
X để giúp các em hiểu được quá trình phát triển từ Người tối cố đến Người tinh
khôn giáo viên có thể đưa ra bài tập nhận thức : So sánh đặc điểm của người tối
cố và người tinh khôn ở Thanh Hóa. Với bài tập này, các em không những củng
cố kiến thức đã học, không rập khuôn bài giảng đồng thời biết lựa chọn những
nội dung kiến thức nổi bật nhất để so sánh.
- Thiết kế bài tập theo hướng rèn luyện thao tác tư duy, tìm ra mối liên
hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử.
Đối với dạng bài tập này đòi hỏi học sinh phải biết phân tích đánh giá, tìm
ra mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử đã học. Do đó trong quá trình giảng dạy
giáo viên phải biết phân hóa năng lực học sinh cho phù hợp nội dung bài học.
Chẳng hạn khi tìm hiểu về sự ra đời Đảng bộ Thanh Hóa có thể ra bài tập: Từ sự
ra đời Đảng bộ Đảng cộng sản Thanh Hóa em hãy rút ra ý nghĩa lịch sử của sự
kiện này? Để trả lời học sinh phải phân tích tổng hợp kiến thức đã học thấy được
mối liên hệ với các sự kiện trước đó để rút ra: Sự ra đời Đảng bộ Đảng cộng sản
Thanh Hóa chứng tỏ sự trưởng thành về ý thức chính trị của quần chúng công

nông. Từ đây nhân dân trong tỉnh đã có một tổ chức chân chính trực tiếp lãnh
đạo, đánh dấu bước ngoặt trong sự phát triển cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ, phong trào cách mạng Thanh Hóa trở thành một bộ phận hữu cơ của
cách mạng Việt Nam.
2.3.3. Sử dụng tốt đồ dùng trực quan phù hợp với điều kiện cụ thể
Việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử nói chung, dạy học
lịch sử địa phương nói riêng là rất cần thiết. Tuy nhiên không nên dùng quá
nhiều đồ dùng trực quan, không nên “dạy chay”, quan trọng tùy vào nội dung để
có phương pháp sử dụng cho phù hợp. Thông qua đồ dùng trực quan “góp phần
quan trọng tạo biểu tượng cho học sinh, cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình
trạng hiện đại hóa lịch sử của học sinh”[8]. Hơn thế nữa, khi sử dụng đồ dùng
trực quan còn giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tuy
duy và ngôn ngữ. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào các em cũng thích
9


nhận xét, phán đoán, hình dung xem lịch sử được phản ánh, minh họa như thế
nào, từ đó suy nghĩ và diễn đạt bằng lời nói. Có thể nói “nó là chiếc cầu nối giữa
quá khứ và hiện tại”[2].
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông rất phong phú,
đa dạng, mỗi loại có nội dung và ý nghĩa khác nhau nên cách sử dụng cũng rất
khác nhau. Khi sử dụng GV bao giờ cũng kết hợp chặt chẽ với sử dụng lời nói
và tài liệu viết, hướng dẫn các em “làm việc” để tiết học hấp dẫn hơn.
.- Đồ dùng trực quan quy ước gồm bản đồ, sơ đồ, niên biểu.... tạo cho học
sinh những hình ảnh tượng trưng, khi phản ánh những mặt chất lượng và số
lượng của quá trình lịch sử, đặc trưng khuynh hướng phát triển. Nó là phương
tiện để cụ thể hóa sự kiện lịch sử, hình thành khái niệm cho học sinh.
Ví dụ:
Sau khi tìm hiểu hoàn cảnh bùng nổ, các cuộc khởi nghĩa tiêu biểu GV tiếp
tục hướng dẫn học sinh tìm hiểu về đặc điểm, vị trí, ý nghĩa của phong trào Cần

vương ở Thanh Hóa bằng cách đưa ra phiếu học tập: Hoàn thành sơ đồ về đặc
điểm, vị trí, ý nghĩa của phong trào Cần vương ở Thanh Hóa theo mẫu. Qua đó
giúp học sinh không chỉ ghi nhớ mà còn hiểu sâu sắc bản chất sự kiện lịch sử,
hình thành biểu tượng lịch sử.

