Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số giải pháp naamg cao chất lượng học tập bộ môn lịch sử ở trường THPT hoằng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.83 KB, 20 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU.
I. Bối cảnh của đề tài.
Kết quả học tập bộ môn lịch sử THPT hiện nay thấp, điều đó đặt ra cho
chúng ta nhiều vấn đề cấn quan tâm giải quyết, nhất là những người trực tiếp
làm công tác giảng dạy . Thực tế cho thấy, ít có học sinh hứng thú với tất cả các
bộ môn mà thường chỉ say mê một số môn. Kinh nghiệm cũng cho thấy không
nên đánh giá cao biểu hiện hứng thú học tập và năng khiếu của các em để kết
luận thích môn này hay môn kia, nhất là trong việc tổ chức thi cử còn chưa thật
sự hoàn hảo, chập chờn giữa học và thi, quan niệm về vị trí của từng bộ môn còn
có chỗ lệch lạc, động cơ học tập chưa đúng, thì việc tạo hứng thú cho học sinh
trong quá trình giảng dạy có vị trí , ý nghĩa hết sức quan trọng để giúp các em có
động cơ học tập đúng đắn. Thiết nghĩ cũng cần nhắc lại rằng : Học sinh không
thích học lịch sử, không phải do môn lịch sử gây ra mà chính là do quan niệm và
phương pháp dạy học của chúng ta chưa thật sự phù hợp. Bởi Lịch sử là nguồn
cảm hứng mạnh mẽ đối với mọi người, vì qua lịch sử mà ta nhận thấy được
gương mặt của quá khứ, hình ảnh của hiện tại và bước phát triển của tương lai.
Không phải ngẫu nhiên mà F.Enghen - người bạn cảm động và hết sức vĩ đại của
Các Mác - đã khẳng định: “Đối với chúng ta, lịch sử là tất cả, lịch sử được
chúng ta đánh giá cao hơn bất cứ cái gì khác…” ( Các Mác, F.Enghen toàn tập,
tập I).
Như vậy , vấn đề phương pháp dạy học có vai trò to lớn, quyết định đến chất
lượng bộ môn. Điều mà chúng ta cần góp ý, luận bàn để ít nhất là cải thiện thái
độ học tập bộ môn của các em trong tình hình hiện nay tại Tỉnh ta.
II. Lí do chọn đề tài.
Trong một số năm trở lại đây, khi mà nền kinh tế thị trường phát triển, thì số
học sinh THPT sao nhãng việc học tập các bộ môn khoa học xã hội nói chung,
Lịch sử nói riêng càng bộc lộ rõ, tình trạng này không những ở các thành phố thị
xã mà học sinh ở vùng nông thôn, vùng sâu , vùng xa cũng có những biểu hiện
1



lơi là, thái độ học tập bộ môn yếu, dẫn đến kết quả hết sức thấp kém tới mức báo
động! Hàng ngàn điểm không môn lịch sử trong các kì thi Đại học , Cao đẳng là
một minh chứng, một điều mà cả xã hội quan tâm và lo ngại. Đã có nhiều cuộc
hội thảo ở nhiều cấp bàn bạc về vấn đề trên, nhưng thực tế vẫn chưa mang lại
kết quả như mong đợi. Việc nghiên cứu tìm ra biện pháp cải thiện tình trạng hiện
tại là hết sức cần thiết và cấp bách. Là một giáo viên hiện đang làm công tác
giảng dạy Lịch sử ở một trường THPT cũng không khỏi xót xa, chạnh lòng vì
thực tế có phần phũ phàng đó, xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm nghề nghiệp ,
bản thân nhận thấy cần phải góp tiếng nói của mình để cùng đồng nghiệp trong
trường, trong tỉnh tìm ra được giải pháp phù hợp với thực tiễn hiện nay để cải
thiện tình hình , hi vọng lấy lại sự công bằng cho bộ môn Lịch sử với tư cách là
một khoa học chân chính, mở rộng” thị phần” trong tình cảm và suy nghĩ của
các em, từ đó tạo cho các em có thái độ và động cơ học tập tốt hơn đó chính là
lí do mà bản thân mạnh dạn trình bày ra đây thiển ý của mình , mong được sự
góp ý chân tình của đồng chí, đồng nghiệp để chúng ta cùng nhau góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy – học tập bộ môn lịch sử nên tôi chọn đề tài
nghiên cứu:” MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC TẬP
BỘ MÔN LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG THPT HOẰNG HÓA”
III. Phạm vi và đối tượng của đề tài.
Những vấn đề được nêu ra trong bài viết được rút ra từ thực tiễn giảng dạy từ
một trường THPT miền biển có tên trường THPT Hoằng Hóa, học sinh có trình
độ nhận thức, điều kiện kinh tế- xã hội, tâm lí học tập tương đồng với học sinh
vùng sâu vùng xa. Vì vậy, những chính kiến và giải pháp cũng chỉ trong phạm vi
góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy – học tập bộ môn lịch sử trên cơ sở gây
được hứng thú học tập của các em học sinh THPT ở các địa phương có điều kiện
tương tự trong tỉnh nhà.
IV. Mục đích của đề tài.

