Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số kinh nghiệm lồng ghép lịch sử vùng đất tĩnh gia trong dạy học khóa trình lịch sử việt nam từ thế kỷ x đến nửa đầu thế kỷ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT TĨNH GIA 3

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ KINH NGHIỆM LỒNG GHÉP LỊCH SỬ VÙNG
ĐẤT TĨNH GIA TRONG DẠY HỌC KHÓA TRÌNH LỊCH SỬ
VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỶ XIX
(CHƯƠNG TRÌNH LỚP 10), NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HỌC TẬP LỊCH SỬ CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG
THPT TĨNH GIA 3

Người thực hiện: Phạm Thị Tiệp
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch Sử

THANH HÓA NĂM 2018
1


Mục lục
Nội dung
Trang
1. Mở đầu.................................................................................................
1
1.1. Lý do chọn đề tài................................................................................
1
1.2. Mục đích nghiên cứu..........................................................................
1
1.3.


Đối
tượng
nghiên
1
cứu.........................................................................
1.4.
Phương
pháp
nghiên
2
cứu....................................................................
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.......................................................
2
2.1. Cơ sở lý luận......................................................................................
2
2.2. Thực trạng của việc lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy
học lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX ở trường
2
THPT Tĩnh Gia 3......................................................................................
2.3. Một số kinh nghiệm lồng ghép lịch sử địa phương Tĩnh Gia trong
dạy học lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XIX ( chương
3
trình lớp 10 ), ở trường THPT Tĩnh Gia 3................................................
2.3.1. Tổng quan các bài, mục lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa
3
đầu thế kỷ XIX được lồng ghép................................................................
2.3.2. Một số yêu cầu khi lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong
4
dạy học lịch sử Việt Nam..........................................................................
2.3.3. Một số kinh nghiệm lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong

4
dạy học lịch sử ở trường THPT Tĩnh Gia 3
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.................................................
13
3. Kết luận kiến nghị...............................................................................
14
Tài
liệu
tham
16
khảo.....................................................................................
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm.............................................................
16

2


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Theo đồng chí Lê Duẩn “Mục đích của việc học tập lịch sử ở trường phổ
thông là phải khơi dậy được lòng tự hào của dân tộc Việt Nam, của con người
Việt Nam, làm cho học sinh hiểu được truyền thống, ý chí tự lập, tự cường của
dân tộc là phải khắc vào trí nhớ của học sinh những tình cảm cách mạng, ý chí
dời non lấp biển và những thành tựu huy hoàng của nhân dân ta trong lao động
sản xuất, trong sự nghiệp xây dựng cuộc đời tự do, độc lập của mình, chứ không
phải khắc vào đó những năm tháng, những sự kiện một bài lịch sử...” [2]. Thực
tế trong nhiều năm nay chất lượng bộ môn lịch sử có nhiều biểu hiện giảm sút.
Điều đó xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, một phần do phương pháp của giáo
viên chưa phù hợp, mặt khác do ảnh hưởng khách quan và suy nghĩ chủ quan
của nhiều học sinh.

Để thực hiện mục đích của việc học tập lịch sử ở trường phổ thông như
đồng chí Lê Duẩn đã đề cập, là một giáo viên bộ môn lịch sử tôi thường xuyên
đổi mới phương pháp dạy học như tăng cường sử dụng các phương tiện dạy học
trực quan, sử dụng kiến thức liên môn, lồng ghép lịch sử Thanh Hóa và lịch sử
vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử dân tộc. Qua đó không những giúp học
sinh nắm vững lịch sử dân tộc mà còn giúp học sinh học sinh biết được Tĩnh Gia
một vùng đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, nhân dân nơi đây luôn có
ý thức xây dựng nền kinh tế phát triển, nền văn hóa phong phú đa dạng. Từ đó
bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với quê hương, làng xóm nơi các em sinh ra
và lớn lên.
Tuy nhiên, việc sử dụng tài liệu lịch sử địa phương đặc biệt là lịch sử địa
phương Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử còn gặp khó khăn. Đã có một số bài viết
về lịch sử địa phương Tĩnh Gia, ở mức độ, khía cạnh khác nhau, nhưng chưa đi
sâu bàn về lồng ghép kiến thức lịch sử địa phương ở mỗi bài, vì thế mà trong
quá trình dạy học vẫn còn có hạn chế.
Từ thực tế trên, cùng với việc thực hiện nghiêm túc tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học trong nhà trường, tôi lựa chọn đề tài “Một số kinh
nghiệm lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học khóa trình lịch sử
Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX ( chương trình lớp 10 ), nhằm
nâng cao hiệu quả học tập lịch sử cho học sinh ở trường THPT Tĩnh Gia 3”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Góp phần nâng cao hiểu biết, nhận thức của học sinh về lịch sử vùng đất
Tĩnh Gia. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu, lòng tự hào về truyền thống đấu
tranh, bảo vệ quê hương đất nước, cũng như phát triển kinh tế, văn hóa. Từ đó
nâng cao ý thức, ý chí học tập, rèn luyện vì ngày mai lập thân, lập nghiệp, và
xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh.
Giúp đồng nghiệp trong trường và địa bàn huyện Tĩnh Gia có được tư liệu
lồng ghép vào các đơn vị kiến thức cụ thể để áp dụng vào quá trình giảng dạy.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3