- Tranh ảnh, phim ảnh lịch sử có giá trị: như chân dung các nhân vật ,
bức tranh “Ngôi nhà diễn ra sự thành lập Đảng bộ Thanh Hóa”... có tác dụng tạo
10


biểu tượng hay các phim tư liệu về Thành Nhà Hồ, Khu di tích Lam Kinh.... Ưu
thế loại đồ dùng trực quan này phong phú về nội dung, kết hợp chặt chẽ giữa
hình ảnh lời nói với âm nhạc, tác động giác quan học sinh, cung cấp kiến thức
hấp dẫn. Hình ảnh, màu sắc, âm thanh tạo cho học sinh biểu tượng sinh động
như đang sống cùng sự kiện qua đó bổ sung kiến thức, giúp các em hiểu sâu sắc
nội dung bài học
Ví dụ: Giáo viên sử dụng phần mềm powerpoint trình chiếu học sinh xem
các đoạn phim giới thiệu về các di tích lịch sử, nhân vật lịch sử... sau đó yêu cầu
học sinh tường thuật lại hoặc cho các em về nhà viết bài giới thiệu lại những vấn
đề vừa được tìm hiểu.
Đối với khối 10 giáo viên cho xem đoạn phim về thành nhà Hồ (Phụ lục 3).
Đối với học sinh khối 11 có đoạn phim về cầu Hàm Rồng (Phụ lục 4).
Kết thúc buổi học GV cho HS viết bài tìm hiểu về các nội dung mà em đã
được xem.
2.3.4.Sử dụng phương pháp dự án để giảng dạy lịch sử địa phương
Phương pháp dự án là một phương pháp mà học sinh có nhiệm vụ học tập
phức hợp đòi hỏi HS với tính tự lực cao. Theo qui trình dạy phương pháp thì vai
trò của HS như sau: HS tham gia chọn đề tài, nội dung hoạt động nhóm phù hợp
với khả năng và hứng thú của các nhóm. Với phương pháp dự án sẽ rèn luyện
tính sẵn sàng và kĩ năng hợp tác của HS. Theo đó, HS ( theo nhóm) thu thập, xử

lí thông tin từ nhiều nguồn theo vai đảm nhận, tích lũy kiến thức và nhiều giá trị
khác từ quá trình làm việc. Điều này cho phép HS làm việc “một cách độc
lập” để hình thành kiến thức và cho ra những kết quả thực tế, nâng cao kĩ năng
sử dụng CNTT vào quá trình học tập và tạo ra sản phẩm. HS tập giải quyết các
vấn đề có thật trong đời sống bằng những kĩ năng của “người lớn” như cộng tác
và diễn giải. Qua đó, mỗi bài học đều thật sự hấp dẫn đối với HS vì vấn đề mà
các em đang giải quyết là vấn đề có thực trong cuộc sống.
Để đạt được mục tiêu là thái độ tự hào về truyền thống lịch sử của địa
phương, giáo viên cần sử dụng biện pháp dạy học theo dự án để HS có được
động cơ và thái độ học tập đúng đắn. Phương pháp dạy theo dự án đòi hỏi giáo
viên cần có bước chuẩn bị chu đáo: cho HS tham gia chọn đề tài, nội dung hoạt
động nhóm phù hợp với khả năng và hứng thú của từng nhóm, tìm tư liệu hình
ảnh trước khi học lịch sử địa phương... Sau đó phân công nhiệm vụ cho từng
nhóm cụ thể, kết hợp chặt chẽ với phương pháp trò chơi, phương pháp vấn đáp.
Có thể cho HS chơi trò làm báo, lớp trưởng làm tổng biên tập, nhóm trưởng thu
góp chỉnh sửa tư liệu do các bạn phóng viên thu thập về. HS có thể tìm hình ảnh,
tư liệu ngay nơi mình ở. Một số HS có khả năng tư duy tốt được phân công đặt
câu hỏi về đặc điểm địa hình, vị trí, diện tích, khí hậu, dân cư, phong trào cách
mạng của ông cha tại địa phương. Giáo viên kiểm tra từng bước trước khi lên
lớp dạy. Tại lớp, các em làm việc theo nhóm với bản đồ địa phương, trình bày
hình ảnh, tư liệu cho bạn bè xem, mời bạn đặt câu hỏi.
Tiết học không có sự tham gia trực tiếp của giáo viên. Sau khi học nhóm,
lớp trưởng tổng hợp câu hỏi, mời các bạn trả lời. Tất cả các em HS có sự chuẩn
bị tốt nên đã trả lời được câu hỏi với sự tự tin rất cao. Qua đó giáo viên mới thấy
11