2



Thông qua thực tiễn cuộc sống và giảng dạy, trả lời được một số câu hỏi
thuộc phạm vi nghề nghiệp chuyên môn đặt ra:
1/ Nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng học tập bộ môn sút kém .Trong
dó nguyên nhân nào là cơ bản.
2/ Có thể cải thiện được tình hình hay không? Giải pháp và nguồn lực nào?
3/ Đề xuất một số ý kiến với các cấp quản lí nhà nước và quản lí giáo dục.
Từ đó áp dụng vào việc giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo thế hệ trẻ những chủ nhân tương lai của đất nước, của từng địa phương,
những con người vừa hồng vừa chuyên, hiểu sâu sắc quá khứ để có suy nghĩ và
hành động trong hiện tại và tương lai.

3


PHẦN NỘI DUNG.
I.

Cơ sở lí luận của đề tài.

Đổi mới toàn diện, sâu sắc trên mọi lĩnh vực, từ lâu đã trở thành mệnh lệnh;
chủ trương của Đảng, sự phát triển đi lên của đất nước,đòi hỏi mỗi ngành, mỗi
đơn vị , cá nhân đều phải đổi mới tư duy, cách nghĩ, cách làm cho phù hợp với
xu thế chung, đặc biệt đối với Giáo dục, được Đảng ta xác định phát triển giáo
dục là quốc sách hàng đầu,cần phải nhanh chóng “chấn hưng nền giáo dục Việt
Nam” (Nghị quyết Đại hội X), để tạo ra nguồn lực con người- yếu tố cơ bản
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế. Yêu cầu đối với giáo dục phổ thông “ bồi
dưỡng cho thế hệ trẻ có kiến thức cơ bản về văn hóa, phát huy tư duy khoa học
và phát huy năng khiếu,có óc thẩm mĩ” ( Nghị quyết Bộ Chính trị về cải cách
giáo dục). Vì vậy, cần tập trung sức lực, tài lực, trí tuệ để “ nâng cao chất lượng

toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lí, nội dung , biện pháp dạy và
học” để “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù
hợp với đặc điểm từng lớp học, cấp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự
học, rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm,
đem lại niềm hứng thú cho học sinh”. Đây thực sự là một yêu cầu, là đơn đặt
hàng của nền kinh tế – xã hội đối với giáo dục- đào tạo; đòi hỏi giáo dục phải
đổi mới nội dung và phương pháp, phải thật sự lấy học sinh làm trung tâm, kích
thích và thông qua các hoạt động tích cực của học sinh thì mới đem lại kết quả
mong đợi.
II.

Thực trạng vấn đề.
Xã hội hiện đại biến đổi nhanh chóng và như vũ bão khi mà khoa học –

công nghệ đang phát huy tối đa vai trò to lớn của mình trong mọi lĩnh vực đời
sống, bắt đầu xuất hiện một tình trạng. Khoảng cách ngày càng xa giữa cái vô
hạn của tri thức nhân loại với cái hữu hạn của năng lực và thời gian tiếp nhận
của mỗi một con người; kể cả thầy và trò , mỗi nhóm đối tượng có nhiều kênh
thông tin tiếp nhận tri thức khác nhau. Bởi vậy, dạy học hiện đại không thể chấp
4


nhận kiểu dạy cưỡng bức kẻ khác phải tiếp nhận vô điều kiện” lời vàng , ý
ngọc”của người dạy .
Vấn đề đặt ra ở đây là : cách tổ chức, truyền đạt, hướng dẫn, giúp đỡ thế
nào để người học dễ dàng lĩnh hội được tri thức mới, cùng với sự sáng tạo cá
nhân, hướng các em tăng cường hoạt động cá thể trong tập thể, phối hợp nhóm,
tổ. Kết hợp học tập trên lớp và ngoài giờ lên lớp, học mọi lúc , mọi nơi, học liên
tục và suốt đời. Chính trong quá trình đó, hình thành nên người có ý chí, bản
lĩnh và nghị lực, có khát vọng vươn lên trở thành một con người có khả năng

đáp ứng yêu cầu và là chủ nhân của xã hội hiện đại. Như vậy, DẠY – HỌC như
thế nào là điều hết sức quan trọng.Góp phần giải quyết câu hỏi số một ở phần
trên. Điều này có thể chung cho tất cả các bộ môn, riêng với lịch sử, trong hoàn
cảnh hiện nay, khi mà sự hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng sôi động, nền
kinh tế tri thức còn non trẻ của chúng ta đang đứng trước nhiều cơ hội và thách
thức đan xen, sự nghiệt ngã của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt,
chuẩn đánh giá chất lượng và giá trị cuộc sống nhiều lúc, nhiều nơi phiến diện,
nghiêng về thu nhập tài chính, thì việc dạy đạo đức,truyền thống, dạy Người hơn
lúc nào hết cần được chú trọng đúng mức và tăng cường, để hòa nhập nhưng
không hòa tan, phải giữ được truyền thống quý báu ngàn năm văn vật của Đất
Việt người Nam, yếu tố tạo nên sức mạnh vĩ đại để dân tộc ta trường tồn và đi
lên cùng nhân loại tiến bộ. Việc tìm hiểu quá trình phát triển của lịch sử loại và
dân tộc, đặc biệt là lịch sử dân tộc, như lời Bác đã dạy “ dân ta phải biết sử ta;
cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Đây vừa là ý nghĩa vừa là nhiệm vụ
của những người nghiên cứu, giảng dạy- học tập bộ môn lịch sử. Để đạt được
mục tiêu đó,chúng ta phải tiến hành hàng loạt giải pháp kết hợp, mà trước hết
cần phải thu hút và gây hứng thú cho các em, bởi chỉ có hứng thú thì mới tự
giác , tích cực học tập, bởi “tư tưởng không thông thì cầm bình tông cũng không
nổi”.Phải khách quan mà nói rằng: Lịch sử hay lắm, hấp dẫn lắm, nhưng không
phải vì vậy mà chúng ta chủ quan, lạm dụng, trong giảng dạy bộ môn lịch sử cứ
5