Đối tượng nghiên cứu là các tư liệu lịch sử địa phương Tĩnh Gia được lồng
ghép vào các đơn vị kiến thức lịch sử Việt Nam ở khối lớp 10 trường THPT
Tĩnh Gia 3. Các đồng nghiệp dạy lịch sử trên địa bàn huyện tham khảo, vận
dụng.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê: Tìm hiểu địa chí Tĩnh Gia, các tài liệu có liên
quan đến lịch sử địa phương Tĩnh Gia như Tĩnh Gia Quê hương – Đất nước –
Con người, lịch sử địa phương Thanh Hóa, các tài liệu trên mạng internet.
Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 10 [5].
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Điều tra khảo sát học sinh bằng
phiếu trắc nghiệm về lịch sử địa phương; phỏng vấn, trao đổi với các giáo viên
bộ môn lịch sử.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Lịch sử địa phương là những gì diễn ra trong quá khứ của một đơn vị hành
chính (xã, huyện, tỉnh), như quá trình hình thành, xây dựng, bảo vệ, chống giặc
ngoại xâm, các anh hùng dân tộc tại địa phương đó. Lịch sử địa phương có quan
hệ mật thiết với lịch sử dân tộc. Do đó việc dạy học lịch sử dân tộc và lịch sử địa
phương sẽ có tác động qua lại lẫn nhau. “Những chất liệu lịch sử địa phương sẽ
làm cho bài học lịch sử dân tộc, thậm chí lịch sử thế giới thêm sống động, cụ thể
và thực tế hơn. Tạo nên những cảm xúc thật cho học sinh, hoặc thầy cô trong
mỗi bài học lịch sử” [2].
Việc lồng ghép lịch sử địa phương trong lịch sử dân tộc có tác động mạnh
mẽ đến tình cảm, tư tưởng, đạo đức, lối sống của học sinh. “Mỗi sự kiện lịch sử
địa phương đều gắn liền với tên đất, tên người, gắn với làng xóm, phố phường
nơi học sinh đang sinh sống” [4]. Qua đó các em có quyền tự hào về những gì
mà cha, ông mình đã xây dựng. Có ý thức bảo vệ giữ gìn di sản văn hóa, di tích
lịch sử của quê hương. Không có hình thức giáo dục về ý thức truyền thống quê

hương nào tốt bằng giáo dục qua lịch sử địa phương.
Mặt khác lồng ghép lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử dân tộc giúp
học sinh có sự hình dung đa dạng về quá khứ, tạo biểu tượng sinh động, chính
xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, thấy được mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng, đồng thời học sinh biết được lịch sử địa phương ngay trong bài lịch sử
dân tộc, chứ không chỉ giới hạn ở một hay hai tiết lịch sử địa phương theo phân
phối chương trình. Từ đó giúp học sinh hào hứng, lĩnh hội kiến thức, góp phần
phát triển tư duy.
2.2. Thực trạng của việc lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX ở trường THPT Tĩnh
Gia 3.
Để biết được thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm,
tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát các giáo viên dạy lịch sử và học sinh các các
lớp theo ban khoa học xã hội của nhà trường. Kết quả điều tra cho thấy:
Về phía giáo viên: Tất cả giáo viên đều đồng ý, việc lồng ghép lịch sử vùng
đất Tĩnh Gia vào quá trình dạy học lịch sử có ý nghĩa quan trọng và cần thiết.
Bởi vì thời lượng dành cho lịch sử địa phương còn ít: Khối 10 một tiết, khối 11
4


một tiết, khối 12 hai tiết. Ở một số tiết dạy học lịch sử ở địa phương chỉ tìm hiểu
được một khía cạnh của lịch sử đại phương, trong khi khối lượng kiến thức lịch
sử địa phương rất phong phú và đa dạng. Chương trình lịch sử địa phương
không nằm trong nội dung kiểm tra đánh giá. Nguồn tài liệu lịch sử địa phương
Tĩnh Gia không có sẵn trong thư viện nhà trường, đồng thời khối lượng kiến
thức lịch sử dân tộc trong các bài dạy rất nhiều.
Về phía học sinh: Học sinh rất hứng thú, chăm chú lắng nghe khi giáo viên
lồng ghép các tư liệu lịch sử địa phương vào trong các tiết dạy vì những địa
danh, nhân vật lịch sử đó có tại ngay trên mảnh đất quê hương học sinh. Nhưng
khi đi hỏi sâu vào kiến thức lịch sử địa phương Tĩnh Gia thì hiểu biết của học

sinh rất hạn chế. Ví dụ khi hỏi về nhân vật Đào Duy Từ thì học sinh chỉ biết là
ông quê ở xã Nguyên Bình – Tĩnh Gia, đóng góp của ông như thế nào thì học
sinh còn hời hợt, không biết.
Từ thực trạng trên, tôi đã thực hiện các hình thức để giảng dạy lịch sử Tĩnh
Gia. Trong đó tôi chú trọng lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia vào quá trình
dạy học lịch sử bằng sự thiết thực và hiệu quả của nó. Để qua từng tiết dạy, bồi
dưỡng cho học sinh kiến thức về lịch sử truyền thống, văn hóa địa phương. Từ
đó tạo động lực cho học sinh tu dưỡng phẩm chất đạo đức, năng lực để xây dựng
quê hương Tĩnh Gia ngày càng giàu đẹp.
2.3. Một số kinh nghiệm lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học
lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX (chương trình lớp 10),
ở trường THPT Tĩnh Gia 3.
2.3.1. Tổng quan các bài, mục lịch sử Việt Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ
XIX được lồng ghép.
STT
Tên bài
Mục được lồng ghép
Bài 17: Quá trình hình thành và
II-Phát triển và hoàn chỉnh nhà
1 phát triển nhà nước phong kiến (Từ nước phong kiến ở các thế kỉ XI –
thế kỉ X đến thế kỉ XV)
XV.
Bài 18: Công cuộc xây dựng và
2 phát triển kinh tế trong các thế kỉ
1. Mở rộng, phát triển nông nghiệp.
X–XV.
III-Phong trào đấu tranh chống
Bài 19: Những cuộc kháng chiến
3
quân xâm lược Minh và khởi nghĩa

chống ngoại xâm thế kỉ X-XV.
Lam Sơn.
Bài 20: Xây dựng và phát triển văn
4
I-Tư tưởng, tôn giáo.
hóa dân tộc trong các thế kỉ X-XV.
Bài 22: Tình hình kinh tế các thế kỉ
5
2. Sự phát triển thủ công nghiệp.
XVI-XVIII.
Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự
II.2. Kháng chiến chống Thanh
6 nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ (1789).
tổ quốc cuối thế kỉ XVIII
Bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế
7
I-Tư tưởng, tôn giáo.
kỉ XVI-XVIII.
8 Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, 1. Xây dựng và củng cố bộ máy nhà
5


văn hóa dưới Triều Nguyễn (Nửa
nước-chính sách ngoại giao.
đầu thế kỉ XIX)
2.3.2. Một số yêu cầu khi lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học
lịch sử Việt Nam.
Giáo viên phải nghiên cứu nội dung bài học, tìm hiểu nguồn tài liệu lịch sử
địa phương Tĩnh Gia, để xác định xem bài dạy nào có nội dung lồng ghép, lồng
ghép như thế nào cho hiệu quả, phù hợp với bài dạy.

