Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Hình thành 5 phẩm chất, 10 năng lực cho HS THPT qua chuyên đề “nghị luận về một hiện tượng đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI SINH HOẠT TỔ CHUYÊN MÔN THEO
HƯỚNG NGHIÊN CỨU BÀI HỌC QUA CHUYÊN ĐỀ
TÌNH YÊU VÀ THÙ HẬN – SẾCHXPIA

Người thực hiện: Nguyễn Kim Thành
Chức vụ: Tổ trưởng Chuyên môn
Đơn vị công tác: Trường THPT Như Thanh
SKKN thuộc môn: Ngữ Văn

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

THANH HÓA, NĂM 2019


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, mọi hoạt động trong nhà trường đều nhằm mục đích
nâng cao chất lượng dạy học. Trong đó, chất lượng chuyên môn là yếu tố hàng
đầu quyết định sự tồn tại, phát triển và danh tiếng của nhà trường.
Để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, những năm gần đây, ngành GD&ĐT đã chú trọng đổi mới
công tác quản lý, đổi mới phương pháp dạy học theo mô hình trường học mới
nhằm phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Dạy học theo
chuẩn kiến thức, kĩ năng, điều chỉnh nội dung dạy học phù hợp đặc điểm tâm
sinh lí học sinh tiểu học; tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống,


ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và trong quản lí. Trong đó, đổi
mới nội dung và hình thức sinh hoạt của các tổ chuyên môn cũng luôn được coi
trọng.
Từ thực tế cho thấy, tổ chuyên môn như một “mắt xích” cực kỳ quan
trọng trong bộ máy hoạt động của nhà trường. Mọi công việc từ chỉ đạo thực
hiện chương trình, kế hoạch hoạt động, đánh giá, xếp loại giáo viên, học sinh;
duy trì kỷ cương nề nếp đến việc nâng cao chất lượng dạy học... đều phải thông
qua sự quản lý và điều hành sinh hoạt của tổ chuyên môn. Như vậy, tổ chuyên
môn như một chiếc cầu nối vừa triển khai các kế hoạch vừa thực thi và báo cáo
việc thực hiện các chương trình, kế hoạch với Ban giám hiệu nhà trường.
Vì thế, chỉ đạo đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn
cũng là một hình thức đa dạng hoá cách quản lý nhà nước để góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học. Mặt khác, đổi mới sinh hoạt chuyên môn trong nhà
trường cũng chính là một trong những hình thức chủ yếu để bồi dưỡng năng lực
sư phạm cho tập thể giáo viên. Đây không những là vấn đề quan trọng nhất mà
còn là vấn đề then chốt quyết định chất lượng đội ngũ và hiệu quả giờ dạy. trong
những đổi mới đó là phải cải tiến nội dung, hình thức sinh hoạt tổ chuyên môn,
tổ chức sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học.
Nhằm tạo cơ hội cho tất cả GV được học tập lẫn nhau thông qua hoạt
động cùng hợp tác thiết kế kế hoạch bài dạy, cùng dự giờ và phân tích bài học.
Qua đó nhằm phát triển năng lực chuyên môn và hoàn thiện kỹ năng giảng dạy
cho từng GV, phát huy khả năng sáng tạo của GV tập trung vào hoạt động học
của học sinh.
“Văn học là nhân học”, từ xưa tới nay trong việc giáo dục con người,
văn chương vẫn được sử dụng như một công cụ đắc hiệu, không ai có thể phủ
nhận tầm quan trọng của văn chương trong việc xây dựng và giữ gìn đạo đức xã
hội.
Môn Ngữ văn trong nhà trường là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa
mang tính khoa học, nó là chìa khóa giúp học sinh tiến vào mọi lĩnh vực khoa
học, mọi hoạt động xã hội, tác động một cách sâu sắc, mạnh mẽ đến tư tưởng,

tình cảm, cảm xúc của con người. Để học tốt môn Ngữ văn ngoài những kĩ năng
so sánh, phân tích, chứng minh, bình luận.. học sinh cần phải có tâm hồn tinh tế,
1