“ bê nguyên xi” sách giáo khoa vào bài giảng với hàng loạt sự kiện khô khan, rời
rạc, thì coi như chúng ta đã biết trước được kết quả: Thủ tiêu niềm ham thích,
hứng thú học tập bộ môn, biến một tiết dạy lịch sử thành một bài chính trị giáo
điều, khó tiếp nhận, học sinh lười học là tất yếu. Bởi theo I.F. Kharlamop “ hứng
thú – đó là nhu cầu nhuốm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây động cơ và
làm cho hoạt động con người có tính hấp dẫn” Như vậy, hứng thú là một trạng
thái tâm lí, sinh lí biểu hiện bằng cảm giác thích thú, say sưa, phấn khởi do một

tác động nào đó từ bên ngoài vào con người qua các giác quan. Hứng thú không
đơn thuần là thích thú bản năng. Nó là biểu hiện của tình cảm và lí trí, là sự kết
hợp một cách khách quan hấp dẫn với một chủ quan năng động. Hứng thú gắn
liền với sáng tạo, với cái mới được phát hiện ra . Như thế, trong một ngàn lẻ một
nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng học tập bộ môn yếu kém của học
sinh, thì nguyên nhân từ phía giảng dạy giữ vai trò quan trọng, vì chưa gây được
hứng thú cho học sinh học tập sử. Sự “ tôn trọng” sách giáo khoa một cách cực
đoan, đã đánh mất vai trò của người thầy giáo, từ lâu nhà giáo dục xô viết N.G
Dai Ri đã cảnh báo. Ngoài vốn kiến thức dồi dào do việc tự trang bị thông qua
quá trình tự học, tự nhiên cứu, người thầy giáo cũng cần trao dồi nhiều phẩm
chất nghiệp vụ chuyên môn khác như: Đầu tư thời gian lựa chọn kiến thức cơ
bản, kiến thức hỗ trợ để làm sáng tỏ vấn đề thông qua các thao tác nhuần
nhuyễn: miêu tả, tường thuật, kể chuyện, bình và giảng với ngôn ngữ đã được
chọn lọc, truyền cảm, cách trình bày mạch lạc dễ hiểu, dễ cảm thụ thì mới hy
vọng bài giảng có chất lượng, từ đó mà thu hút lôi cuốn học sinh. Việc học sinh
không chịu học lịch sử, hậu quả là kiến thức mơ hồ, rời rạc, chắp vá thì người
thầy giáo cần phải xem lại mình, như cổ nhân đã dạy: “ tiên trách kỉ – hậu trách
nhân”. Thực tế cho thấy học sinh yêu thích thầy, cô giáo ( phong cách , năng
lực , tình cảm, thái độ đối với bộ môn.v.v ) trước khi yêu thích bộ môn, điều này
cũng thật dễ hiểu, bởi sự thích thú, say sưa phấn khởi học tập được tạo nên trong
quá trình tác động của giáo viên đến học sinh. Để đạt được yêu cầu này không
6


đơn giản, song không phải là không thực hiện được khi mỗi một giáo viên làm
đúng thiên chức cao cả mà xã hội giao phó : Thầy giáo. Vì vậy, theo thiển ý bản
thân thì người thầy giáo phải : Vừa là tác giả kịch bản, vừa là đạo diễn và cũng
là diễn viên, sẵn sàng đối thoại với đối tượng của mình, phải có khả năng hấp
dẫn, lôi cuốn học sinh, có như vậy tiết dạy mới sinh động thoải mái. Quả thực,
để đạt được yêu cầu này trong điều kiện hiện nay không phải dễ, khi mà cơ sở

vật chất, phương tiện dạy bộ môn của nhà trường còn nghèo nàn, thiếu thốn;
người thầy giáo còn gặp quá nhiều khó khăn trong cuộc sống đời thường, liên
tục phải đối phó với tình trạng thu nhập thấp giá sinh hoạt cao, lấy nghề phụ
nuôi nghề chính, tình trạng chân ngoài dài hơn chân trong đã ảnh hưởng tới chất
lượng, hiệu quả lao động sư phạm.
Trên tinh thần cùng chi sẻ, chúng tôi xin nêu ra đây một số kinh nghiệm
mà trong thực tiễn đã gặt gái được chút ít thành công để đồng nghiệp tham khảo,
ứng dụng vào công tác giảng dạy của bản thân nếu chấp nhận được.
III.