Giáo viên phải chọn lọc, vận dụng hình ảnh, tư liệu liên quan đến lịch sử
vùng đất Tĩnh Gia vào bài giảng. Trong quá trình giảng dạy phải lưu ý tới thời
gian phân bố trong tiết học để không làm cho tiết học lịch sử dân tộc trở thành
tiết học kể chuyện lịch sử địa phương.
Khi lồng ghép lịch sử địa phương Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử dân tộc có
thể thông qua nhiều hình thức như: Sử dụng hình ảnh, tư liệu, phim tư liệu, kể
chuyện để làm sinh động hơn cho bài giảng. Cung cấp kiến thức lịch sử địa
phương gắn với các mốc lịch sử dân tộc để giáo dục truyền thống quê hương đối
với học sinh. Giáo viên có thể linh hoạt lồng ghép ở các mục, phần tổng kết, bài
tập về nhà.
2.3.3.Một số kinh nghiệp lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học
lịch sử ở trường THPT Tĩnh Gia 3.
Thứ nhất: Lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử để
giúp học sinh biết được những đóng góp của nhân dân nơi đây, trong sự nghiệp
đấu tranh bảo vệ tổ quốc thời phong kiến.
- Khi dạy bài “Bài 19: Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thế kỉ XXV”, mục III-Phong trào đấu tranh chống quân xâm lược Minh và khởi nghĩa
Lam Sơn.
Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, tôi đã liên hệ những
đóng góp của nhân dân Tĩnh Gia góp phần cùng với quân dân cả nước đánh tan
giặc Minh “mở ra nền thái bình muôn thưở”, một thời kỳ “phục hưng” phát triển
rực rỡ của quốc gia Đại Việt.
Tĩnh Gia góp công, góp của vào khởi nghĩa Lam Sơn, nổi bật như. Nghề
làm muối đã có từ lâu đời ở vùng ven biển Tĩnh Gia. Khi xâm lược nước ta nhà
Minh đã có chính sách độc quyền khai thác đối với nghề này “người đi đường
chỉ được đem ba bát muối và một lọ nước mắm” [1]. Vì thế đã làm cho đời sống
của nhân dân Tĩnh Gia đã cơ cực lại càng trở nên khốn khó hơn. Nhưng trong
cuộc khởi nghĩa vĩ đại này, người dân vùng Tĩnh Gia cùng với Nguyễn Xí người
Nghệ An vượt qua nhiều khó khăn trước sự lùng sục, phong tỏa của quân thù để
vận chuyển muối cho nghĩa quân Lam Sơn, trong những năm chiến đấu gian khổ
ở Thanh Hóa.

Tĩnh Gia có những người con ưu tú tham gia khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lôi
và Lê Chiến tên thật là Trương Lôi, Trương Chiến quê ở Hải Hòa, Tinh Gia. Khi
Lê Lợi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống quân Minh hai ông tham dự hội thề
Lũng Nhai, và tham gia khởi nghĩa Lam Sơn đã góp nhiều công sức, lập nhiều
chiến công, đều nắm giữ những chức tước quan trọng trong cuộc đấu tranh dành
độc lập của dân tộc. Do hai ông có nhiều công lớn nên được Vua ban quốc tính
đổi thành Lê Lôi, Lê Chiến. Hiện nay đền thờ của hai ông được tọa lạc ở thôn
6


Quan Nội-xã Hải Hòa - Tĩnh Gia, được nhà nước công nhận là di tích lịch sử
văn hóa. Hàng năm người dân tổ chức tế lễ vào ngày 7/1 âm lịch.

Hình 01. Đền thờ khai quốc công thần
Trương Lôi, Trương Chiến

Ngoài Lê Lôi, Lê Chiến trên vùng đất Tĩnh Gia còn có Lê Nhân Trung tức
Lương Văn – vị khai quốc công thần triều Lê (thế kỉ XV) thuộc làng Tào Sơn –
Thanh Thủy – Tĩnh Gia. Ông là người ra ứng tuyển trúng tam trường. Nhưng do
thế nước nguy nan bèn bỏ bút theo Lam Sơn động chủ Lê Thái Tổ có nhiều công
lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh nên được Vua Lê Thái Tổ
ban quốc tính, tên thụy là Nhân Trung. Để giữ niềm tự hào này mà các thế hệ
con cháu về sau vẫn duy trì tên gọi mà Vua ban và dòng họ Lương từ thế kỉ XV
đến nay vẫn mang họ Lê.
- Khi dạy “Bài 23: Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước,
bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII”, mục II.2. Kháng chiến chống Thanh (1789).
Ở mục này sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới cuộc
kháng chiến chống quân Thanh. Tôi lồng ghép hình ảnh và tư liệu lịch sử vùng
đất Tĩnh Gia để hướng dẫn tiếp cho học sinh như sau: Do thế giặc mạnh lực
lượng của quân Tây Sơn đóng ở kinh thành tạm rút về đóng giữ ở Tam Điệp –

Biện Sơn và xây dựng tuyến phòng thủ chống giặc. Đây là kế sách của Ngô Thì
Nhậm “Nghĩ cho cùng thì chỉ có cách này, sớm truyền cho thủy quân chở đầy
các thuyền lương, thuận gió, giương buồm ra thẳng cửa biển vùng Biện Sơn
(Thanh Hóa) mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới giong trống lên đường lùi
về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thủy bộ liên kết với nhau, giữ lấy chỗ hiểm yếu
rồi cho người chạy giấy về báo
với Chúa công” [1].
Biện Sơn (Nghi Sơn) có
diện tích gần 4 km2, bề ngang
rộng nhất khoảng 1,5 km, có
nhiều núi ngọn cao, ngọn cao
nhất 162m. Đây không chỉ là
vùng có giá trị cao về kinh tế
biển mà còn có vị trí chiến
lược quân sự quan trọng trong
Hình 02. Đảo Nghi Sơn - Tĩnh Gia – Thanh Hóa

7


các thời kỳ lịch sử. Nếu Tam
Điệp là điểm chốt giữ đường bộ, thì Biện Sơn là điểm chốt giữ đường thủy. Cuối
năm 1788 đầu năm 1789, cả vùng Tĩnh Gia lại sôi động, nhộn nhịp đón đoàn
quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy rầm rộ tiến ra bắc, tiêu diệt quân Thanh.
Vùng Biện Sơn – Cửa Bạng (Du Xuyên) – Hà Nẫm trở thành nơi tập kết đại
thủy quân Tây Sơn. Nhân dân trong tuyến phòng thủ này cũng như nhân dân
Tĩnh Gia còn giúp Vua trong việc luyện tập thủy binh, hăng hái lên đường giết
giặc. Vì vậy mà nhân dân nơi đây rất tự hào về những đóng góp của mình vào
thắng lợi năm kỉ Dậu (1789) của Quang Trung – Nguyến Huệ đập tan 29 vạn
quân Thanh xâm lược.

