Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn nhảy xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11 THPT lam kinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.19 KB, 18 trang )

1. MỞ ĐẦU.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Hiện nay, việc tập luyện và tham gia thi đấu điền kinh đã trở thành truyền
thống hàng năm thu hút đông đảo học sinh tham gia tập luyện và thi đấu. Nội
dung giảng dạy điền kinh trong nhà trường phổ thông cũng rất đa dạng và phong
phú.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về
quốc gia nào có nguồn nhân lực trí tuệ cao, có kỹ năng vững vàng, có sức khoẻ
tốt để theo kịp sự phát triển của thế giới. Đặc biệt với sức khoẻ là tài sản vô giá
của mỗi công dân, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, là nhân tố cơ bản tạo nên động lực
phát triển của đất nước.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định : “Giáo dục đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Phát triển giáo dục là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản, để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế bền vững”.
Điều đó càng chứng tỏ trách nhiệm to lớn của ngành Giáo dục và đào tạo.
Nhà trường và xã hội phải đảm bảo phát triển con người một cách toàn diện về
sức khoẻ và trí tuệ. Giúp thế hệ trẻ có kiến thức ngang tầm thời đại, có tư duy
sáng tạo và năng lực thực hành giỏi, có ý thức vươn lên trong học tập, có sức
khoẻ tốt để có thể làm chủ tương lai đất nước.
Ở nước ta, Đảng và nhà nước thể hiện sự quan tâm đó bằng nhiều chủ
trương chính sách, nhằm khuyến khích việc nâng cao sức khoẻ cho mọi công
dân, đặc biệt là trong các trường phổ thông.
Chỉ thị 36-CT/TƯT ngày 24/03/1994 của ban chấp hành TW Đảng cộng
sản Việt Nam về công tác giáo dục thể dục thể thao đã nêu rõ: “mục tiêu cơ bản,
lâu dài của công tác giáo dục thể dục thể thao là hình thành nền thể dục thể
thao phát triển, tiến bộ góp phần nâng cao sức khoẻ thể lực, đáp ứng nhu cầu
văn hoá tinh thần của nhân dân, phấn đấu đạt vị trí xứng đáng trong hoạt động
thể thao quốc tế, trước hết là khu vực Đông Nam Á.”
Do vậy giáo dục sức khoẻ cho con người là một trong những nội dung quan
trọng không chỉ của nghành giáo dục và đào tạo mà còn là mối quan tâm của


toàn xã hội, với mục đích: “ Đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành một con
người mới, có sức khoẻ tốt, có thể lực cường tráng, có dũng khí kiên cường, để
tiếp tục sự nghiệp của Đảng một cách đắc lực và sống một cuộc sống vui tươi
lành mạnh”.
Điền kinh là một môn thể thao khá phổ biến. Là những môn thi đấu chính
của các kỳ đại hội Olimpic quốc tế, đại hội thể dục thể thao (TDTT) trong nước.
Trong nhà trường phổ thông điền kinh là môn có nhiều nội dung chủ yếu trong
chương trình học.

1


Như chúng ta đã biết thành tích của các môn phụ thuộc vào tốc độ bay ban
đầu và góc độ bay nhưng không thể bỏ qua hai yếu tố đó là kỹ thuật và thể lực.
Hai yếu tố này có mối quan hệ khăng khít, có tác dụng thúc đẩy để đạt thành
tích cao. Đặc biệt là yếu tố kỹ thuật, qua kinh nghiệm thực tế của các huấn luyện
viên lâu năm và các công trình nghiên cứu khoa học thể dục thể thao của các tác
giả trong nước đã chứng minh rằng động tác kỹ thuật càng thành thục, chính xác
thì càng tiết kiệm được sức, vận dụng và phát huy được khả năng dùng sức của
cơ thể giúp nâng cao thành tích của mình. Trong các môn của điền kinh, nhảy xa
là một trong số các môn có lịch sử phát triển lâu đời. Từ phương pháp để người
xưa vượt qua các hào rãnh trong săn bắn, hái lượm... Nhảy xa dần trở thành một
phương tiện rèn luyện để phát triển các tố chất thể lực, đặc biệt là tốc độ, sức
mạnh tốc độ, sự phát triển linh hoạt, khéo léo và trở thành một môn thể thao.
Lịch sử điền kinh hiện đại ghi nhận cuộc thi đấu nhảy xa chính thức đầu
tiên được tổ chức tại nước Anh năm 1864 và vận động viên Mai Cơ lập thành
tích 5,48m. Nhảy xa là môn thể thao được sử dụng trong giảng dạy và huấn
luyện tại các cấp học phổ thông, là môn thể thao luôn được lựa chọn là nội dung
thi đấu chính thức tại các giải thi đấu thể dục thể thao của thế giới nói chung và
của các giải thể dục thể thao cấp trường học như: Olympic, Asiad games, Asian