Các biện pháp đã tiến hành.

Khi tham dự hội thảo do Sở GD& ĐT tổ chức, chúng tôi nhận thấy, bên
cạnh màu sắc ảm đạm các bản tham luận nêu ra tới ngàn lẽ một nguyên nhân
dẫn đến tình trạng học sinh không chịu học bộ môn lịch sử, song bên cạnh đó
còn thấy màu hồng rõ nét, nhiều đơn vị số học sinh có kết quả học môn sử cao
thông qua kết quả thi tốt nghiệp phổ thông trung học, Đại học, Học sinh giỏi
Tỉnh, khu vực v.v là một ví dụ điển hình, cùng với qua thực tiễn giảng dạy, bản
thân nhận thấy: số lượng học sinh thích học môn sử không phải là ít, thể hiện
qua thái độ các em ngồi học, những câu hỏi các em đặt ra trong giờ học, ngoài
giờ lên lớp, kết quả học tập thông qua các bài kiểm tra, rõ ràng dây là những tín
hiệu lạc quan, không để các em thất vọng, bản thân tôi trân trọng thái độ của các
em, từ đó có ý thức cố gắng hơn trong công tác dạy Người – dạy chữ của mình
bằng những việc làm cụ thể, xin được trình bày ra đây:
1/ Một số hoạt động khơi dậy ý thức “dân ta phải biết sử ta”
7


- Chúng tôi tranh thủ ý kiến lãnh đạo nhà trường đầu tư kinh phí làm một số Pa
– nô, treo ở những vị trí trực quan trong trường về các anh hùng dân tộc, danh

nhân văn hóa, tấm gương tiêu biểu trong sản xuất chiến đấu qua các thời kì, với
thông tin ngắn, hàng ngày mọi người có thể dễ cảm nhận.
- Tiến hành câu lạc bộ “ vui để học”; chủ đề về hiểu biết lịch sử , địa lí., Mang
lại kết quả đáng khích lệ, các em tích cực tham gia, thậm chí các em còn tranh
thủ tìm hiểu để kì sau trả lời . Điều quan trọng là trình bày hiểu biết của bản thân
trước toàn trường, qua đó giúp các em có tinh thần, thái độ tự giác, tìm hiểu lịch
sử, làm giàu thêm vốn tri thức lịch sử của bản thân, hỗ trợ cho việc học tập bộ
môn.
- Tổ chức “tiếng loa sân trường”, phát thường nhật vào giờ ra chơi sau tiết thứ 2
mỗi ngày. Như mưa dầm, thấm dần vào suy nghĩ và tình cảm của các em. Đây là
những công việc không tốn kém về công sức và tiền bạc, nhưng mang lại hiệu
quả cao, thiết nghĩ là việc nên làm,và tiến hành thường xuyên, tạo một nét sinh
hoạt đậm chất truyền thống trong nhà trường, điều này có ý nghĩa lớn, tác động
tới thái độ học tập bộ môn, mà trước hết là động cơ thích thú tìm hiểu trao đổi và
tranh luận, từ đó tạo tiền đề, không khí thuận lợi cho việc học tập bộ môn. tránh
trường hợp đáng tiếc, nhiều học sinh, thậm chí cả giáo viên giảng dạy - học tập
ở trường mang tên danh nhân nhưng không biết gì về họ cả. Thiết nghĩ, đó là
khuyếm khuyết của giáo viên lịch sử công tác tại đó.
2/ Soạn bài.
Để sử dụng – khai thác hợp lí SGK, trước hết cần xác định:
a. Mối quan hệ giữa SGK và bài giảng.
Việc sử dụng – khai thác SGK hợp lý như thế nào là ở chỗ giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa nội dung SGK và bài giảng. Thực tế hiện nay giảng dạy
thường xảy ra 2 khuynh hướng:
- Thoát ly hẳn SGK hoặc Lặp lại nguyên văn bài viết trong SGK.
8


Theo tiến sĩ N.G Đai-ri (Liên Xô trước đây) trong tác phẩm: “chuẩn bị giờ dạy
lịch sử như thế nào?”. Giảng như trong SGK hoặc tách rời khỏi SGK đều không