Sau khi dành thắng lợi, để ghi công của nhân dân nơi đây Vua đã bãi miễn
thuế Yến Sào cống vật có từ thời Lê Trịnh khiến nhiều người bỏ mạng. Cảm tạ
công đức của nhà Vua đối với địa phương và với đất nước, nhân dân ở Biện Sơn
và vùng Du Xuyên xã Hải Thanh đã lập đền thờ và hàng năm vào ngày 5 tháng 1
âm lịch lễ hội Quang Trung được tổ chức. Là lễ hội lớn nhất của Tĩnh Gia nên
nhân dân ở đây nhắc nhở.
“Mùng năm mở hội Quang Trung
Muôn người nô nức khắp vùng về đây
Dấu xưa ghi đức cao dày
Anh hùng áo vải dựng xây cơ đồ” [1].

Hình 03. Lễ hội Quang Trung, xã Hải Thanh
Tĩnh Gia – Thanh Hóa

Hình 04. Đền thờ Quang Trung, xã Hải Thanh
Tĩnh Gia – Thanh Hóa

Thứ hai: Lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia vào dạy học lịch sử để giúp
học sinh biết được tình hình kinh tế Tĩnh Gia thời phong kiến.
- Khi dạy “Bài 18: Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong các thế
kỉ X–XV”, mục 1. Mở rộng, phát triển nông nghiệp.
Ở mục này, trước hết tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu những việc làm của
nhà nước và nhân dân giúp cho nông nghiệp được mở rộng, phát triển. Sau đó
tôi sử dụng tư liệu và hình ảnh để cùng các em chia sẻ một số thông tin về nông
nghiệp Tĩnh Gia trong thời kỳ này.
Dưới các triều phong kiến Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ, Tĩnh Gia luôn
được xác định là “phên dậu” phía nam của quốc gia. Vì thế vùng đất này không
chỉ có ý nghĩa quan trọng về chiến lược phòng thủ mà còn có ý nghĩa to lớn về
8



kinh tế, nên ngay từ thế kỉ X nhà Tiền Lê cho khởi đào tuyến giao thông thủy
quan trọng đầu tiên của Tĩnh Gia. Nối từ nam sông Yên đến Lạch Bạng và từ
Lạch Bạng đến Quỳnh Lưu, Nghệ An. Kênh Than nối sông Thị Long đến cầu
Hang xã Hải Lĩnh gặp sông Bà Hòa ở Mai Lâm theo kênh Xước vào Nghệ An.
Mạng lưới kênh đào cùng với những con đê phần nào hạn chế được sự lệ thuộc
vào thiên nhiên của nền sản xuất nông nghiệp Tĩnh Gia. Từ đó nâng cao vị thế
của vùng đất này trong tiến trình lịch sử phát triển dân tộc.
Sang thời Lý – Trần tình hình nông nghiệp Tĩnh Gia có nhiều chuyển biến
mới, với các biện pháp làm các công trình thủy lợi, dưới sự chỉ đạo của Tướng
Lý Nhật Quang. Các công trình thủy lợi góp phần tạo nên cuộc sống sinh động,
nhiều làng, xã, được thành lập như xã Thanh Sơn, xã Nguyên Bình, xã Triêu
Dương, xã Hải Thượng, xã Tân Dân vv...
Đến thời Lê Sơ công tác đê điều, thủy lợi ở Tĩnh Gia tiếp tục được củng cố
với quy mô ngăn nước mặn để khai thác vùng đầm lầy. Tiêu biểu là đê Hoàng
Các ở xã Mai Lâm đã được hoàn thành. “Đê chạy dài từ Tháp Sơn đến Mả Nghè
thôn Vĩnh Quang dài khoảng 1km. Đê hoàn thành có tác dụng thau chua rửa
mặn, tạo nên một khu đồng ruộng phì nhiêu, ước khoảng hơn 1000 mẫu Bắc Bộ.
Từ việc làm này, dân tứ xứ quy tụ về ngày một đông thành các thôn Vinh Quang,
Cao Lư, Trung Dịch, Ngọc Lâm xã Mai Lâm ven biển phía đông nam huyện
Tĩnh Gia ngày nay” [1].

Hình 05. Đê Hoàng Các, đê ngăn mặn đầu tiên có từ thời Lê Sơ,
xã Mai Lâm – Tĩnh Gia – Thanh Hóa

- Khi dạy “Bài 22: Tình hình kinh tế các thế kỉ XVI-XVIII”, mục 2. Sự
phát triển thủ công nghiệp.
Ở mục này tôi liên hệ đến thủ công nghiệp ở Tĩnh Gia để học sinh biết được
vùng đất Tĩnh Gia có những làng nghề thủ công nổi tiếng lâu đời.
Từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII Tĩnh Gia đã phát triển các nghề thủ công.