games, Hội khỏe phù đổng...
Trong các kỹ thuật nhảy xa thì nhảy xa ưỡn thân là nội dung thường được
các vận động viên có trình độ cao lựa chọn để thi đấu. Đây là kỹ thuật phức tạp,
hoạt động không mang tính chu kỳ, đòi hỏi người tập phải nắm vững những tư
duy động tác đồng thời thực hiện động tác một cách nhịp nhàng, thuần thục.
Những năm gần đây Bộ giáo dục và đào tạo đã không ngừng cải tiến nội
dung, phương pháp giảng dạy và tập luyện môn điền kinh nói chung và nội dung
nhảy xa nói riêng. Nhưng với thực tế tại trường THPT Lam Kinh, do cơ sở vật
chất còn hạn chế, đối tượng học sinh đa phần là con em nông dân. Đặc biệt là
học sinh nữ, ở lứa tuổi này các em đang phát triển tâm sinh lý lứa tuổi chính vì
thế việc lựa chọn phương pháp tập luyện phù hợp cho học sinh nữ của trường
luôn làm tôi băn khoăn trăn trở làm thế nào để các em tập luyện nội dung nhảy
xa kiểu “ưỡn thân ”có hiệu quả nhất. Chính vì những lý do đó tôi mạnh dạn tiến
hành nghiên cứu đề tài:
“Một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn nhảy
xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.2.1. Tìm một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn
nhảy xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh.
1.2.2. Bằng thực nghiệm sư phạm, vận dụng vào giảng dạy và đánh giá điểm
thi của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh nữ khối 11 THPT Lam Kinh – Thọ Xuân – Thanh Hóa.
2


1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp đọc, phân tích và tổng hợp tài liệu
Đây là phương pháp tổng hợp các nguồn thông tin và thu thập tài liệu về
vấn đề mà đề tài nghiên cứu, là cơ sở lý luận để tiến hành giải quyết các mục

tiêu nghiên cứu.
1.4.2. Phương pháp phỏng vấn
Sử dụng phương pháp phỏng vấn để thu thập và sử lý thông tin ban đầu
1.4.3. Phương pháp quan sát sư phạm
Tiến hành quan sát nắm những diễn biến cụ thể, ghi chép lại thành văn bản, đánh
giá kết quả học tập ở mỗi buổi học, từ đó ứng dụng phương pháp sát với đối
tượng nghiên cứu, đảm bảo tính khoa học trong ứng dụng và quá trình giảng
dạy.
1.4.4. Phương pháp kiểm tra sư phạm
Đề tài sử dụng những nội dung kiểm tra nhằm đánh giá kết quả trước và sau
thực nghiệm.
1.4.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Sau khi lựa chọn một số phương pháp nâng cao thành tích, đề tài sử dụng
phương pháp thực nghiệm và so sánh kết quả song song để kiểm tra tính khoa
học và tính hiệu quả của phương pháp đã chọn.
1.4.6. Phương pháp toán học thống kê
Sử dụng phương pháp này để phân tích và xử lý số liệu thu thập được trong quá
trình nghiên cứu đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Một số quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể chất.
Từ khi giải phóng Miền Nam thống nhất tổ quốc. Năm 1975 đến năm 1985
công tác TDTT đã được Đảng và nhà nước quan tâm một cách thường xuyên để
phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Tại chỉ thị 227 CT/TW ngày 18/11/1975 Ban chấp hành Trung
ương Đảng đã đề ra toàn diện về mục tiêu, nhiệm vụ và phương châm xây dựng
và phát triển sự nghiệp TDTT để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
giữ gìn và ổn định an ninh xã hội, quốc phòng, xây dựng con người mới, nền
văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Tiếp sau đó đầu năm 1979 Bộ Chính trị ban hành
nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục, trong đó đã yêu cầu ngành giáo

dục chăm lo hơn nữa việc dạy thể dục và phát động phong trào “Thể dục - Vệ
sinh - Yêu nước” trong các nhà trường để củng cố và tăng cường sức khoẻ cho
học sinh, sinh viên. Trong những năm 1975-1985 các Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IV (1976), lần thứ V (1982) luôn luôn xác định vai trò, vị trí
của TDTT trong nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng con người có sức khoẻ, có đạo
3


đức, có văn hoá để phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, trong đó quan
tâm công tác giáo dục thể chất cho học sinh sinh viên là nhiệm vụ mang tính
chiến lược của ngành thể dục thể thao. Chính vì vậy, năm 1983 Chính phủ đã
cho phép Bộ Giáo dục, Tổng cục Thể dục thể thao phối hợp với các đoàn thể
Thanh - thiếu niên - nhi đồng tổ chức Hội khoẻ phù đổng toàn quốc lần thứ nhất
để biểu dương phong trào rèn luyện thân thể, tập luyện thể thao của học sinh cả
nước. Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ nhất năm 1985 các đoàn thể thao học
sinh, sinh viên đã tham gia thi đấu và đạt thành tích cao, nhiều học sinh, sinh
viên đã giành được thành tích xuất sắc, giữ nhiều kỷ lục quốc gia.
Bước vào thời kỳ đổi mới khởi đầu từ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ VI (1986) trong công tác thể dục thể thao nói chung và công tác giáo dục
thể chất trong các trường học luôn luôn được Đảng - Nhà nước quan tâm đầu tư
và chất lượng giáo dục thể chất trong các trường học là một yêu cầu cấp bách để
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế an ninh quốc phòng
trong điều kiện và nhiệm vụ mới của đất nước trên con đường đổi mới.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến mục tiêu giáo dục toàn diện cho
thế hệ trẻ. Trong đó, trí dục, đức dục được coi là những vấn đề hệ trọng nhằm
giáo dục hình thành nhân cách người học sinh - sinh viên - người chủ tương lai
của đất nước, những người lao động phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể
chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.
Định hướng về công tác giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ trong
những năm tới. Nghị quyết Trung ương khoá VII đã khẳng định: “Giáo dục đào

tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự trở thành quốc sách hàng
đầu... Chuẩn bị tốt hành trang cho thế hệ trẻ đi vào thế kỷ XXI... Muốn xây dựng
đất nước giàu mạnh, văn minh phải có con người phát triển toàn diện, không
chỉ phát triển về trí tuệ trong sáng, về đạo đức lối sống mà phải là con người
cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của
toàn xã hội, của tất cả các ngành, các đoàn thể, trong đó có giáo dục - đào tạo,
y tế và TDTT”.
2.1.2 Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi 16 - 18.
Học sinh các trường phổ thông trung học (PTTH) thường ở lứa tuổi 16 18. Để có cơ sở khoa học cho việc lựa chọn các bài tập phát triển sức mạnh tốc
độ chúng ta cần tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về tâm sinh lý của lứa tuổi 16 18 có liên quan tới việc tập luyện TDTT nói chung và với việc phát triển sức
mạnh tốc độ nói riêng.
+ Đặc điểm về sinh lý ở lứa tuổi 16 - 18.
* Đặc điểm phát triển của hệ thống thần kinh.
Do hệ thống thần kinh là một hệ thống phát triển sớm của cơ thể, vì vậy ở
lứa tuổi 16 - 18 trọng lượng não của các em đã đạt mức từ 1480 gam đến 1490
gam tương đương với trọng lượng não của người trưởng thành. Chức năng của
các trung khu như: Thị giác, thính giác, xúc giác, cảm giác, trung khu vận
4


động ... tương đối hoàn thiện. Vì vậy các em có thể nhanh chóng học hỏi nâng
cao tri thức và các kỹ năng của cuộc sống, trong đó có kỹ năng vận động thể
thao. Cũng chính do hệ thống thần kinh được hoàn thiện tương đối nên ở lứa
tuổi 16 - 18 các em có thể hình thành tư duy trừu tượng và tư duy lô gíc. Quá
trình hưng phấn và ức chế được cân bằng hơn. Tuy vậy cường độ quá trình hưng
phấn vẫn cao hơn. Đó là điều kiện rất tốt để phát triển các tố chất thể lực nhất là
sức mạnh, sức bền ... Đồng thời cũng dễ dàng nắm vững được các kỹ thuật khó,
tạo tiền đề cho việc nâng cao thành tích thể thao.
* Đặc điểm phát triển của cơ quan vận động.
Cơ quan vận động của cơ thể chủ yếu gồm cơ bắp xương khớp và dây

chằng.
- Về hệ xương: Do quá trình cốc hoá của cơ thể thường kéo dài tới 20 tuổi. Vì
vậy ở tuổi 16 - 18 vẫn còn ở trong thời kỳ phát triển của xương. Tuy vậy thành
phần hữu cơ trong xương giảm dần và thành phần vô cơ tăng dần làm cho xương
cứng và chịu tải tốt hơn.
Ở lứa tuổi 16 - 18 chiều cao trung bình hàng năm của nam chỉ khoảng 1,7
cm còn ở nữ thấp hơn.
- Hệ cơ: Nhìn chung ở giai đoạn 16 - 18 sự phát triển của hệ cơ ở nam và nữ đều
có xu hướng phát triển hoàn thiện các nhóm cơ nhỏ, tăng thiết diện các nhóm cơ
lớn làm cho sức mạnh tăng lên rõ rệt. Theo nghiên cứu của các nhà sinh lý thể
thao nước ngoài như Macslốp (Nga), Dương Tích Nhượng (Trung Quốc) thì ở
lứa tuổi 16 tỷ lệ cơ bắp so với trọng lượng cơ thể của nam đạt tới 32,6% nữ
34,8% đến tuổi 18 nam có thể đạt 44,2% nữ ít hơn.
Song ở nữ 16 - 18 nếu lượng vận động thấp sẽ làm cho lượng mỡ phát triển
nhanh ảnh hưởng tới sự phát huy sức mạnh cơ bắp.
Ở thời kỳ 16 - 18 tuổi do quá trình trao đổi chất rất phồn thịnh nên cơ bắp
nếu tập luyện hợp lý sẽ có thể tích luỹ được một lượng lớn các chất giàu năng
lượng như: ATP, CP và Glucogen tạo tiền đề nâng cao trình độ sức mạnh, tốc độ
và sức bền cơ bắp.
Riêng giây chằng và khớp của vận động viên ở lứa tuổi này nếu không duy
trì tập mềm dẻo thường xuyên hợp lý có thể làm cho linh hoạt khớp bị giảm
xuống. Từ đó làm giảm biên độ động tác...
* Đặc điểm phát triển hệ thống tim mạch.
Ở tuổi 16 - 18 tim phát triển to hơn, thành cơ tim dày lên, van tim phát triển
tốt làm cho cơ tim bóp mạnh hơn làm cho cung lượng tim lớn hơn, tần số mạch
đập thấp xuống mức 66 - 72 lần/phút. Gần tương đương mạch đập của người
trưởng thành. Trọng lượng tim đạt từ 250 đến 305 gam ... Cung lượng tim
khoảng 45 đến 60ml, lưu lượng phút khoảng 3250 - 3600 ml, huyết áp khoảng
105/66 đến 109/69. Thành mạch vững chắc, mao mạch phát triển. Với sự phát
triển đó đã làm cho các em có thể tập luyện được với lượng vận động lớn, cường