đúng. Bởi lẽ:
- Nếu bài giảng thoát ly hoàn toàn nội dung SGK học sinh sẽ khó khăn trong
việc tiếp thu trên lớp và tự học ở nhà. Vì vậy không nắm được kiến thức cơ bản.
- Ngược lại, lập lại nguyên văn bài viết trong SGK vừa làm giảm uy tín người
thầy, vừa giảm giá trị, ý nghĩa giáo dục, còn làm mất đi hứng thú học tập của
học sinh.
Vì vậy trong bài giảng phải có sự kết hợp, gắn bó, phù hợp giữa bài giảng
và bài viết trong SGK. Để có được điều đó người thầy giáo phải nghiên cứu kỹ
SGK qua đó, tìm ra được đâu là kiến thức cơ bản, trọng tâm cần truyền thụ.
Đồng thời phải tra cứu tìm tòi tài liệu ngoài SGK đưa vào trong bài giảng một
cách hợp lý. Để giúp học sinh dễ dàng hiểu và lĩnh hội được một cách sâu sắc và
vững chắc kiến thức bài giảng, nhằm nâng cao tính khoa học trong sáng và tính
vừa sức của SGK đối với đối tượng cụ thể đang tiếp thu. Mặt khác có một thực
tế xảy ra là SGK lịch sử thường không phản ánh kịp thời sự phát triển nhanh
chóng của khoa học lịch sử (như việc đánh giá công và tội của triều Nguyễn,
tình hình các nước Đông Nam Á, vị trí xuất khẩu gạo của Việt Nam hiện nay
trên thế giới .v.v). Bởi vậy, giáo viên không dừng lại ở chỗ chỉ nắm nội dung
SGK mà phải thường xuyên nghiên cứu, tham khảo thêm nhiều nguồn tư liệu
mới đưa vào bài giảng để bài học thêm phong phú, sâu sắc, bảo đảm tính cập
nhật thông tin hiện đại những kiến thức lịch sử cần truyền thụ cho học sinh.
( những thông tin từ nguồn tin cậy, đã được lựa chọn kĩ càng, chứ không mang
tính chất tung thông tin, kích thích tính hiếu kì, thỏa mãn trí tò mò, đi vào những
tình tiết tầm thường, vụn vặt làm học sinh khó tiếp nhận bài học và lệch trọng
tâm mục tiêu đã đề ra)

9


Có thể kết hợp sử dụng các phương tiện thiết bị, tranh ảnh để giải quyết
phần quan trọng và khó khăn này. Bởi kênh hình không những làm cho vấn đề

sinh động, hấp dẫn mà còn là nguồn cung cấp thông tin quan trọng.
b. Giúp học sinh xây dựng phương pháp học tập đúng.
Thời gian 1 tiết trên lớp có hạn, giáo viên không thể chuyển tải hết kiến
thức nên không được đưa vào bài giảng. Bởi thế giáo viên phải biết hướng dẫn
cho học sinh phương pháp kết hợp: Nghe, nhìn, ghi chép, coi sách, trao đổi và
phát biểu ý kiến, không chỉ biết học ở bài giảng mà còn phải biết tự học ở SGK.
Không chỉ biết học mà phải biết hỏi, biết thắc mắc, trao đổi không phải chỉ với
bạn bè mà với cả thầy cô. Phải tuân thủ nguyên tắc: Chỗ nào giáo viên có thể nói
lên được thì giáo viên phải yên lặng”. Tránh tình trạng bắt học sinh nhớ chứ
không làm cho học sinh hiểu Có như vậy mới giải quyết được nhiều vấn đề đặt
ra: Tập thể lớp đều được tiếp nhận vốn kiến thức cốt lõi, cơ bản như nhau và
theo cùng định hướng, ngoài ra, việc học sinh tích cực chủ động học tập, tập
trung nghe giảng, đọc kĩ SGK với bài giảng, cùng các tài liệu khác, giúp các em
có điều kiện mở rộng kiến thức và hiểu sâu sắc vấn đề hơn. Điều này dẫn nhanh
tới sự phân hóa về trình độ nhận thức của các em, qua đó phát hiện và có biện
pháp bồi dưỡng và giúp đỡ kịp thời. Khi học bài, cần có sự đối chiếu giữa tập
ghi và SGK, cố gắng tái hiện bài giảng của thầy trên lớp để củng cố kiến thức
một cách vững chắc. Có thể giải quyết độc lập các câu hỏi và bài tập do thầy và
SGK đưa ra.
3. Sắp xếp lại giàn ý, lựa chọn kiến thức làm nổi bật trọng tâm.
Ví dụ bài 17 “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945
đến trước ngày 19-12-1946”
Đây là vấn đề không thể tùy tiện, nhưng xuất phát từ thực tế tình hình, có
thể sắp xếp trật tự vấn đề được nêu ra để học sinh dễ tiếp thu hơn.
10


Dàn ý SGK

Dàn ý đề xuất


I. Tình hình nước ta sau cách mạng I. Tình hình nước ta sau cách mạng
tháng Tám năm 1945.

tháng Tám năm 1945.

(Không có phần 1, 2 nhỏ)

1, Thuận lợi

II. Bước đầu xây dựng chính quyền 2, Khó khăn
Cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn II. Chủ trương, biện pháp giải quyết
dốt và khó khăn về tài chính.
khó khăn trước mắt.
1, Xây dựng chính quền Cách mạng.

1, Diệt giặc đói.

2, Giải quyết nạn đói

2, Diệt giặc dốt.

3, Giải quyết nạn dốt

3, Giải quyết khó khăn về tài chính

4, Giải quyết khó khăn về tài chính

4, Củng cố chính quyền Cách mạng


III. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội III/ Đấu tranh với giặc ngoại xâm và
phản, bảo vệ chính quyền Cách mạng. nội phản.
1, Kháng chiến chống thực dân Pháp 1, Đối với quân Trung Hoa Dân quốc
trở lại xâm lược ở Nam bộ.
và tay sai của chúng.
2, Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân 2, Đối với thực dân Pháp
quốc và bọn phản Cách mạng ở miền
a/ Thời kì Pháp nổ súng
Bắc
b/ Thời kì Pháp ký với Trung Hoa Dân
3, Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy quân
quốc.
Trung Hoa Dân quốc ra khỏi nước ta.