được sự tích cực của các em khi được học với phương pháp dự án. Nhiều em tự
hào về kiến thức và tư liệu của mình thu lượm được.
Ngoài ra, giáo viên có thể kết hợp phương pháp dự án với phương pháp trò

chơi, theo đó giáo viên hướng dẫn HS làm ô chữ đố vui. Mỗi nhóm HS làm một
ô chữ về một đề tài học tập. Giáo viên chia bảng làm hai cột hướng dẫn các em,
một bên đặt câu hỏi, một bên vẽ ô chữ. Ấn định thời gian cho các em xong bảng
ô chữ nào thì dán lên bảng lớp, mời nhóm khác trả lời. Phương pháp này giúp
cho giờ học sinh động, HS hào hứng, kiến thức lịch sử được khắc sâu. Sau đó, ở
tiết học sau, giáo viên kết hợp với phương pháp trình bày báo tường. Mỗi tổ đề
cử HS viết chữ đẹp ghi lại các câu đố, các câu giải đáp, kẻ các ô chữ đố vui, dán
các hình ảnh chụp được, bài giới thiệu kĩ về kiến thức của từng công trình lịch
sử… Sản phẩm của tiết học là một tờ báo tường về lịch sử địa phương.
Với phương pháp này giúp HS không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử địa
phương, mà các em còn có thái độ tự tin trong học tập, niềm tự hào về lịch sử
đấu tranh cách mạng của địa phương. Một số HS còn rèn luyện được khả năng
tìm tư liệu trên mạng, chụp được hình ảnh trên thực tế, đặt câu hỏi, vẽ ô chữ,
làm báo tường về lịch sử địa phương. Dạy học theo dự án giúp HS chuyển từ
hình thức học thụ động sang hình thức học chủ động có định hướng; từ thụ động
ghi nhớ, lặp lại sang khám phá, tích hợp và trình bày; từ nghe và đáp ứng sang
truyền đạt và dám chịu trách nhiệm; từ phụ thuộc vào giáo viên sang chủ động
trong quá trình học tập.
Ví dụ: Tìm hiểu Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương.
Thực hiện Kế hoạch số 01-KH/BTC, ngày 17/9/2018 của Ban Tổ chức
Cuộc thi “Tìm hiểu 990 năm Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương” của Tỉnh ủy Thanh Hóa. Ban Thường vụ Huyện
uỷ Bá Thước xây dựng kế hoạch Tổ chức Cuộc thi “Tìm hiểu 990 năm Danh
xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương” trên
địa bàn huyện. Là học sinh thuộc địa bàn vùng núi cao để hưởng ứng cuộc thi
tuyên truyền, giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa, con người, vùng đất xứ
Thanh và sự xuất hiện của Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành
chính trực thuộc Trung ương. Qua đó, phát huy truyền thống tốt đẹp, lòng tự hào
về vùng đất, con người xứ Thanh trong sự nghiệp CNH - HĐH, xây dựng và bảo