5


độ cao, từ đó góp phần nhanh chóng nâng cao được trình độ kỹ thuật, thể lực,
trong đó có sức bền tốc độ.
* Đặc điểm phát triển hệ thống hô hấp.
Ở tuổi 16 - 18 hệ thống hô hấp đã phát triển gần đạt trình độ của người
trưởng thành.
Tần số hô hấp giảm còn 18 - 19 lần phút do dung tích sống tăng và
VO2max tăng. Dung tích sống của nam đạt khoảng 3240 - 3300ml. Nữ khoảng
3800 - 2900ml. Chính nhờ sự tăng lớn của dung tích sống cũng như năng lực
hấp thụ oxy tối đa và năng lực chịu đựng nợ oxy của các em 16 - 18 tuổi được
nâng cao làm cho sức bền ưa khí tăng qua đó góp phần tăng sức mạnh tốc độ của
vận động viên.
Một đặc điểm sinh lý nổi bật khác ở lứa tuổi 16 - 18 là sự phát triển giới
tính. Do các hoóc môn giới tính phát triển làm cho sự phát triển cơ thể cũng có
nhiều khác biệt giữa nam và nữ. Ở nữ ngực và mông phát triển, cũng như xuất
hiện chu kỳ kinh nguyệt làm ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả huấn luyện phát
triển sức mạnh tốc độ và các tố chất thể lực khác ...
+ Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 16 - 18.
Đặc điểm nổi bật về tâm lý của lứa tuổi 16 - 18 là chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của cả 2 nhân tố bên trong và bên ngoài.
* Nhân tố bên trong gồm các yếu tố như sự khát vọng ham muốn hiểu biết,
khám phá thế giới trong đó có sự thử sức với các hoạt độg TDTT. Vì vậy TDTT
đã có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với các em.
Ở tuổi 16 - 18 là giai đoạn các em luôn muốn thể hiện mình là "người lớn"
nên mọi hành động của các em đều bắt chước người lớn. Chính điều này đã tạo
ra động lực cho các em hưng phấn trong quá trình hoạt động, khám phá và tìm
hiểu thế giới xung quanh.

Ở tuổi 16 - 18 về tình cảm do các em thích làm người lớn vì vậy mà các
biểu hiện nghĩa hiệp, sự vui buồn chia xẻ thường đan xen nhau. Các em có thể
vui khi được thoả mãn các mong muốn của mình song cũng rất bất bình khi bị
xúc phạm. Trong mọi hoạt động của cuộc sống, đặc biệt là trong hoạt động
TDTT tính hiếu thắng của các em biểu hiện rất rõ rệt. Các em thường vui sướng
hứng khởi, tự hào rất cao khi giành được chiến thắng và gặp thuận lợi trong cuộc
sống. Song lại hay chán nản bất mãn hoặc giảm xút ý chí khi gặp khó khăn hoặc
thất bại. Chính vì vậy, trong quá trình giảng dạy huấn luyện thể thao cho các em
giáo viên, huấn luyện viên phải kịp thời nắm bắt diễn biến tình cảm của các em
để có thể điều chỉnh uốn nắn kịp thời. Chỉ có như vậy mới có thể đạt được hiệu
quả tốt trong giảng dạy huấn luyện.
Ở tuổi 16 - 18 do quá trình hưng phấn và ức chế của các em thăng bằng
hơn nên đã kéo dài được thời gian tập trung chú ý. Các nhà tâm lý học TDTT
cũng đã nghiên cứu và cho thấy: Nếu như thời gian tập trung chú ý của các em
dưới 15 chỉ khoảng 30 phút thì ở tuổi 15 - 17 đã có thể tăng lên 40 - 45 phút. Sự
6


tập trung chú ý tăng lên sẽ giúp các em có thể học tập kỹ thuật và phát triển các
tố chất sức nhanh, sức mạnh tốt hơn.
Ở tuổi 16 - 18 quá trình nhận thức của các em cũng được nâng cao rõ rệt.
Các em có thể nhận thức được cái hay, cái đẹp của sự vật, cái đúng, cái sai của
một vấn đề một cách bản chất hơn. Tuy nhiên, những nhận thức này còn có tỷ lệ
chuẩn mực chưa cao và độ sâu sắc chưa đạt mức của người trưởng thành.
Riêng ở tuổi này do giới tính mà tâm lý của nam và nữ đã có sự khác biệt
tính nhạy bén, độ chín chắn trong các nhận thức ở nữ cao hơn. Song nữ cũng dễ
tự ti và tự ái hơn nam. Những yếu tố này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả
giảng dạy, huấn luyện TDTT đối với nữ.
* Về nhân tố bên ngoài bao gồm các yếu tố từ ngoại cảnh tác động đến tâm lý
của các em 16 - 18 tuổi.