Mục (I), chúng tôi tách thành 2 phần: Thuận lợi và Khó khăn.
Thuận lợi nêu trước, khó khăn nêu sau, giúp học sinh nhận thấy, Cách mạng
thành công, chúng ta đã tiếp thu một di sản mục nát do thực dân – phong kiến
11


để lại, tình hình lúc bấy giờ đặc biệt khó khăn nghiêm trọng, cùng một lúc kẻ thù
của độc lập dân tộc tấn công từ nhiều phía, có như vậy học sinh mới thấy hết
được năng lực của Đảng và Bác Hồ đạt đến: nghệ thuật lãnh đạo mẫu mực, từ đó
mà các em có thái độ tin tưởng triệt để vào tương lai, tiền đồ của đất nước.
Mục (II) Sở dĩ chúng tôi đưa vấn đề giải quyết thứ tự trước sau khác với
sách giáo khoa, là vì: Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày
03/9/1945 đã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách: Chống đói, chống mù chữ, củng
cố chính quyền.
Để dạy tốt bài này ngoài việc xắp xếp lại dàn ý như đã nêu chúng tôi còn
cho học sinh coi trước những nội dung thuộc về “cơ chế sư phạm”.

- Bài đọc thêm:
+ Lễ ký Hiệp định sơ bộ (ngày 6/3/1946) và phụ khoản đính kèm theo Hiệpđịnh.
+ Thư của Hồ Chủ tịch gửi đồng bào Nam bộ trước khi sang Pháp đàm phán.
- Tài liệu tham khảo.
+ Danh sách Chính phủ lâm thời (quốc dân Đại hội Tân trào ngày 16/8/1945)
+ Danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến (quốc hội thông qua ngày
2/3/1946)
- Hình ảnh minh họa.
+ Ảnh nhân dân Nam bộ vót gậy tầm vông đánh Pháp
+ Ảnh Lê Văn Tám làm bó đuốc đốt kho xăng của giặc
+ Ảnh đoàn quân “nam tiến” lên đường vào Nam chiến đấu
+ Ảnh nhân dân Nam bộ quyên góp gạo cứu giúp đồng bào bị đói Bắc bộ
(10/1945)
+ Lớp bình dân học vụ.
12


- Nếu còn thời gian có thể kể một số câu chuyện về giai thoại học bổ túc, về
buổi làm việc của Hồ Chủ tịch với đại diện quân Trung Hoa Dân quốc, làm tăng
hưng phấn, thích thú cho các em.
4/ Công thức hoá – học sinh dễ nắm nội dung cơ bản của bài, chương.
Ba chiến lược của Mĩ ở miền Nam Việt Nam có thể viết thành công thức, từ đó
các em diễn đạt bằng ngôn ngữ hiểu biết của mình, vừa nắm chắc, vừa tránh sự
nhầm lẫn.
CTĐB = L2nguỵ + ( cố vấn + vk +ptct + usd) Mĩ.
CTCB

= L2 nguỵ + ( cố vấn + lính cđ + quân đồng minh + vk +ptct + usd) Mĩ.

VNHCT = L2 nguỵ + ( cố vấn + lính cđ + quân đồng minh + vk +ptct +usd) Mĩ.

Điểm khác nhau cơ bản của CTCB với CTĐB là có lính chiến đấu ( cđ)
Mĩ và quân đồng minh Mĩ tham gia. Bộ mặt xâm lược lộ rõ.Phạm vi chiến tranh
ra cả Miền Bắc.
VNH lính nguỵ tăng lên, lính chiến đấu Mĩ và đồng minh Mĩ rút dần, nghĩa là
tổng số binh lính trên chiến trường của Mĩ - Nguỵ nhiều hơn các chiến lược
chiến tranh trước đó, phạm vi chiến tranh không những ở Việt Nam mà ra cảc
Đông Dương.
Với một số biện pháp như kể trên , chúng tôi thấy học sinh có sự chuyển
biến hơn trong nhận thức cũng như trong thực hành, kết quả học tập được nâng
lên rõ rệt.
Từ chỗ nắm được kiến thức cơ bản từng bài, từng chương thông qua việc học
tập trên lớp và tự học ở nhà mà khi ôn luyện kiểm tra, thi cử. Áp lực đối với các
em sẽ được giảm bớt. Vì vậy việc ôn luyện, hệ thống lại kiến thức nhẹ nhàng và
hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó kết quả bài làm được cải thiện.
5/ Tích hợp một số kiến thức, kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan, chuyện
kể, làm cho tiết học sinh động và hấp dẫn hơn.
13