vệ đất nước, quê hương giàu đẹp, văn minh. GV có thể xây dựng chủ đề "Danh
xưng Thanh Hóa" trong tiết học Lịch sử địa phương và hướng dẫn HS tìm hiểu
GV chia nhóm chuẩn bị tư liệu:
- Hãy giới thiệu khái quát về tỉnh Thanh Hóa.
- Tên gọi miền đất Thanh Hóa trong diễn trình Lịch sử dân tộc.
- Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là đơn vị hành chính trực thuộc Trung
ương
- Liên hệ trách nhiệm bản thân
HS kết hợp với sưu tầm tranh ảnh, đặt câu hỏi đặc điểm địa hình, vị trí,
diện tích, khí hậu, dân cư, phong trào cách mạng của ông cha tại địa phương.
12


Trên lớp GV sử dụng máy chiếu để các em trình chiếu hình ảnh, bản đồ rồi các
nhóm đặt câu hỏi trả lời.
Có thể nói, dạy và học theo dự án khuyến khích sự sáng tạo nơi các em,
giúp các em huy động kiến thức tổng hợp để thực hiện dự án, đồng thời phát
triển đa dạng các kĩ năng như phân tích, tổng hợp, lập kế hoạch triển khai, đánh
giá… Với phương pháp này, các em sẽ tự tin trong quá trình học tập và cả trong
cuộc sống sau này.
2.3.5. Tiến hành các hoạt động ngoại khóa
- Thi vẽ tranh, đọc thơ, ngâm thơ, kể chuyện, tường thuật lại các cuộc
khởi nghĩa ở địa phương.
Cách dạy bằng hình thức này vừa gây được húng thú cho học sinh vừa phát
huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo ở các em. Quan trọng hơn nữa là
giúp các em thể hiện được năng khiếu của chính mình, giúp các em tự tin hơn,
hoà nhập vào tập thể lớp mà không thấy tự ti về sức học của mình. Nhất là học
sinh vùng núi cao như nơi tôi đang giảng dạy, tôi thấy nhiều em còn nhút nhát,
rụt rè chưa mạnh dạn xây dựng bài, đóng góp ý kiến cho bạn và trong các hoạt
động tập thể. Áp dụng hình thức dạy học này, tôi thấy các em khắc phục được

phần nào sự nhút nhát, tự ti bởi nhiều em học sinh có dịp thể hiện mình ở các
lĩnh vực: Hội hoạ, kể chuyện về các cuộc khởi nghĩa, ngâm thơ ca ngợi các anh
hùng, các nữ tướng...
* Giáo viên có thể cho học sinh thi ngâm thơ, đọc thơ những bài ca dao, bài
thơ, câu thơ viết ca ngợi các anh hùng ở địa hương gắn với tiết lịch sử mà cả lớp
đang học.
* Giáo viên cho học sinh có năng khiếu hội hoạ lên vẽ những hình ảnh tiêu
biểu (Danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, vẽ chân dung các anh hùng ở Thanh
Hoá, vẽ các lược đồ khởi nghĩa...) biểu tượng của quê hương và cho các em đặt
lời bình cho những bức vẽ đó.
Cụ thể: HS ở các tổ( nhóm) cử đại diện tổ mình lên dự thi vẽ tranh, bức
tranh của tổ (nhóm) nào đẹp, đầy đủ chi tiết và bố cục, sẽ được đánh giá cao hơn
các nhóm khác.
Ví dụ :
- HS học tiết :Khởi nghĩa Bà Triệu, các em vẽ hình ảnh Bà Triệu cưỡi voi ra
trận...hoặc học sinh vẽ lăng Bà Triệu ở núi Tùng (Thanh Hoá) và các em tự viết
lời bình cho bức tranh, thay mặt cho tổ đọc lên ý tưởng đó.
- Đối với HS khối lớp 11 GV có thể cho các em thi vẽ: “Công sự phòng thủ
Ba Đình”