Một số nghề và làng nghề thủ công ra đời, đặc biệt là nghề chế biến nước mắm.
Nghề chế biến nước mắm rất thịnh hành ở các huyện ven biển Thanh Hóa,
9


nhưng không ở đâu nổi tiếng cả nước bằng nước mắm Du Xuyên – Ba Làng, xã
Hải Thanh. Tục ngữ Thanh Hóa có câu
“Cá mè sông Mực chấm với nước mắm Du Xuyên
Chết xuống âm phủ còn muốn trở về mút xương” [6].
Nước mắm Ba Làng – Du Xuyên (mà đặc biệt là nước mắm cốt), để bao
nhiêu lâu cũng được. Do kỹ thuật chế biến công phu, điêu luyện nên nước mắm
nhìn rất trong, có vị mặn ngòn ngọt, mùi thơm dễ chịu. Trong các bữa ăn, chỉ
cần một ít nước mắm này để chấm thì thật là tuyệt. Ngày tết, đi đâu xa nếu mang
chai nước mắm Ba Làng – Du Xuyên tặng bạn bè, người thân thì quả là quý.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từ nước mắm thông thường nhiều hộ
dân nơi đây đã đun lại thành nước mắm cô (tương tự như viên magi của Trung
Quốc sản xuất), rất tiện cho bộ đội khi hành quân và được ngành hậu cần quân
khu IV đặt hàng tiêu thụ.
Để có nước mắm Ba Làng – Du Xuyên ngon hảo hạng, đầu tiên phải chọn
loại cá tươi, ngon, sau đó phải qua nhiều công đoạn như thùng đựng ướp cá, độ
mặn của muối...Tất cả phải tuân theo công thức và người có kinh nghiệm chỉ
đạo.

Hinh 06. Nghề làm nước mắm ở Ba Làng - Du Xuyên
Hải Thanh - Tĩnh Gia - Thanh Hóa

Ngoài ra tôi còn mở rộng thêm cho học sinh: Ở Tĩnh Gia còn có nghề làm
nón ở (Hải Nhân), nghề rèn sắt làng Nổ Giáp (Nguyên Bình), nghề mộc ở làng
Du Độ, Khả La (Hải Bình), nghề đóng thuyền mành ở Cửa Bạng (Hải Thanh).
Trong đó nghề đánh bắt cá và chế biến hải sản, làm muối ở các làng ven biển,

nhất là khu vực xã Hải Châu, xã Hải Thanh, xã Hải Bình ngày nay đã nổi tiếng
khắp cả nước.
Hiện nay, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn một số nghề
không còn tồn tại nhưng còn một số làng nghề vẫn tiếp tục phát triển trở thành
thương hiệu của quê hương Tĩnh Gia như nghề sản xuất nước mắm, làm muối,
chế biến hải sản xuất khẩu.
Thứ ba: Lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia để giúp học sinh biết được
tình hình văn hóa của vùng đất này dưới thời phong kến.
10


- Khi dạy “Bài 20: Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc trong các thế kỉ
X-XV”, mục I-Tư tưởng, tôn giáo.
Khi đề cập tới nội dung phật giáo, ngoài thông tin ở sách giáo khoa tôi liên
hệ thêm về sự phát triển phật giáo Tĩnh Gia. Giai đoạn phát triển thịnh đạt của
phật giáo thời Lý – Trần đã để lại dấu ấn đậm nét trên quê hương Tĩnh Gia. Với
sự ra đời của nhiều ngôi chùa nổi tiếng như chùa Đót Tiên (Du Xuyên-Hải
Thanh), chùa Phúc Long (xã Hải Ninh), ngoài ra còn có chùa Mẹ Sĩ, chùa Đột
(xã Thanh Sơn), chùa Núi Các, chùa làng Lọng, chùa làng Hưng Lễ (xã Định
Hải).
Giáo viên cung cấp hình 07 và hình 08 để chia sẻ thêm thông tin cùng với học
sinh.

Hình 07. Chùa Đót Tiên, ở Du Xuyên – Hải Thanh
Tĩnh Gia – Thanh Hóa.

Hình 08. Chùa Phúc Long, xã Hải Ninh - Tĩnh Gia – Thanh Hóa.

11



Chùa Đót Tiên (hay còn gọi là Đót Tiên Tự - thờ Phật) được xây dựng dưới
thời Tiền Lê, trên sườn núi Du Xuyên cùng hướng với đền Lạch Bạng và đền
Quang Trung. Kiến trúc chùa được xây dựng theo hình chữ “đinh”, gồm năm
gian tiền đường và hai gian hậu cung, ở đây bài trí 26 pho tượng phật, hai bên
đầu nhà tiền đường có hai cột nanh theo kiểu lồng đèn. Sân thượng và sân dưới
chia làm hai cấp rộng 16m, có bia và nhà che bia hình lục giáp, nhà tiền đường
có hai tượng hộ pháp. Bên trong hậu cung được bài trí tượng phật, ở chùa có câu
đối.
“Đất Vua, chùa làng phong cảnh Phật
Của đời người thế nước non tiên” [6].
Đây là ngôi chùa cổ kính được giữ gìn nguyên vẹn nhất ở Tĩnh Gia. Cùng
với đền Lạch Bạng, đền Quang Trung thì chùa Đót Tiên được bộ văn hóa, thông
tin, du lịch cấp bằng công nhận là khu di tích quốc gia năm 1990.
Chùa Phúc Long (xã Hải Ninh) được xây dựng vào thời Lý. Hiện nay chùa
vẫn còn lưu giữ được lối kiến trúc, hoa văn, tinh tế độc đáo dưới thời Lý.
Giáo viên cung cấp thêm thông tin cho học sinh: Quá trình phát triển phật giáo ở
Tĩnh Gia còn gắn với nhiều nhà sư nổi tiếng, trong đó có Khuông Việt đại sư
Ngô Chân Lưu, là người có công lớn đưa phật giáo nước ta bước vào giai đoạn
phát triển rực rỡ.
“Ngô Chân Lưu (933-1011) ở làng Cát Ly huyện Thường Lạc (nay thuộc Tĩnh
Gia, Thanh Hóa). Dưới triều vua Lê Đại Hành, ông được tôn làm khuông việt
đại sư. Được Vua kính trọng và mời tham gia vào công việc triều chính của đất
nước, là nhân vật tiêu biểu của Tĩnh Gia ở thế kỉ X” [1].
- Khi dạy “Bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI-XVIII”, mục ITư tưởng, tôn giáo.
Khi đề cập tới nội dung Thiên Chúa Giáo (đạo Cơ Đốc) được du nhập vào
nước ta ở thế kỉ XVI-XVII. Đến đây giáo viên liên hệ cho học sinh nét chính về
Thiên Chúa Giáo ở Tĩnh Gia. Tĩnh Gia được xem là điểm đầu tiên của đạo Thiên
Chúa Giáo ở Việt Nam. Bởi vì ngày 19/3/1627, thuyền buôn của người Bồ Đào
Nha cập cửa Bạng (Du Xuyên-Ba Làng), giáo sĩ AlecxanđơRhode đã làm một số