Tuy nhiên cũng cần lưu ý, chuyện kể, tranh ảnh phải phù hợp với từng
loại bài; chẳng hạn, như loại bài về khởi nghĩa, chiến tranh cách mạng có thể
cho học sinh những thông tin sau:
Công dân Hi Lạp cổ đại đã phát biểu khi đất nước có chiến tranh: “ Hỡi những
người qua đường! Anh hãy đến và hãy báo tin cho các công dân La – xê – đô –
môn rằng: trung thành với những lời dạy của họ, tại đây chúng tôi đã hiến thân
mình nhẹ như lông hồng”. Như vậy không cần miêu tả chiến tranh chém giết,
khủng khiếp gây xúc động mạnh, mà qua đó thông qua thái độ của người trong
chiến trận để thấy lòng yêu nước vô hạn của những người lính khi cần sẵn sàng
hi sinh vì tổ quốc thân yêu của mình, một đất nước mà học sinh nhạy cảm sẽ
thấy tuyệt vời ở chỗ: Đất nước họ đã tôn trọng, và bảo vệ quyền tự do của con

người - quyền công dân – Một xã hội văn minh đã được hình thành từ buổi bình
minh của lịch sử.
Hay thanh niên thành Aten có lời thề trước khi vào quân đội…” Tôi sẽ chiến
đấu….sẽ không để lại sau lưng mình một Tổ quốc suy nhược mà là một Tổ quốc
hùng cường và mạnh mẽ. Và chính bản thân tôi cùng với tất cả mọi người, sẽ
tuân thủ mọi luật pháp hiện đang có hiệu lực cũng như mọi luật pháp sẽ có trong
tương lai”.
Hoặc khi dạy về chiến tranh thế giới thứ hai, giáo viên có thể đọc cho học sinh
một đoạn về sư đoàn 24, được mệnh danh là sư đoàn thép:
Tên: 24; Họ: Thép; Chuyên môn: Bộ binh.
Năn sinh: 1918; Người sinh: Cách mạng tháng Mười.
Nơi sinh: Trên sông Vôn – ga gần Xiêm –biếc – xư – cơ.
Xuất thân: Thợ thuyền và dân cày 2 tỉnh Xiêm –biếc – xư – cơ và Xa – ma – ra.
Học lực : Tốt nghiệp trường đại học nội chiến.

14


Đã được thưởng những gì? 10 lá cờ đỏ vinh dự của Ban Chấp Hành Trung Ương
toàn Nga, 20 lá cờ của Xiêm –biếc – xư – cơ và Xa – ma – ra. Gần 1000 tấm
huân chương cờ đỏ của Ủy ban quân sự cách mạng.
Lí do tặng thưởng: vì đã tham gia giải phóng các tỉnh Pơ-van – giơ, Ô –
ren – bua, Xiêm –biếc – xư – cơ , Xa – ma – ra và hơn 100 thành phố khỏi tay
những kẻ thù của chính quyền Xô Viết.
Ai có thể chứng thưc những lời khai trên đây? Giai cấp vô sản ở Xiêm –biếc –
xư – cơ , Xa – ma – ra, Ô – ren – bua và các tên tướng Nga Hoàng Cô – xắc, Đu
– tốp, Đê – nhi – kin”.
Mỗi loại bài về kinh tế – xã hội, hay về văn hóa, chúng ta cố gắng đưa một số
mẫu chuyện, hình ảnh để làm sinh động thêm bài học. Ví dụ, như khi miêu tả về
sự chuẩn bị cho chiến dịch lịch sử Điện Biên phủ, chung ta đọc cho các em một

đoạn trong bài hò kéo pháo, hay :
“ Dốc Pha Đin chị gánh , anh thồ
Đèo Lủng Lô anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sờn lòng không tiếc tuổi xanh…”
Học sinh sẽ thấy rất thú vị, nét độc đáo , lãng mạn chiến trường rất Việt Nam!
Hoặc khi miêu tả về sự chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975, ta có thể cho các em thấy khí thế hào hùng của cả một dân tộc cho trận
chung kết : “ Cả Việt Nam tiến công, cả miền Nam nổi dậy” . Sự chuẩn bị trên
20 năm , giờ đây như một dòng thác vĩ đại cuốn sạch quân thù. .v.v
Trên đây là những kinh ghiệm bản thân rút ra từ thực tiễn giảng dạy ở trường
THPT, với cách tiến hành đó, chúng tôi nhận thấy chất lượng bộ môn tăng lên.
- Kết quả cụ thể:
15


+ Thông qua đánh giá thái độ học tập: Tiết lịch sử dạy vào tiết thứ năm trong
buổi học, nhưng cac em cảm thấy vẫn hào hứng chờ đợi để được học Lịch sử!
+ Điểm số trong các bài kiểm tra được nâng lên rõ rệt, tỉ lệ điểm khá – giỏi cao
hơn so với trước đây, trong khi số học sinh yếu kém cũng giảm đáng kể .

Năm học 2016 2017
Năm học 2017 2018

Soá löôïngh/s

Khá - Giỏi

Trung bình


Yếu - Kém

216 hoïc sinh

25%

57%

18%

234 hoïc sinh

37%

55%

8%

Điều lí thú nữa là các em học sinh lớp nâng cao các môn tự nhiên cũng đã rất
hứng thú khi vào tiết học lịch sử.