nhạy cảm, biết nhận diện, đánh giá và cảm thụ những vẻ đẹp của ngôn từ, hình
ảnh. Người thầy cần phải làm tốt việc khơi gợi hứng thú và sự sáng tạo cho các
em (trong giờ học văn), cần phải có những phương pháp, kĩ thuật đặc thù, đa
dạng để học sinh lĩnh hội một cách hiệu quả nhất đáp ứng sự phát triển về thẩm
mĩ, đạo đức, trí tuệ của học sinh và yêu cầu của thời đại.
Thế nhưng, thực tế học văn và làm văn hiện nay ở một bộ phận HS cấp
THPT thật đáng buồn, hiện tượng HS “dị ứng” với môn văn, không thích học
văn, làm bài kiểm tra sơ sài và đối phó vẫn còn phổ biến.
Trong khi đó, có không ít GV chưa thực sự coi trọng giảng dạy tác phẩm
Văn học nước ngoài. Chỉ chọn sự đầu tư cho mảng Văn học Việt Nam, chú trọng
dạy Văn học Việt Nam mà không xem trọng Văn học nước ngoài hoặc dạy qua
loa chiếu lệ vì mảng văn học này những năm gần đây không có trong cấu trúc đề
thi THPT Quốc gia.
Chính vì vậy học sinh không nhận thức được tầm quan trọng của việc học
và lĩnh hội các tác phẩm Văn học nước ngoài. Vì vậy hiệu quả của giờ học không
cao, chưa thực sự có ý nghĩa đối với việc rèn luyện, phát triển toàn diện cho học
sinh. Riêng đối với Văn học nước ngoài, học sinh phần nào chưa hứng thú vì xa
lạ với nền văn hóa nước ngoài, vì chưa hiểu văn bản và những hàm ý sâu xa mà
tác giả muốn gửi gắm.
Đứng trước thực trạng đó, tôi không khỏi băn khoăn, làm thế nào để cả
GV và học sinh yêu văn học nước ngoài hơn, làm thế nào để đem đến cho các
em hs sự hiểu biết và yêu mến về thể loại Kịch, về Sếch-xpia, về Rômeo và
Giuliet…. Làm thế nào để cho cả GV và HS phổ thông có những hứng thú, đam
mê tiếp cận Văn học nước ngoài, với những đoạn văn nổi tiếng “kinh điển” thế
giới? Đó là câu hỏi của rất nhiều GV đang giảng dạy bộ môn Ngữ văn đang đặt ra

và muốn tìm hướng giải quyết.
Xuất phát từ những lí do trên, với cương vị Tổ trưởng chuyên môn tôi lựa
chọn và nghiên cứu đề tài: Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên
cứu bài học qua chuyên đề Tình yêu và thù hận- Sếchxpia.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài Đổi mới sinh hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học
qua chuyên đề Tình yêu và thù hận- Sếchxpia nhằm:
- Đảm bảo cho tất cả học sinh có cơ hội tham gia vào quá trình học tập, GV quan
tâm đến khả năng học tập của học sinh đặc biệt là học sinh có khó khăn về học.
- Tạo cơ hội cho tất cả GV nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và
khả năng sáng tạo trong dạy học.
Từ đó, nâng cao:
- Nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ văn, đặc biệt là phân môn Văn
học nước ngoài của nhà trường.
- Góp phần làm thay đổi văn hóa ứng xử trong nhà trường.
3. Đối tượng nghiên cứu
HS khối 11 (11C6) của trường THPT Như Thanh năm học 2018-2019.
4. Phương pháp nghiên cứu
2


- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp thảo luận
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Sinh hoạt chuyên môn theo định hướng nghiên cứu bài học
* Quan niệm: Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học (NCBH)
- Là hoạt động chuyên môn nhưng ở đó GV tập trung phân tích các vấn
đề liên quan đến người học (học sinh).