việc như; Đặt tên cho nơi mới đến (Cửa Bạng) là của thánh Giêsu, tiến hành trao
đổi và rửa tội cho một số người, sau đó mở rộng việc rao giảng kinh thánh ở đây,
dựng cây thánh giá trên đỉnh núi Cửa Bạng, đánh dấu bước chân của đạo Thiên
Chúa ở Tĩnh Gia. Như vậy trong lịch sử Thiên Chúa ở miền bắc Việt Nam thì
Cửa Bạng, cửa Thánh Giêsu là nơi tiếp nhận rao giảng kinh Phúc âm sớm nhất,
sau đó giáo sĩ AlecxanđơRhode mới ra Bắc Hà tiếp tục truyền đạo.
Ba Làng là giáo sứ nổi tiếng thuộc giáo phận Thanh Hóa và cộng đồng
công giáo Việt Nam. Điều đó thể hiện trong lời giân gian ca tụng.
“Thứ nhất đền thánh pha pha
Thứ nhì Cửa Bạng, thứ Ba thần phù” [1].
Nhà thờ Ba Làng là một công trình kiến trúc tiêu biểu đánh dấu sự phát
triển của công giáo Tĩnh Gia. Nhà thờ xây dựng năm 1893 với lối kiến trúc Á
Đông.
12


Hình 09. Nhà thờ Đức Bà xứ Ba Làng, xã Hải Thanh
Tĩnh Gia – Thanh Hóa.

Ngoài Ba Làng ở Tĩnh Gia nhà thờ còn có ở một số xã như nhà thờ thôn 7
(xã Hải Lĩnh), nhà thờ xứ Hoành Sơn và Hải Sơn (xã Các Sơn), nhà thờ xứ
Phiên Ngọc (xã Hùng Sơn), nhà thờ xứ Yên Hòa (xã Hải Châu), nhà thờ xứ An
Cư (xã Anh Sơn), nhà thờ xứ Thượng Chiểu (xã Hải Lĩnh), nhà thờ xứ Thanh
Thủy (xã Trúc Lâm).
Thứ tư: Lồng ghép vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử để giải thích
cho học sinh tên gọi của Tĩnh Gia có từ khi nào.
- Khi dạy “Bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới Triều
Nguyễn (Nửa đầu thế kỉ XIX)”, mục 1. Xây dựng và củng cố bộ máy nhà nướcchính sách ngoại giao.
Khi đề cập tới công cuộc cải cách hành chính thời Minh Mạng 1831-1832,
tôi đã liên hệ với lịch sử Tĩnh Gia thời Trần Hồ trở về trước. Tĩnh Gia có tên gọi

là huyện Cổ Chiên, đến thời thộc Minh được đổi thành huyện Cổ Bình. Thời Lê
huyện Tĩnh Gia thuộc Tây Đạo, năm 1466 Tĩnh Gia có tên gọi là huyện Ngọc
Sơn. Sau cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng thì huyện Ngọc Sơn đổi
thành phủ Tĩnh Gia. Sau cách mạng tháng tám năm 1945, phủ Tĩnh Gia đổi
thành huyện Tĩnh Gia.
Thứ năm: Lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử để
giúp học sinh biết được vùng đất Tĩnh Gia thời phong kiến có những nhân vật
lịch sử nổi tiếng.
- Khi dạy “Bài 17: Quá trình hình thành và phát triển nhà nước phong
kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)”, II-Phát triển và hoàn chỉnh nhà nước phong
kiến ở các thế kỉ XI – XV.
Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu xong phần này tôi nhấn mạnh, như
vậy nhà nước phong kiến Việt Nam phát triển và hoàn chỉnh nhất dưới triều đại
Lê Sơ đặc biệt là thời Vua Lê Thánh Tông (1460-1497). Sau đó tôi liên hệ tới
nhân vật nổi tiếng cả nước ở Tĩnh Gia thời kỳ này đó là Đông Các Đại học sỹ Lê
Nhân Quý quê xã Mai Lâm, Ông là con người nổi tiếng cả nước ở thế kỉ XV với
13


những việc làm của mình như: Góp phần củng cố, phát triển, tổ chức bộ máy
nhà nước phong kiến thời Lê Sơ, tham gia chiến tranh chinh phạt Chiêm Thành,
mở rộng biên giới phía nam Đại Việt. Thực hiện chủ trương khôi phục sản xuất
nông nghiệp của triều Lê Sơ. Ông cho tiến hành đắp đê Hoàng Các. Đê ngăn
mặn đầu tiên thời Lê Sơ. Với những việc làm của Ông góp phần đưa vương triều
Lê Sơ phát triển thịnh đạt nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Để tưởng nhớ
những công lao đóng góp của Ông, nhân dân huyện Tĩnh Gia đã lập đền thờ để
tưởng niệm.

Hình 10. Đền thờ Đông các đại học sĩ Lê Nhân Quý,
xã Mai Lâm – Tĩnh Gia – Thanh Hóa.


- Khi dạy “Bài 24: Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI-XVIII”.
Đến phần tổng kết bài, giáo viên liên hệ với lịch sử địa phương để học sinh
biết được đóng góp của danh nhân văn hóa Đào Duy Từ đối với đất nước trong
giai đoạn này.
Đào Duy Từ quê ở xã Hoa Trai huyện Ngọc Sơn (nay là Nguyên Bình –
Tĩnh Gia). Là một người tài giỏi, có chí lớn và đóng góp nhiều công lao trên các
lĩnh vực:
Chính trị: Giữ vững cơ nghiệp Chúa Nguyễn ở đằng trong, chống cự thành
công với họ Trịnh ở phía bắc, mở đất phương nam làm cho nước Việt Nam thời
đó trở nên cường thịnh.
Quân Sự: Trên phương diện thực tiễn; Lũy Trường Dục, Lũy Thầy do ông
thiết kế và trực tiếp chỉ đạo xây dựng đã phát huy hết tác dụng trong cuộc chiến
tranh Trịnh – Nguyễn, xứng đáng với tên gọi “Định Bắc Trương Thành”. Trên
phương diện lý luận Ông có tác phẩm “Hồ Trương Khu Cơ” được xem là cuốn
binh pháp nổi tiếng của Việt Nam thời trung đại còn tới nay. Đào Duy Từ đã kết
hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, kế thừa tinh hoa binh pháp Việt
Nam và Trung Hoa nhưng chủ yếu vẫn xuất phát từ thực tiễn.
Giáo dục: Đào Duy Từ đề nghị Chúa Nguyễn cho tổ chức cuộc thi chọn
người tài.
14