Thứ nhất là do đặc thù của thể thao là có tính cạnh tranh quyết liệt biểu
hiện rõ rệt trong sự thi đấu để giành phần thắng. Chính tác động của các hoạt
động thi đấu đã tạo cho các em một mơ ước, một khát vọng chiến thắng, từ đó
tạo thành một thứ tình yêu nghề nghiệp, lòng hăng say tập luyện.
Cũng chính do tính ham hiểu biết, mong muốn khám phá thế giới cũng như
khát vọng giành chiến thắng ở các em rất cao nên một khi giành được một thắng
lợi, tạo ra được một chiến tích lập nên một thành tựu nào đó, thường làm cho các
em phấn chấn tự hào tự tin vào bản thân, tin vào huấn luyện viên. Và cũng chính
từ đó dám dấn thân vào tập luyện thể thao.
Tóm lại, sự phát triển và lớn lên về mặt sinh lý cũng là một quá trình làm
cho tâm lý của các em được hoàn thiện. Quá trình phát triển về sinh lý và tâm lý
của các em có tính giai đoạn. Nắm vững được đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của
các em để sử dụng các đối sách giảng dạy huấn luyện hợp lý là tiền đề của sự
nâng cao hiệu quả giảng dạy huấn luyện của các giáo viên và huấn luyện viên
thể thao.
Qua nghiên cứu, tìm hiểu dự giờ dạy của giáo viên và một số giáo án giảng
dạy thể dục, chúng tôi nhận thấy các giáo viên đã tuân thủ theo đúng chương
trình và phương pháp giảng dạy của phổ thông. Tuy nhiên giáo viên còn thiên về
giảng dạy cơ bản, còn ít sử dụng các bài tập nâng cao thành tích trong giảng dạy
và huấn luyện nhảy xa, vì nhảy xa ưỡn thân là kỹ thuật khó. Nên việc nghiên
cứu lựa chọn một số bài tập nâng cao thành tích trong nhảy xa ưỡn thân còn hạn
chế.
Tóm lại, cơ sở vật chất dành cho giảng dạy giáo dục thể chất của nhà
trường là tương đối khang trang. Tuy nhiên phương pháp sử dụng trong giảng
dạy và huấn luyện giáo dục thể chất của giáo viên còn ít sử dụng các bài tập
nâng cao thành tích, đặc biệt là với nội dung nhảy xa ưỡn thân.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Từ việc điều tra thực trạng của học sinh học nội dung nhảy xa “ưỡn thân”
như: kỹ thuật thực hiện động tác, thành tích đạt được trước khi nghiên cứu. Qua
7



đó đưa ra nhận định và đưa ra phương pháp tập luyện cho hạc sinh thích hợp
nhất để đạt hiệu quả cao nhất.
Những năm học vừa qua tôi được giao nhiệm vụ giảng dạy môn thể dục tại
trường THPT Lam Kinh. Qua thực tế công tác tôi nhận thấy thực trạng häc sinh
học môn thể dục nói chung và nội dung nhảy xa nói riêng, đa phần học sinh
chưa tích cực tập luyện, chưa xem tập luyện thể dục thể thao là cách tốt nhất để
rèn luyện sức khỏe. phát triển thể lực. Đặc biệt là học sinh nữ ở lứa tuổi 16-18
các em đang trong quá trình phát triển tâm sinh lý, vì thế các em hay e thẹn, rụt
rè khi tập luyện, đôi khi trang phục tập luyện chưa đúng do các em còn phải học
các môn văn hóa ở trong lớp. Mặt khác đôi khi giáo viên còn cứng nhắc trong
giảng dạy. Vì vậy chưa gây được hứng thú, tích cực chủ động, sáng tạo trong tập
luyện của học sinh. Ngoài ra cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy và
học tập còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy kết quả học tập môn thể dục nói chung
và nội dung nhảy xa nói riêng chưa cao nếu không muốn nói là còn thấp.
Năm học 2017-2018 vừa qua, kết quả kiểm tra đánh giá quá trình tập luyện
nội dung nhảy xa kiểu “ưỡn thân”ở học sinh nữ khối 11 chỉ có 45% học sinh đạt
điểm trung bình trở lên, còn lại là dưới mức trung bình.
Một số yếu tố khác, phần đông học sinh là con em nông thôn, cuộc sống
gia đình các em con gặp nhiều khó khăn. Ngoài việc học ở trường các em về nhà
còn phải giúp gia đình. Để thực hiện tốt những việc này đòi hỏi các em phải có
một sức khỏe tốt, một thể lực cường tráng.
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục thể chất. Là một giáo viên
trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn các em rèn luyện thể chất, qua thực tế công tác
tại trường THPT Lam Kinh tôi luôn băn khoăn, trăn trở làm thế nào để các em
học sinh nữ chủ động, sáng tạo, tích cực tập luyện trở thành những người có sức
khỏe, có tri thức và đạo đức tốt, thành người có ích cho xã hội.
Từ thực trạng nêu trên, kết hợp với kiến thức và kinh nghiệm của bản thân,
của đồng nghiệp trong những năm học tập và công tác, để đưa chất lượng giảng