- Không tập trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại GV mà nhằm
khuyến khích GV tìm ra nguyên nhân tại sao HS chưa đạt kết quả như mong
muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho HS được
tham gia vào quá trình học tập; giúp GV có khả năng chủ động điều chỉnh nội
dung, phương pháp dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng HS.
1.2. Các bước tiến hành NCBH
Chu trình NCBH gồm 4 bước:
* Bước 1. Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
* Bước 2. Tiến hành bài học và dự giờ
* Bước 3. Suy ngẫm, thảo luận về bài học nghiên cứu
* Bước 4. Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày
1.3. Tổ chức thực hiện SHCM theo NCBH
1.3.1. Điều kiện để thực hiện nghiên cứu bài học
 Nhóm GV hợp tác xây dựng giáo án.
 Tiết học minh hoạ là tiết học như bình thường hàng ngày.
 Phát giáo án của tiết học cho giáo viên dự giờ.
 Vị trí GV dự giờ có thể quan sát được nét mặt của học sinh.
 Các giáo viên cần học cách quan sát.
 Nêu lại những ấn tượng của mình khi quan sát học sinh học.
 Chỉ ra thực tế và có bằng chứng (quay video, chụp ảnh)
 Không đánh giá giờ dạy của GV.
 Sự ủng hộ từ phía lãnh đạo.
1.3.2. Tổ chức thực hiện SHCM theo NCBH
*Giai đoạn thứ nhất: Hình thành cách dự giờ, suy ngẫm, xây dựng quan hệ
đồng nghiệp mới
*Giai đoạn thứ hai: Tập trung phân tích các nguyên nhân, các mối quan hệ
trong giờ học và tìm biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài học.
Quy trình thực hiện đổi mới dự giờ:
1.Tổ/ nhóm CM họp soạn giáo án.
2. Cử một GV dạy minh họa

3. Tổ/nhóm CM họp rút kinh nghiệm
4. Áp dụng vào thực tiễn
2. Cơ sở thực tiễn

3


Trường THPT Như Thanh là ngôi trường có bề dày lịch sử và thành tích,
với 50 năm xây dựng và trưởng thành trường luôn là cánh chim đầu đàn trong
phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt” của giáo dục huyện nhà, những năm gần
đây nhà trường nỗ lực vươn lên và đã có nhiều đóng góp cho giáo dục Tỉnh
Thanh Hoá.
- Về phía GV: GV trong trường phần đa là những người có trình độ năng
lực chuyên môn vững vàng, ham học hỏi và cầu thị. Luôn sẵn sàng tiếp nhận
những cái mới trong phương pháp dạy học tích cực để tạo hiệu quả cao trong
giảng dạy. Tổ Ngữ văn có 10 GV đều nhiệt tình và tâm huyết, tất cả đều đang ở
giai đoạn “độ tuổi vàng” của tuổi nghề với trình độ và kinh nghiệm chín muồi.
Tuy nhiên, ở một số GV vẫn còn tình trạng chưa thực sự hiểu đúng tầm
quan trọng của các buổi sinh hoạt chuyên môn, nơi tinh thần và ý kiến tập thể
được vận dụng vào xây dựng đánh giá góp ý bài dạy một cách hữu ích nhất,
phân tích các nguyên nhân, các mối quan hệ trong giờ học và tìm biện pháp cải
tiến, nâng cao chất lượng các bài học. Và là nơi mối quan hệ đồng nghiệp được
gắn kết sâu sắc nhất.
- Về phía HS: HS của trường đều rất chăm ngoan, có ý thức học tập và rèn
luyện tốt. Tuy nhiên, ý thức học tập ở một số em còn hạn chế. Đặc biệt là quan
niệm của các em về mảng Văn học nước ngoài còn mang tính đối phó và thực
dụng, điều này tạo nên hệ luỵ trong cách tiếp nhận những tác phẩm Văn học
nước ngoài của HS.
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn trên, cá nhân tôi sau nhiều trăn trở và tìm tòi
mạnh dạn đề xuất những biện pháp thực nghiệm sau nhằm Đổi mới sinh hoạt tổ

chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học qua chuyên đề Tình yêu và thù hậnSếchxpia. Từ đó góp phần nhỏ bé của mình vào việc nâng cao chất lượng giáo
dục bộ môn Ngữ Văn cho HS THPT tỉnh nhà.
3. CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
3.1 BƯỚC 1 : Xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài học nghiên cứu
+ Chọn bài khó nhất/ loại bài/ phân môn/lớp (ít nhất phải cách cuộc họp
này 4 tuần).
Tổ Ngữ văn đã chọn chuyên đề Tình yêu và thù hận - Sếchxpia
+ Lập mục tiêu bài đã chọn; cần xác định mục tiêu kiến thức và kĩ năng
mà HS cần đạt được khi tiến hành nghiên cứu.
* Về kiến thức
Giúp học sinh cảm nhận được:
-Tình yêu cao đẹp bất chấp thù hận giữa hai dòng họ của Rô-mê-ô và Giu-liét.
- Hiểu được tình yêu chân chính tạo ra tình cảm và nhân cách trong sáng, nâng
đỡ, cổ vũ con người vượt qua thù hận.
- Nghệ thuật xây dựng kịch của Sếch-xpia, diễn biến tâm trạng nhân vật qua
ngôn ngữ lời thoại trong đoạn trích.
*Về kĩ năng