Văn học: Để lại cho đời những tác phẩm có giá trị “Ngọa Long Cương
Vãn”. Qua bài thơ muốn bộc lộ ý chí, hoài bão của bản thân muốn mang tài
năng của mình để giúp đời. Bài thơ “Tư Dung Vãn”, ca ngợi vẻ đẹp của thiên
nhiên, và cách sống thanh bình của vùng đất phương nam.
Nghệ thuật – Âm nhạc: Ông có đóng góp cho loại hình nhã nhạc cung đình
Huế và vũ khúc tuồng cổ Sơn Hậu gắn liền với di sản Huế.
Với cống hiến to lớn của mình. Đào Duy Từ được xem là người thầy đức

độ, tài năng, bậc kỳ tài muôn thuở, người khai sinh ra một dòng họ lớn, với
những di sản còn mãi với non sông. Để tỏ lòng biết ơn, nhân dân Bình Định đã
lập đền thờ ông cùng gia quyến ở Tùng Châu, ngoài ra có nhiều con đường,
trường học mang tên Ông. Tại Nguyên Bình, quê hương Đào Duy Từ năm 1939
nhân dân xây dựng đền thờ Ông. Đền thờ được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia
năm 1990, là một trong những di tích trọng điểm của Thanh Hóa.

Hình 11. Đền thờ Đào Duy Từ, xã Nguyên Bình
Tĩnh Gia - Thanh Hóa.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Đối với hoạt động giáo dục: Khi lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong
dạy học lịch sử, tôi thấy học sinh có hứng thú học tập. Để biết được hiệu quả của
việc lồng ghép lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử dân tộc. Tôi đã tiến
hành thực nghiệm ở hai lớp 10A6 và 10A7 thông qua bài tập nhận thức và câu
hỏi trắc nghiệm.
Câu hỏi nhận thức và vận dụng ở lớp 10A6: Hãy nêu những hiểu biết của em về
một di tích lịch sử (hoặc một làng nghề thủ công truyền thống) ở Tĩnh Gia.
Trách nhiệm của em trong việc giữ gìn, bảo vệ và phát huy giá trị truyền thống
của di tích (của làng nghề thủ công truyền thống) đó trên quê hương em.
Câu hỏi nhận thức và vận dụng ở lớp 10A7: Từ những đóng góp to lớn về người
và của trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Những bài học kinh
nghiệm nào được rút ra trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đặc biệt là
bảo vệ chủ quyền biển đảo hiện nay.
15


Qua chấm bài, ở cả hai lớp tôi đã có kết quả khả quan.
Bảng 1. Kết quả điều tra bằng phiếu trắc nghiệm:


TT Lớp


số

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm trung bình

Số
lượng

Tỉ lệ
(%)

Số
lượng

Tỉ lệ
(%)

Số
lượng

Tỉ lệ
(%)

1


10A6

44

16

36

23

52

5

12

2

10A7

42

14

33

22

52


6

15

Bảng 2. Kết quả điều tra bằng bài tập nhận thức:

Nhận thức sâu sắc
Số lượng
Tỉ lệ (%)

Nhận thức cơ bản
Số lượng Tỉ lệ (%)

TT

Lớp

Sĩ số

1

10A6

44

30

68


14

32

2

10A7

42

26

62

16

38

Như vậy việc lồng ghép lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử dân tộc,
làm cho nội dung học tập sinh động hơn. Học sinh hứng thú khi lĩnh hội kiến
thức. Từ đó học sinh càng thêm yêu, tự hào về quê hương, có ý thức trách nhiệm
xây dựng, giữ gìn các giá trị truyền thống trên quê hương mình.
Đối với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường. Khi tìm hiểu về lịch sử địa
phương Tĩnh Gia thực sự tôi đã lĩnh hội, trau dồi thêm cho mình khối lượng lớn
những tri thức . Qua đó tôi càng nhận thấy mình phải có trách nhiệm truyền thụ
cho học sinh những hiểu biết đó để học sinh thêm biết, thêm yêu vùng quê dù
còn nghèo khó, nhưng là vùng đất có bề dày lịch sử - văn hóa và giàu truyền
thống cách mạng.
Các đồng nghiệp giảng dạy bộ môn lịch sử trong trường và các trường khác
trong huyện có thể sử dụng sáng kiến kinh nghiệm của tôi làm tài liệu để tham

khảo, làm tư liệu giảng dạy.
Sáng kiến kinh nghiệm này của tôi góp phần làm phong phú thêm cho kho
sáng kiến kinh nghiệm của trường THPT Tĩnh Gia 3. Qua đó giáo viên trong
trường có thể trao đổi, học tập kinh nghiệm để thi đua dạy tốt và làm công tác
nghiên cứu khoa hiệu quả.
3. Kết luận, kiến nghị
- Kết luận
Trước thực trạng học sinh có những nhận thức và hiểu biết về văn hóa,
lịch sử địa phương ngày càng hạn chế. Với đặc thù bộ môn lịch sử, tôi nhận thấy
rằng, việc lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử Việt Nam
sẽ mang lại hiệu quả cao trong việc giúp học sinh lĩnh hội kiến thức, mặt khác
góp phần không nhỏ vào việc giáo dục tư tưởng chính trị, giáo dục ý thức lao
động, giáo dục hướng nghiệp và cả giáo dục đạo đức thẫm mĩ cho học sinh. Qua
đó, khơi dậy, bồi đắp lòng tự hào truyền thống lịch sử quê hương, đất nước trong
mỗi một học sinh.
16