13


* HS có thể thi về tường thuật lại một cuộc khởi nghĩa ở địa phương.
Ví dụ: GV cho HS thi giữa các tổ, với nội dung thuật lại cuộc khởi nghĩa
Hà Văn Mao ở Bá Thước trong phong trào Cần vương...
Từ những hình thức thi ở trên, giờ học sẽ cuốn hút HS và tạo nên sự hứng thú
nơi các em, tiết học sẽ sôi nổi và căn bản HS sẽ tiếp cận với bài học được tốt
hơn.
- Trò chơi đố kiến thức:

Đây là hình thức ngoại khóa gọn nhẹ, dễ tổ chức mà hấp dẫn học sinh.
Những trò chơi này đồi hỏi các em phát huy phát huy năng lực tư duy, trí thông
minh giải quyết vấn đề đặt ra. Hình thức này được sử dụng rộng rãi trong các
chương trình như “Âm vang xứ Thanh”, “Đường lên đỉnh Ôlympia”. Giáo viên
tổ chức cho học sinh chơi ô chữ. Những kiến thức trong các ô chữ là tên các địa
danh gắn với bài học lịch sử địa phương mà HS ở tiết đó các em học, các danh
lam thắng cảnh, di tích lịch sử, những tác phẩm văn học viết về các cuộc khởi
nghĩa, các anh hùng đánh thắng giặc ngoại xâm, các nữ tướng... nổi tiếng của địa
phương. Cũng có thể cho học sinh bắt thăm trả lời các câu hỏi về kiến thức liên
quan đến bài học lịch sử địa phương.
Giáo viên chuẩn bị ô chữ trước, có thể cắt dán giấy màu, hay kẻ sẵn ra bảng
phụ. Ô chữ có hàng dọc và hàng ngang, yêu cầu HS lên bảng điền đúng hoặc
dán chữ đúng trên giấy màu.

14


Hoặc tổ chức các trò chơi theo hình thức Rung chuông vàng theo hệ thống
câu hỏi trong bộ câu hỏi cuộc thi Tìm hiểu Danh xưng Thanh Hóa với tư cách là
đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương tạo không khí sôi động, thu
hút cả GV và HS tham gia.

Hình ảnh: Thi Rung chuông vàng với chủ đề "990 năm Danh xưng Thanh Hóa" tại trường
THPT Bá Thước – Thanh Hóa tháng 3 năm 2019

- Dạy học tại thực địa
Đây là hình thức tiến hành một bài lịch sử địa phương tại thực địa kết hợp
bài nội khóa với các hoạt động ngoại khóa. Hình thức dạy học này chưa được
phổ biến vì đòi hỏi nhiều công phu, thời gian, yêu cầu giáo viên nắm vững
những sự kiện lịch sử sẽ tiến hành thì việc dạy và học mới đạt kết quả cao. Nó

giúp học sinh “trực quan sinh động” những di tích của quá khứ, thu thập những
tài liệu “sống”, chân thực, gây cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ, những
cảm xúc sâu đậm củng cố kiến thức đang học và bồi dưỡng về tư tưởng, phát
triển về kỹ năng. Vì vậy phạm vi và nội dung của bài học thực địa phong phú và
15