4


- Giúp học sinh rèn luyện khả năng tư duy, thực hiện nhiệm vụ học tập để
thu thập xử lí thông tin, liên hệ với thực tiễn chuyên đề, giúp các em chủ động
và tích cực hơn trong quá trình học tập, tiếp thu và lĩnh hội kiến thức.
- Hình thành cho học sinh các kĩ năng như: khái quát tổng hợp kiến thức
các môn học khác nhau để bổ trợ; kĩ năng sử dụng và khai thác tư liệu có liên
quan đến bài học; rèn luyện cho học sinh kĩ năng thực hành và làm bài tập.…
qua đó giúp các em có thể phân tích, đánh giá, nhận xét một cách độc lập, khoa
học.
- Kĩ năng đọc hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại, nhận biết một vài thể

đặc điểm của thể loại kịch: ngôn ngữ, hành động, bố cục, xung đột…
*Thái độ:
- Giúp hs hiểu tình yêu là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quí vượt trên hận
thù. HS biết trân trọng tình yêu chân thành, trong sáng và hướng tới xây dựng
lối sống có trách nhiệm hơn.
- Giáo dục cho học sinh có tinh thần thái độ học tập nghiêm túc đối với tất
cả các môn học. Bởi vì mỗi môn học ở trường THPT đều có vai trò quan trọng
để hình thành tri thức, nhân cách toàn diện của người học.
+ Các GV trong tổ góp ý kiến, hoàn thiện mục tiêu bài học qua SHCM.
Các GV sẽ có một cuộc thảo luận chi tiết, cụ thể bài học tiến hành nghiên cứu
như:
 Đặt câu hỏi xem đây là loại bài học gì?
 Cách giới thiệu bài học như thế nào?
 Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học thế nào cho đạt hiệu
quả cao?
 Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến thức nào?
 Dự kiến tổ chức hoạt động dạy học nào tương ứng?
 Dự kiến tích hợp nội dung giáo dục nào là phù hợp?
Người dạy (tôi) đưa ra ý tưởng cho hoạt động khởi động, cách giới thiệu bài
học của mình, các thành viên trong tổ góp ý, hoàn thiện ý tưởng. Bài dạy thực
nghiệm này là sản phẩm của các thành viên trong tổ, mọi người cùng thiết kế,
thảo luận và thống nhất lựa chọn phương án tối ưu nhất.
Sau đây là phương án định hướng sản phẩm mà Tổ đã thống nhất:
1. Tổ chức hoạt động dạy học: gồm 5 hoạt động (tổ chuyên môn Ngữ văn đã
bám sát qui trình bài dạy theo hướng đổi mới của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT
Thanh Hoá về tổ chức hoạt động dạy học theo mô hình trường học mới)
+ Hoạt động khởi động
+ Hoạt động hình thành kiến thức
+ Hoạt động luyện tập
+ Hoạt động vận dụng