Qua việc lồng ghép lịch sử vùng đất Tĩnh Gia trong dạy học lịch sử Việt
Nam từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XIX. Tôi đã rút ra được những bài học sau:
Phải khai thác và sử dụng tốt nguồn tư liệu lịch sử địa phương Tĩnh Gia,
để dạy học.
Giáo viên phải chọn nội dung kiến thức trong từng bài, từng mục để lồng
ghép cho phù hợp.
Phải linh hoạt phân bố thời gian cho hợp lý.
Phải căn cứ vào đối tượng, khả năng nhận thức của học sinh ở từng lớp để
lồng ghép cho hiệu quả.
Nếu sáng kiến kinh nghiệm được ứng dụng ở nhà trường sẽ góp phần bổ
ích đối với công tác giảng dạy bộ môn lịch sử. Qua đó nâng cao hiệu quả học tập
lịch sử đối với học sinh trường THPT Tĩnh Gia 3. Các giáo viên lịch sử các

trường trong huyện nhà có thể tham khảo để sử dụng làm tư liệu dạy học.
Từ những nội dung tích lũy được trong sáng kiến lần này sẽ là cơ sở để tôi
tiếp tục nghiên cứu, xây dựng về các chuyên đề lịch sử vùng đất Tĩnh Gia áp
dụng vào quá trình giảng dạy tại nhà trường; đổi mới hình thức dạy học lịch sử
địa phương bằng các hình thức khác bên cạnh hình thức dạy học trên lớp hiện
nay để nâng cao hơn nữa hiệu quả của dạy học lịch sử địa phương.
- Kiến nghị
Nhà trường, Đoàn thanh niên nên tổ chức các buổi ngoại khóa cho học sinh
tìm hiểu lịch sử địa phương, dân tộc nhân các ngày lễ lớn của đất nước, bổ sung
các nguồn tài liệu, các chuyên đề lịch sử địa phương Tĩnh Gia để chúng tôi tiếp
cận dễ dàng hơn.
Sở giáo dục cần tổ chức nhiều buổi hội thảo, tập huấn, bồi dưỡng chuyên đề
về nội dung, phương pháp dạy học và cả những nội dung tích hợp, lồng ghép
trong các bài dạy có liên quan đến nội dung lịch sử địa phương của tỉnh Thanh
Hóa nói chung và Tĩnh Gia nói riêng.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Tĩnh Gia, ngày 22 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do
bản thân tự đúc rút, không sao chép
của người khác.
Người viết

Phạm Thị Tiệp

17


Tài liệu tham khảo
1. TS. Dương Bá Phượng (tổng chủ biên, 2010), địa chí Tĩnh Gia, NXB từ điển

bách khoa.
2. Các nguồn tài liệu trên internet như các trang thông tin điện tử huyện Tĩnh
Gia, các tạp chí, bài viết trên các sách báo.
3. Hoàng Thanh Hải (chủ biên, 1996) lịch sử Thanh Hóa.NXB Thanh Hóa.
4. GS.TS Phan Ngọc Liên (chủ biên 2007), phương pháp dạy học lịch sử, NXB
đại học sư phạm.
5. GS.TS Phan Ngọc Liên – Trần Quốc Vượng, Trương Hữu Quýnh (chủ biên
2006), sách giáo khoa lịch sử lớp 10. NXB giáo dục.
6. PTS. Lê Anh San (chủ biên, 1998), Tĩnh Gia – Quê hương – Đất nước – Con
người, NXB Thanh niên.
Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng
sáng kiến kinh nghiệm ngành giáo dục tỉnh xếp loại.
Họ và tên: Phạm Thị Tiệp
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn, trường THPT Tĩnh Gia 3
STT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại

1

Sử dụng mọt số di tích lịch sử
trên địa bàn huyện Tĩnh Gia
trong dạy học lịch sử Việt Nam
lớp 10 chương trình cơ bản
nhằm nâng cao nhận thức lịch
sử của học sinh.


Ngành giáo
dục cấp
tỉnh; tỉnh
Thanh Hóa

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

20142015

18


Phụ lục
Phiếu trắc nghiệm về lịch sử địa phương Tĩnh Gia.
Câu 1: Đê ngăn mặn đầu tiên thời kỳ Lê Sơ do ai tiến hành xây dựng?
A. Lê Nhân Thực.
B. Lê Nhân Trung.
C. Lê Nhân Nghĩa.
D. Lê Nhân Quý.
Câu 2: Hệ thống giao thông đường thủy được xây dựng đầu tiên trên vùng đất
Tĩnh Gia dưới triều đại nào?
A. Tiền Lê.

B. Lý.
C. Trần.
D. Lê Sơ.
Câu 3: Nghề thủ công làm nên thương hiệu của vùng đất Tĩnh Gia?
A. Làm muối.
B. Làm nước mắm.
C. Chế biến hải sản.
D. Nấu rựu tăm.
Câu 4: Chùa nào được công nhận là di tích lịch sử quốc gia ở Tĩnh Gia?
A. Chùa Mẹ Sỹ.
B. Chùa Khánh Trạch.
C. Chùa Đót Tiên.
D. Chùa Phúc Long.
Câu 5: Nhà sư nổi tiếng nào của Tĩnh Gia đã đưa phật giáo bước vào thời kỳ
phất triển thịnh đạt?
A. Sư Vạn Hạnh.
B. Sư Ngô Chân Lưu.
C. Sư Huyền Trang.
D. Sư Thích Quảng Đức.
Câu 6: Địa điểm nào ở Tĩnh Gia đánh dấu bước chân của đạo Thiên Chúa Giáo
ở Việt Nam?
A. Hải Châu.
B. Hải Thanh.
C. Hải Bình.
D. Trúc Lâm.
Câu 7: Tên gọi Tĩnh Gia có từ thời kỳ nào?
A. Nhà Trần.
B. Nhà Lý.
C. Nhà Lê.
D. Nhà Nguyễn.

Câu 8: Thế kỷ XVI-XVIII nhân vật lịch sử nổi tiếng ở Tĩnh Gia có hiệu là Lộc
Lê Hầu là ai?
A. Nguyễn Trãi.
B. Đào Duy Từ.
C. Phùng Khắc Khoan.
D. Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Câu 9: Căn cứ thủy quân Tây Sơn trong kháng chiến chống Thanh ở đâu?
A. Đảo Nhỏ.
B. Đảo Mẹ.
C. Đảo Mê.
D. Đảo Biện Sơn.
Câu 10: Đền thờ khai quốc công thần Lê Lôi – Lê Chiến ở đâu?
A. Nguyên Bình.
B. Hải Nhân.
C. Hải Hòa.
D. Hải Lĩnh.

19



×