đa dạng (vì kết hợp với hoạt động ngoại khóa, thực hiện các bài tập nhận
thức...trong khuôn khổ yêu cầu của một bài nội khóa)
Ví dụ:
Với HS của tôi là trên địa bàn huyện Bá Thước có thể tham quan đền thờ
Hà Công Thái giúp các em hiểu biết thêm về dòng họ quan lang Hà Công ở Bá
Thước đặc biệt nhân vật Hà Văn Mao. Ông cùng các nhà lãnh đạo phong trào
Cần Vương ở Thanh Hoá như Trần Xuân Soạn, Phạm Bành, Đinh Công Tráng…
đã xây dựng nhiều căn cứ quân sự và mặc nhiên thành những người lãnh đạo
chủ chốt của phong trào Cần Vương trên địa bàn.
Cụ thể: Bắt đầu giáo viên tập trung học sinh trước khu di tích và giới thiệu
bài học gắn liền giới thiệu về khu di tích ( kết hợp sử dụng bản đồ, hiện vật lịch
sử để học sinh quan sát và hình dung). Phần này chỉ tiến hành 5 đến 10 phút sau
đó giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát toàn cảnh khu di tích chú ý địa hình
thế núi, thế sông và tổ chức học sinh thảo luận “ Em biết gì về lễ hội Mường khô
và nhân vật Hà Công Thái, Hà Văn Mao”. Trong khoảng 40 phút giáo viên
hướng dẫn học sinh quan sát di tích, nêu các vấn đề các em thảo luận, giải đáp
thắc mắc. Việc này sẽ giúp các em nắm vững nội dung bài học.
Kết thúc buổi học giáo viên yêu cầu học sinh viết bài tường thuật,
miêu tả lại về đền thờ Hà Công Thái cũng như vai trò Hà Văn Mao trong phong
trào Cần vương ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX.

Lễ hội Mường Khô tri ân Quận công Hà Công Thái và các vị tướng dòng họ Hà đã có công
dẹp loạn ở vùng biên giới phía Tây tỉnh Thanh vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX


Như vậy hình thức học tập hoạt động ngoại khoá có lợi tạo tâm lí thoải
mái theo phương châm “ Học mà chơi, chơi mà học”, tạo cho các em học sinh
những kĩ năng giao tiếp với môi trường bên ngoài, có năng lực quan sát, giúp
học sinh phát triển toàn diện hơn. Nhưng hình thức học tập này có thực hiện
được tốt hay không chắc chắn còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố địa lý, điều kiện
sống. Nói như vậy, không phải là không thực hiện được. Nếu cố gắng chúng ta
vẫn tổ chức được các hoạt động ngoại khoá như thế. Tuy nhiên, vẫn không tránh
khỏi những điều bất cập.
2.3.6. Sử dụng hệ thống câu hỏi nêu vấn đề
16


Đây cũng là phương pháp không thể thiếu trong tiết học lịch sử địa phương.
Học sinh phát biểu, nêu ý kiến, nhận xét về nội dung lịch sử địa phương. Mỗi
học sinh có mỗi cách nhận xét, đánh giá. Giáo viên sẽ là người định hướng, rút
ra nhận định khái quát cuối cùng.
Ví dụ 1: Với nội dung “Cải cách của Hồ Quí Ly” yêu cầu HS trả lời câu
hỏi bằng thảo luận nhóm
a. Vì sao Hồ Quí Ly thực hiện các biện pháp cải cánh đất nước?
b. Em đánh giá như thế nào về nhân vật Hồ Quí Ly?
Ví dụ 2: Còn nội dung “Thanh Hoá trong phong trào Cần Vương cuối thế
kỷ XIX” ở khối 11 giáo viên có thể đặt câu hỏi:
Câu hỏi:
a. Nêu đặc điểm, ý nghĩa lịch sử của phong trào Cần Vương Thanh Hoá?
b. Em hãy sưu tầm những mẩu chuyện về phong trào Cần Vương chống
pháp ở Thanh Hoá ?
Học sinh sẽ thảo luận nhóm với những câu hỏi trên và đưa ra ý kiến của
mình.
Ví dụ 3: Với nội dung Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp ở lớp 12

giáo viên có thể đặt câu hỏi:
a. Em hãy sưu tầm những số liệu về đóng góp nhân dân Thanh Hóa trong
chiến dịch Điên Biên Phủ?
b. Vai trò Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp?
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.4.1. Kết quả thăm dò và thực nghiệm phương pháp.
Qua hai năm học 2017 - 2018; 2018 - 2019 giáo viên và học sinh đã tiến
hành áp dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực của HS thông qua nhiều hình
thức trên lớp, ở nhà. Kết quả học sinh đã có hứng thú hơn đối với môn học, say
mê và nắm chắc kiến thức hơn. Đặc biệt hứng thú với kiến thức, đồ dùng trực
quan do mình tự tìm hiểu và nghiên cứu.
Sau khi dạy, tiến hành đánh giá bằng hình thức kiểm tra viết (phụ lục 2)
và trắc nghiệm thăm dò (phụ lục 1) trên lớp tôi có kết quả cụ thể sau.
* Năm học: 2017 - 2018:
Lớp chưa vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %) Yếu (%)
11A5 - CB
39
02 5.1 11 28.2
26
66.7
0
0
10A5 - CB
42
01 2.4 16 38.1
25