PHẦN KẾT LUẬN

16


Như vậy, theo chúng tôi, muốn nâng chất lượng bộ môn, người thầy giáo
dạy sử cần phải biết tự ái, để nổ lực phấn đấu, nâng cao trình độ chuyên môn –
nghiệp vụ, tìm tòi và sáng tạo áp dụng vào thực tế hoàn cảnh giảng dạy cụ thể,
trước hết tạo ra được sự niềm tin và hứng thú của các em học sinh. Bài học được

rút ra là phải liên tục “ giữ lửa” cả đối với thầy và trò.
Toàn bộ nội dung trên đây là thiển ý của chúng tôi, những điều đã được
rút ra từ thực tiễn giảng dạy. Củng là lương tâm, tình cảm, trách nhiệm của một
người đứng trên mục giảng. Phần trình bày chắc chắn còn nhiều khiếm khuyết
về lý luận và thực tiễn cả về nội dung và cách diễn đạt, trình bày. Chúng tôi
chân thành mong muốn sự góp ý của các nhà quản lý chuyên môn, các bậc
trưởng lão trong làng” Sử”, các bạn đồng nghiệp đồng môn. Chúng tôi xin được
trân trọng ghi nhận, tiếp thu ý kiến để thực hiện tốt tiêu chí mà ngành giáo dục
Tỉnh nhà nói riêng, cả nước nói chung đã đề ra.

PHẦN KIẾN NGHỊ
17


1/ Đối với trường THPT cần tổ chức được nhiều
loại hình phong phú, đơn giản dễ thực hiện, thu hút
được nhiều học sinh tham gia, có phương án tích hợp,
lồng ghép nhiều hoạt động, nhiều bộ môn trong “ Câu
lạc bộ” và được duy trì liên tục, tạo thành một nét sinh
hoạt đậm chất truyền thống của nhà trường. Trong
các dòp lễ lớn cũng nên mời một số các vò lão
thành cách mạng” người thật, việc thật” đến nói
chuyện, tạo không khí lòch sử và có tác dụng giáo
dục đạo đức cao.
2/ Đối với các cấp quản lý giáo dục .
- Sở GD& ĐT tạo điều kiện về cơ sở vật chất – kó thuật
để các trường tiến hành hoạt động thuận lợi, thu được
kết quả cao hơn; Tở chức thường xun các c̣c hợi thảo, có giải
thưởng xứng đáng cho các tham ḷn có giá trị.
- Bợ GD&ĐT nên khoán chương trình và tăng 1 tiết cho khới 12, có

như vậy mới thêm hành trang hiểu biết lịch sử trước khi bước vào mợi trường
mới.
Những kiến thức lòch sử cần thiết khác có thể trình
bày trong tài liệu đọc thêm, sách giáo khoa nên tăng
kênh hình nhiều hơn.
Xin chân thành cảm ơn và gửi lời chào đoàn kết và xây dựng.

18


Xác nhận của BGH

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan SKKN này là của tôi
làm, không sao chép với bất cứ hình
thức nào.
Người viết SKKN
PHẠM THỊ THỦY
MUÏC LUÏC

PHẦN MỞ ĐẦU.
I. Bối cảnh của đê tài ..........................................................Trang 1
II. Lí do chọn đề tài..............................................................Trang 1
III.Phạm vi và đối tượng của đề tài......................................Trang 2
IV. Mục đích của đề tài.........................................................Trang 2
PHẦN NỘI DUNG

1/

I.


Cơ sở lí luận của đề tài.........................................Trang 3

II.

Thực trạng vấn đề.................................................Trang 3

III.

Các biện pháp tiến hành.......................................Trang 6

Một số hoạt động khơi dậy ý thức “dân ta phải biết sử

ta”……………………………………………………….…Trang 8
2/ Soạn bài…………………………………………………..Trang 9
3. Sắp xếp lại giàn ý, lựa chọn kiến thức làm nổi bật trọng tâm………….
…………………………………………….…Trang 11
4/ Công thức hoá – học sinh dễ nắm nội dung cơ bản của bài,
chương…………………………………………………..….Trang 14
5/ Tích hợp một số kiến thức, kết hợp sử dụng đồ dùng trực quan, chuyện kể,
làm cho tiết học sinh động và hấp dẫn hơn……….................Trang 15
19


PHẦN KẾT ḶN.................................................................Trang 17
PHẦN KIẾN NGHỊ …………………………………..….....Trang 18

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1/ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ- Tủ sách đại học sư
phạm – NXB Giáo dục – đào tạo 1980.

2/ GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP LỊCH SỬ – NXB Giáo dục
– đào tạo 1983.
3/ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CHỦ ĐỘNG SÁNG TẠO – NXB
Giáo dục - đào tạo 1980.
4/ TÀI LIỆU HƯỚNG DẪN GIẢNG DẠY LỊCH SỬ DÙNG
TRONG NHÀ TRƯỜNG PTTH HOẰNG HĨA
5/ SÁCH GIÁO KHOA NGOÀI GIỜ LÊN LỚP – KHỐI 10
NĂM 2010 – 2011.
6/ Mợt sớ tờ báo: Giáo Dục và Thời Đại, T̉i trẻ, t̉i trẻ Nét, Dân trí,.v.v

20



×