+ Hoạt động tìm tòi và mở rộng
2. Tích hợp nội dung giáo dục:
5


+ Tích hợp các môn: Địa lý, Lịch sử, Ngoại ngữ, Hội hoạ...
3. Sử dụng các phương pháp, kĩ thuật và phương tiện dạy học:
+ Phương pháp dạy học: thảo luận nhóm, nêu và giải quyết vấn đề, thuyết
trình, sân khấu hoá…
+ Kĩ thuật dạy học: kĩ thuật khăn phủ bàn, kĩ thuật KWL, kĩ thuật sơ đồ tư
duy…
+ phương tiện, thiết bị dạy học:
* Thiết bị dạy học
Các thiết bị được sử dụng để giảng dạy chuyên đề này gồm: máy tính,
máy chiếu được sử dụng trong quá trình giảng bài góp phần giải quyết nhanh
gọn các câu hỏi đặt ra và hỗ trợ hình ảnh để bài giảng thêm sinh động, hấp dẫn.
Phiếu học tập, bảng phụ, tranh ảnh, kênh hình và tiếng được khai thác và
sử dụng để thực hiện trong quá trinhd dạy học.
* Học liệu
Khai thác và sử dụng các nguồn tư liệu có liên quan như: SGK, sách giáo
viên, tài liệu lịch sử, sách báo và các nguồn tư liệu được khai thác trên internet,
sử dụng từ các môn học khác nhau ở trường THPT và kiến thức về các bộ môn
khác như: Điện ảnh, Âm nhạc, Hội họa, Kiến trúc…
Sau cuộc họp tổ Chuyên môn, chúng tôi đã lựa chọn phương án dưới
đây cho hoạt động khởi động:
HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
Mục tiêu
Nhằm tạo sự tò mò, hứng thú cho HS, tạo tâm thế cho bài học mới
Phương thức
GV: Tổ chức trò chơi “ĐÂY LÀ ĐÂU?” cho Hs, trình chiếu hình ảnh lên

màn hình, yêu cầu Hs quan sát và trả lời câu hỏi:
+ Em hãy nêu những hiểu biết của mình về những bức hình sau?
Hs quan sát, suy ngẫm và trả lời:

6


Thành phố cổ kính và xinh đẹp nằm
ở miền Bắc nước Ý quê hương của thiên tình sử đẫm lệ

Ngôi nhà gắn liền với câu chuyện tình lãng mạn

Gợi ý sản phẩm
7


+ Thành phố của thiên tình sử đẫm lệ:Verona thuộc tỉnh Verona, nằm dọc bờ
sông Adige miền Bắc nước Ý.
+ Đấu trường La Mã/Roman Arena (nằm chính giữa trung tâm lịch sử của
thành phố Verona)
+ Ngôi nhà của nàng Giuliet: Ngôi nhà được xây dựng từ thế kỷ 12 với chiếc
ban công nổi tiếng, nơi đã chứng kiến chuyện tình yêu đầy lãng mạn của đôi tình
nhân trẻ
(GV khen thưởng cho Hs có đáp án đúng)
Lời vào bài
Là một trong những địa điểm hấp dẫn khách du lịch nhất thế giới. Thành
phố Verona của Nước Ý được UNESCO công nhận là di sản thế giới, với nhiều
di tích lịch sử văn hóa. Nơi không chỉ in dấu bởi hào quang lịch sử với Đấu
trường La Mã – Roman Arena, Nhà thờ lớn Verona – Verona Cathedral, Quảng
trường Piazza delle Erbe, Thánh đường San Zeno Maggiore… mà khi nhắc đến

Verona người ta còn nhớ đến mối tình lãng mạn lay động lòng người giữa
Romeo và Giuliet. Thành phố của sự bình yên và thơ mộng này đã góp phần dệt
nên câu chuyện về mối tình huyền thoại đầy ngang trái và thấm đẫm nước mắt
đã đi vào lịch sử.
Hôm nay cô trò ta sẽ cùng nhau khám phá và cảm thụ vẻ đẹp của mối tình
huyền thoại ấy qua trích đoạn “Tình yêu và thù hận” của nhà soạn kịch thiên
tài người Anh, Uy-li-am Sếch-xpia.
Sau khi kết thúc cuộc họp này, một GV trong nhóm (tôi) sẽ nhận nhiệm
vụ phát triển đề cương đầu tiên của giáo án bài học nghiên cứu.
3.2 BƯỚC 2: Tiến hành bài học và dự giờ
Sau khi hoàn thành kế hoạch dạy học chi tiết, một GV sẽ dạy minh hoạ
bài học nghiên cứu ở một lớp cụ thể (11C6).
- Các yêu cầu cụ thể của việc dự giờ như sau:
+ Chuẩn bị lớp dạy minh hoạ, bố trí lớp có đủ chỗ ngồi quan sát thuận
lợi cho người dự.
+ Điều chỉnh số lượng người dự ở mức vừa phải, không quá đông.
+ Việc dự giờ cần đảm bảo không ảnh hưởng đến việc học của học sinh,
không gây khó khăn cho người dạy minh hoạ.