giạy và học tập môn thể dục nói chung và và nội dung nhảy xa nói riêng. Tôi
mạnh dạn cải tiến phương pháp giảng dạy để giúp học sinh học tập nội dung
nhảy xa “ưỡn thân” đạt kết quả cao hơn.
Nhảy xa là hoạt động hết sức cơ bản và rất cần thiết đối với cuộc sống con
người. Để phát triển thể chất cho thế hệ trẻ ngay từ thời xa xưa, người ta đã coi
nhảy xa là phương tiện giáo dục thể chất hết sức quan trọng. tuy vậy xuất phát từ
tình hình thực tế của nhà trường cũng như của học sinh hiện nay. Trong quá trình
giảng dạy và kiểm tra kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân”. Tôi thấy học sinh
thường thực hiện động tác mà không hiểu kỹ thuật, coi thường môn học vì thế
kết quả đạt được chưa cao nếu không nói là còn thấp.
Vì vậy là một giáo viên bộ môn thể dục trong trường phổ thông tôi luôn
trăn trở để tìm ra những biện pháp mới. Qua tham khảo tài liệu, học hỏi đồng

8


nghiệp và đặc biệt là qua thực tế giảng dạy tại trường tôi đã áp dụng một số bài
tập nhằm đưa học sinh học nội dung nhảy xa đạt kết quả cao hơn.
Trước khi áp dụng những bài tập và phương pháp mới. tôi chọn 30 học sinh
nữ lớp 11C7 làm nhóm đối chứng(B), và 33 học sinh nữ lớp 11C8 làm nhóm
thực nghiệm (A) để kiểm tra kết quả ban đầu với nội dung kiểm tra: kỹ thuật và
thành tích nhảy xa kiểu ‘ưỡn thân”. Phần kiểm tra kỹ thuật tôi chia thành 4 loại:
Loại A: Thực hiện đúng kỹ thuật bốn giai đoạn.
Loại B: Thực hiện đúng kỹ thuật giai đoạn chạy đà, giậm nhảy, trên không,
kỹ thuật tiếp đất có sai sót.
Loại C: Kỹ thuật giai đoạn trên không có sai sót nhiều.
Loại D: Không hình thành được kỹ thuật giai đoạn trên không.
Sau khi tôi tiến hành kiểm tra ban đầu thì thấy thành tích và kỹ thuật của
hai nhóm là rất kém chỉ đạt 45% điểm trung bình trở xuống.
Để xây dựng cho học sinh có thái độ học tập đúng, học sinh tích cực chủ

động sáng tạo, hiểu kỹ thuật trong từng giai đoạn để luyện tập kỹ thuật nhảy xa
kiểu “ưỡn thân”. Từ đó thực hiện đúng kỹ thuật nâng cao thành tích và đảm bảo
an toàn trong luyện tập.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
2.3.1. Tìm một số phương pháp tập luyện và hiệu quả của phương pháp tập
luyện nội dung nhảy xa “ưỡn thân” của học sinh nữ.
Môn nhảy xa muốn có thành tích tốt, ngoài kỹ thuật còn phải tập luyện
thường xuyên và có các bài tập nâng cao. Nhìn lại ở trường THPT Lam Kinh
trong những năm qua, do chương trình của bộ giáo dục quy định, các kỹ thuật
trong môn điền kinh nói chung và trong môn nhảy xa nói riêng là phần dạy học
bắt buộc trong công tác giáo dục thể chất của nhà trường. Nhìn chung học sinh
đã được học, xong chưa liên tục và hoàn chỉnh. Do vậy kết quả đạt được chưa
cao, nguyên nhân chính là do các em chưa có điều kiện tập luyện thường xuyên
và phương pháp tập luyện hợp lý.
Quan sát học sinh tập luyện nội dung nhảy xa “ưỡn thân” trò chuyện với
học sinh từ đó thấu hiểu tâm lý và sự quan tâm của các em về nội dung nhảy xa
trước và sau khi thực nghiệm.
Trò chuyện với học sinh tôi nhận thấy học sinh ở lứa tuổi này ngoài việc
các em e ngại do tâm lý lứa tuổi đang phát triển, còn một lý do nữa đó là trang
phục tập luyện. Do trường THPT Lam Kinh đang học môn thể dục cùng buổi
với các môn văn hóa khác nên các em không thể mặc trang phục thể thao được.
Chính vì thế các em rất ngại tập luyện thể dục nói chung và môn nhảy xa “ưỡn
thân” nói riêng.