59.8
0
0
Lớp vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %)
11A8 - CB
43
5 11.6 24 55.8
14
32.6
10A1 - CB
41
04 9.8 21 51.2
16
39.0
* Năm học: 2018 - 2019:
Lớp chưa vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số Giỏi (%)
Khá (%)
Trung bình ( %)
11A7 - CB
37
01 2.7 13 35.1
23
62.2


Yếu (%)
0
0
0
0
Yếu (%)
0
0
17


10A2 - CB

40

01

2.5

13

32.5

26

65.0

Lớp vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực:
Lớp
Sĩ số Giỏi (%)

Khá (%)
Trung bình ( %)
11A1 - CB
41
3
7.3 27 65.9
11
26.8
10A9 - CB
32
10 31.1 19 59.5
3
9.4

0

0

Yếu (%)
0
0
0
0

2.4.2. Đối với chất lượng giảng dạy và giáo dục học sinh:
- Đối với học sinh:
+ Qua việc sử dụng phiếu thăm dò bản thân tôi nhận thấy học sinh hứng
thú hơn trong mỗi giờ học lịch sử, không khí của lớp học sôi nổi, thoải mái.
+ Học sinh chủ động, tích cực, tự giác trong quá trình lĩnh hội kiến thức, các em
đã biết chủ động khai thác kiến thức lịch sử địa phương từ nhiều nguồn tư liệu, vận dụng

những kiến thức đã học vào thực tế để giải quyết những câu hỏi, bài tập mà giáo viên đưa
ra.
+ Học sinh đã biết liên kết các sự kiện lịch sử, xâu chuỗi những kiến thức
theo các chuyên đề, chuyên mục, khái quát, tổng hợp kiến thức, đối chiếu so
sánh sự kiện lịch sử mang tính địa phương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc
để rút ra bản chất. Các em không chỉ hiểu, biết lịch sử mà còn vận dụng kiến
thức đã học vào cuộc sống.
+ Phát huy được tư duy độc lập, khả năng quan sát, óc sáng tạo cũng như
hình thành cho học sinh những kĩ năng, kĩ xảo đặc thù cần thiết khi học bộ môn.
- Đối với giáo viên:
+ Bản thân thông qua việc tìm hiểu đã nắm vững lí luận dạy học, từ đó
triển khai các biện pháp vận dụng nguyên tắc phát huy tính tích cực của học sinh
vào thực tiễn giảng dạy lịch sử ở trường THPT Bá Thước.
+ Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm thông qua thực tiễn giảng dạy ở đơn vị
cho đồng nghiệp, đúc rút nhiều kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả và vị thế
môn Lịch sử ở trường phổ thông.
2.4.3. Khả năng ứng dụng và triển khai của sáng kiến.
- Có khả năng ứng dụng cho mọi đối tượng học sinh các khối lớp ở trường
THPT, ở các địa phương, vùng miền và mang lại hiệu quả thiết thực, gây hứng
thú cho học sinh. là con đường ngắn nhất để học sinh có thể tiếp thu và lĩnh hội
kiến thức từ đơn giản đến phức tạp.
- GV cần xây dựng hệ thống bài tập nêu vấn đề để HS tự giải quyết, từ đó
các em nắm vững kiến thức và vận dụng vào thực tế, thấy được mối quan hệ
giữa lịch sử địa phương trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt GV còn rèn luện HS
phương pháp nghiên cứu học tập độc lập để các em có tư duy giải quyết vấn đề
mới phát sinh.
Phần 3: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
Lịch sử địa phương có một vị trí quan trọng trong chương trình lịch sử phổ
thông [7], giúp học sinh hiểu sâu sắc lịch sử dân tộc, nhất là những sự kiện lớn

xảy ra ở địa phương. Đồng thời, việc hiểu biết mảng kiến thức này sẽ nuôi
18


dưỡng tình yêu quê hương – cơ sở của lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm của
các em nhất là trong bối cảnh hiện nay. Do đó, giáo viên cần nhận thức đúng và
thực hiện nghiêm túc, tránh tình trạng giảng dạy sơ sài, qua loa.
Mặt khác, không có khóa trình riêng về lịch sử địa phương song song với
các khóa trình lịch sử dân tộc và thế giới mà chương trình phổ thông hiện nay
quy định là một số tiết về lịch sử địa phương trong khóa trình lịch sử dân tộc. Vì
vậy giáo viên cần chú ý sưu tầm và sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong
giảng dạy lịch sử dân tộc (nhằm liên hệ, bổ sung, cụ thể hóa một số sự kiện lớn
lịch sử dân tộc). Trong thực tiễn giảng dạy, cần đầu tư nghiên cứu, tiến hành các
hình thức sinh động, có hiệu quả, đặc biệt chú ý phát huy tính tích cực, sáng tạo,
chủ động của học sinh trong việc tham gia tìm hiểu, nghiên cứu học tập. Tuy
nhiên trong dạy học lịch sử không có biện pháp nào là vạn năng việc sử dụng
các biện pháp sư phạm nói trên chỉ thực sự đem lại hiệu quả giáo dục khi được
giáo viên sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo, tuỳ mục đích của bài và khả
năng nhận thức của các em.
Sau một thời gian vận dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào giảng dạy
phần Lịch sử địa phương ở trường THPT Bá Thước, bản thân tôi đã nhận thấy
rằng những kinh nghiệm này rất phù hợp với chương và với những tiết dạy học
theo hướng đổi mới. Học sinh có hứng thú học tập hơn, tích cực chủ động sáng
tạo để mở rộng vốn hiểu biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện
nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ
nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn. Tôi cũng hi vọng với việc áp dụng đề
tài này học sinh sẽ đạt được kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi cấp
trường, cấp Tỉnh và đặc biệt khơi dậy trong học sinh lòng yêu quê hương, đất
nước.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong quá trình giảng dạy môn

lịch sử ở trường THPT. Do tuổI đời, tuổi nghề còn ít, hiểu biết và kinh nghiệm
chắc chắn không tránh những sai sót, rất mong được sự góp ý chân thành của
các đồng nghiệp.
3.2. KIẾN NGHỊ.
* Đối với sở GD&ĐT Thanh Hóa
- Cần quan tâm nhiều hơn đến bộ môn lịch sử ở trường THPT.
- Nên tổ chức nhiều chuyên đề cấp tỉnh về nâng cao chất lượng dạy - học lịch
sử địa phương cho giáo viên được tham gia.
* Đối với Nhà trường
Nên có sự đầu tư khuyến khích giáo viên đổi mới PPDH dưới nhiều hình
thức khác nhau.
* Đối với giáo viên
Phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Hạn chế tối đa phương
pháp dạy học truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
Phải luôn tìm tòi, sáng tạo để từng bước cải tiến phương pháp dạy học cho
phù hợp với từng tiết học, bài học với những đối tượng học sinh khác nhau.
19


Phải thực sự tâm huyết, tận tình với công việc, yêu nghề, có tinh thần
trách nhiệm cao trước học sinh. Chỉ thực sự yêu nghề, yêu trẻ GV mới vượt qua
những khó khăn, thực hiện tốt nhiệm vụ “trồng người của mình”.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 6 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

(Ký và ghi rõ họ tên)

Mai Thị Thanh Hà

20



×