9


2.3.2. Bằng thực nghiệm sư phạm, vận dụng vào giảng dạy và đánh giá điểm
thi của học sinh.

Được sự đồng ý của Ban giám hiệu, thống nhất nhất trí của tổ bộ môn, nhóm
thể dục trường THPT Lam Kinh. Tôi tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp 11C7 và 11C8
(gồm 63 học sinh nữ). Lớp 11C7 giảng dạy kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân”. Lớp
11C8 cũng giảng dạy kỹ thuật nhảy xa kiểu “ưỡn thân” nhưng được trang bị nhiều
hơn các bài tập, nhiều phương pháp tập luyện để nâng cao thành tích.
Thực hiện công việc này nhằm tìm ra được phương pháp dạy và học tập có
hiệu quả nhất từ đó rút ra kết luận về việc áp dụng phương pháp đổi mới của bản
thân.
Ngày nay nhảy xa trở thành một môn thể thao hấp dẫn chinh phục độ xa, có
tác dụng rèn luyện sức mạnh, sức nhanh, sự khéo léo, linh hoạt rất hiệu
quả.Nhảy xa có ba kiểu khác nhau: “ngồi” , “cắt kéo” , “ưỡn thân”.Nhảy xa kiểu
‘ưỡn thân” khó hơn so với kiểu “ngồi” nhưng tôi đã tham khảo các bạn đồng
nghiệp cùng dạy rút ra kinh nghiệm và tìm ra phương pháp tốt nhất để áp dụng
vào giảng dạy trực tiếp ở trường.
Trong quá trình giảng dạy cho học sinh để đạt kết quả cao, trước khi tập
luyện phải xây dựng khái niệm: thế nào là nhảy xa, nhảy xa xuất phát từ đâu,
nhảy xa có tác dụng gì cho sức khỏe. Sau đó mới tiến hành giảng giải phân tích,
làm mẫu động tác đẹp, chính xác, kết hợp cho học sinh xem tranh ảnh. Cuối
cùng tôi mới cho các em tập luyện theo phương pháp mà tôi và các đồng nghiệp
đã đúc rút ra từ những năm công tác tại trường.
Để làm tốt được công việc này tôi đã bố trí thời gian tập luyện 8 tiết trong 4
tuần cho cả hai nhóm. Trong đó nhóm đối chứng (B) tập các bài tập theo PPCT
của bộ giáo dục và đào tạo. Nhóm thực nghiệm tôi đưa ra các bài tập mà tôi đã
đúc rút trong quá trình giảng dạy.
- Chạy tăng tốc độ 30m, 60m.
- Chạy đạp sau 30m, 60m.
- Bật co gối vào hố cát.
- Bật căng thân.
- Bật xa tại chỗ.
- Chạy đà - giậm nhảy bằng chân thuận.

- Tập mô phỏng động tác chân giậm nhảy giai đoạn trên không.
- Tập mô phỏng động tác chân lăng giai đoạn trên không.

10


BẢNG 1:
SO SÁNH ĐIỂM THI NHẢY XA CỦA 30 HS LỚP 11C7 VỚI 33 HS
LỚP 11C8 THEO HAI PHƯƠNG PHÁP (TRƯỚC THỰC NGHIỆM)
Điểm thi
Xi

Mi(33 HS lớp 11C8)
A (Nhóm thực nghiệm)

Mi(30 HS lớp 11C7)
B (Nhóm đối chứng)

0

0

0

1

0

0


2

4

3

3

8

6

4

6

6

5

9

9

6

3

2


7

1

2

8

1

1

9

1

1

10

0

0



33

30


X A = 4,33
δ

2

XA

= 2,77

Ghi chú

X B = 4,53
δ

2

XB

= 2,85

t t = 0,476 < t b = 2,101
Thông qua bảng 2 ta thấy t t = 0,027 < t b = 2,101 chứng tỏ sự khác biệt
giữa hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là không có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất
p > 5%.
Qua 4 tuần áp dụng cho hai nhóm theo hai phương pháp mà tôi đã lựa
chọn. Thêm vào đó trong quá trình giảng dạy tôi luôn nhắc nhở động viên các
em về nhà tập luyện. Vì điều kiện ở nhà không có sân bãi tập thường xuyên
chính vì thế các em chỉ nên tập ở các bài tập bổ trợ kỹ thuật, các động tác đơn lẻ
treo từng giai đoạn kỹ thuật và thể lực. Trong giờ dạy tôi luôn áp dụng luân
phiên các phương pháp tập luyện gây hứng thú cho học sinh, phát huy tính tích

cực của học sinh trong tập luyện nhảy xa. Dưới đây là một số phương pháp tập
luyện:

11


* Các phương pháp tập luyện.
- Làm mẫu kết hợp với giảng giải.
- Tập các động tác bổ trợ kỹ thuật.
- Tập các động tác bổ trợ thể lực.
- Chia nhỏ từng động tác.
- Luyện tập từng giai đoạn kỹ thuật (đặc biệt là giai đoạn trên không).
- Luyện tập bắt chước.
- Luyện tập lặp lại.
- Luyện tập nâng cao dần yêu cầu.
- Trò chơi và thi đấu.
- Trực quan gián tiếp ( xem tranh ảnh ).
- Sửa sai và gúp đỡ.
- Hoàn thiện kỹ thuật.
Đặc biệt trong quá trình tập luyện cho học sinh hình thành giai đoạn bước
bộ trên không tôi dùng vật bổ trợ (bục bật), để tăng độ cao của cơ thể so với hố
cát, từ đó học sinh có thời gian trên không lâu hơn để hình thành được động tác
bước bộ trên không sau đó chân lăng từ phía trước chủ động đưa xuống dưới –
ra sau phối hợp với chân dậm nhảy thực hiện động tác đẩy hông ưỡn thân, hai
tay có thể đưa lên cao chếch ra sau hoặc dang ngang để tạo đà và giữ thăng
bằng, đây là động tác đặc trưng của kiểu nhảy xa “ưỡn thân”. Bên cạnh đó tôi
luôn áp dụng hình thức chia tổ tập luyện để tăng cường mật độ vận động, giảm
thời gian chờ đợi, đồng thời phát huy được khả năng tự quản của học sinh trong
giờ học.
Trước khi chia nhóm tập luyện, tôi thường đưa ra yêu cầu về kỹ thuật và an

toàn, hướng dẫn cho các em đội hình tập luyện và các khẩu lệnh để các em thực
hiện. Đưa những điều này thành một trong những nội dung thi đua cho từng tổ
để các em kiểm tra đánh giá lẫn nhau. Điều quan trọng nhất trong tập luyện là
phải đảm bảo an toàn trong tập luyện. Chúng tôi thu được kết quả như sau:

12


BẢNG 2:
SO SÁNH ĐIỂM THI NHẢY XA NỮ CỦA 30 HS LỚP 11C7 VỚI 33
HS LỚP 11C8 THEO HAI PHƯƠNG PHÁP (SAU THỰC NGHIỆM)
Điểm thi
Xi

Mi(33 HS lớp 11C8)
A (Nhóm thực nghiệm)

Mi(30 HS lớp 11C7)
B (Nhóm đối chứng)

0

0

0

1

0


0

2

0

2

3

2

4

4

3

5

5

4

8

6

6


4

7

5

3

8

4

2

9

5

1

10

4

1



33


30

X A = 6,85
δ

2

XA

= 4,19

Ghi chú

X B = 5,1
δ

2

XB

= 3,79

t t = 3,5 > t b = 2,101
Thông qua bảng 2 ta thấy t t = 3,5 > t b = 2,101 chứng tỏ sự khác biệt giữa
hai nhóm thực nghiệm và đối chứng là rất có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất p = 5%.

BIỂU ĐỒ TRƯỚC VÀ SAU THỰC NGHIỆM CỦA HAI NHÓM
13



Trước thực nghiệm:
X A = 4,33

Ghi chú:

X B = 4,53

Sau thực nghiệm:
X A =6,85

X B =5,1

Nhóm A ( Nhóm thực nghiệm)
Nhóm B ( Nhóm đối chứng)

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
14


+ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm trong phạm vi Ngành giáo dục
tỉnh.
+ Đối với bản thân sáng kiến kinh nghiệm này đã biết áp dụng một cách
phù hợp và hiệu quả một số phương pháp nhằm nâng cao thành tích môn nhảy
xa ưỡn thân cho học sinh nữ trường THPT.
+Đối với đồng nghiệp thì sáng kiến kinh nghiệm là tài liệu, đọc tham
khảo và cùng áp dụng vào giảng dạy.
+ Đối với nhà trường thì sáng kiến kinh nghiệm là tài liệu lưu thư viện để
đọc tham khảo.


3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
3.1. Kết luận:
15


Sau một thời gian nghiên cứu đề tài: “Một số phương pháp tập luyện
nhằm nâng cao thành tích môn nhảy xa “ưỡn thân” cho học sinh nữ khối 11
THPT Lam Kinh”.
Đề tài đã thực hiện được các vấn đề: Cơ sở lý luận và thực tiễn để lựa chọn
một số phương pháp tập luyện nhằm nâng cao thành tích môn nhảy xa “ưỡn
thân”.
- Tìm hiểu thực trạng học sinh nữ học nội dung nhảy xa kiểu “ưỡn thân”.
- “Phương pháp tập luyện và hiệu quả của phương pháp tập luyện nội dung
nhảy xa “ưỡn thân” của học sinh nữ”.
- “Bằng thực nghiệm sư phạm, vận dụng vào giảng dạy và đáng giá điểm
thi của học sinh”.
Qua kết quả thu được ta thấy nhóm đối chứng B thành tích và kỹ thuật có
tăng lên nhưng không đáng kể so với nhóm thực nghiệm A. Điều này chứng tỏ
phương pháp cải tiến mà tôi đưa ra là hoàn toàn phù hợp với đối tượng học sinh
nữ tại trường THPT Lam Kinh mà tôi đang trực tiếp giảng dạy.
3.2. Kiến nghị:
Do thời gian nghiên cứu có hạn, tài liệu tham khảo và phương tiện kỹ thuật
chuyên môn còn hạn chế, nên trong quá trình nghiên cứu không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong đồng nghiệp góp ý xây dựng để đề tài có tính hiệu
quả và ứng dụng thực tế cao hơn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục thể
chất trong trường THPT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

16



1. Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất. Ts Vũ Đào Hùng – PTS
Nguyễn Mậu Loan – NXB giáo dục-1998
2. Giáo trình Điền kinh. Dương Nghiệp Chí – NXB TDTT Hà nội – năn 2000.
3.Điền kinh trong trường phổ thông. Quang Hưng – NXB TDTT Hà Nội –
năm 1996.
4. Toán học thống kê ( Nguyễn Đức Văn ).
5. Sinh lý học thể dục thể thao.
6. Sách giáo viên môn thể dục: Lớp 10, 11, 12. NXB giáo dục

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Thanh hóa, ngày 24 tháng 05 năm 2019
17


ĐƠN VỊ TRƯỜNG THPT LAM KINH

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình, không sao chép nội dung của
người khác

Đỗ Văn Xô

18




×