8


Vị trí GV dự giờ được bố trí một cách hợp lí

- GV cần quan sát học sinh học, cách phản ứng của học sinh trong giờ
học, cách làm việc nhóm, những sai lầm học sinh mắc phải. Quan sát tất cả đối
tượng học sinh, không được “bỏ rơi” một HS nào.
- Từ bỏ thói quen đánh giá giờ dạy của GV, người dự cần học tập, hiểu và
thông cảm với khó khăn của người dạy. Đặt mình vào vị trí của người dạy để
phát hiện những khó khăn trong việc học của HS để tìm cách giải quyết.


9


HS trình bày sản phẩm.

10


Sản phẩm của HS (Gv hướng dẫn HS sử dụng kĩ thuật khăn phủ bàn)

Sản phẩm của HS (Gv hướng dẫn HS sử dụng kĩ thuật vẽ sơ đồ)

11


Phần Củng cố (GV hướng dẫn HS sử dụng kĩ thuật KWL)

12


Hình thức sân khấu hoá trích đoạn Tình yêu và thù hận

3.3. BƯỚC 3: Suy ngẫm, thảo luận về bài học nghiên cứu
- GV dạy minh hoạ chia sẻ về bài dạy: những điều hài lòng và chưa hài
lòng trong quá trình dạy chuyên đề Tình yêu và thù hận. Về phương pháp dạy đã
phù hợp và hiệu quả được đến đâu, về ý tưởng mới và những thay đổi điều chỉnh
trong hoạt động hình thành kiến thức…
- Suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến của GV khác về bài học sau khi dự giờ.
Các ý kiến đưa ra nhiều hay ít, tinh tế và sâu sắc hay hời hợt và nông cạn sẽ

quyết định hiệu quả học tập, phát triển năng lực của tất cả GV tham gia vào
SHCM.
- Người dự tập trung quan sát việc học của HS, đưa ra bằng chứng về
những gì họ nhìn thấy được về cách học, suy nghĩ, giải quyết vấn đề của HS trên
lớp học, để rút kinh nghiệm, bổ sung, đưa ra biện pháp nâng cao hiệu quả.
- Mọi người phải lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau khi thảo luận,
không nên quan tâm đến các tiêu chuẩn truyền thống của một giờ dạy.

13


GV chia sẻ các ý kiến về bài học sau khi dự giờ

- Tuyệt đối không xếp loại giờ dạy minh hoạ trong SHCM. Bởi giờ dạy là
sản phẩm chung của mọi người khi tham gia SHCM.
- Tổ trưởng chuyên môn tổng kết, rút kinh nghiệm: sau khi thực
nghiệm đổi mới SHCM theo hướng NCBH qua chuyên đề Tình yêu và thù hận
+ Về ưu điểm:
14


Kế hoạch và tài liệu dạy học phù hợp, rõ ràng, hợp lí
Tổ chức hoạt động học cho HS: phương pháp và hình thức chuyển giao
nhiệm vụ học tập sinh động, hấp dẫn.
GV dạy đã theo dõi, quan sát, phát hiện kịp thời những khó khăn của HS
Các biện pháp hỗ trợ và khuyến khích HS hợp tác, giúp đỡ nhau khi thực
hiện nhiệm vụ qua thảo luận nhóm.
HS hứng thú, sôi nổi trong giờ học (tổ 1, tổ 4 là làm việc tích cực và hiệu
quả hơn cả)
+ Nhược điểm:

Vẫn còn một số HS rụt rè trong phát biểu, một số HS ỉ lại bạn trong quá
trình thảo luận, một số thụ động trong tiếp nhận kiến thức mới.
Và một số HS ghi chép bài học còn cẩu thả.
Từ đó, Tổ chuyên môn rút kinh nghiệm: cần phát huy những điều đạt được và
khắc phục những mặt còn hạn chế.
3.4. BƯỚC 4: Áp dụng cho thực tiễn dạy học hàng ngày
- Sau khi thảo luận về tiết dạy này, tất cả tổ viên sẽ cùng suy ngẫm xem có
tiếp tục thực hiện NCBH này nữa không? Nếu bài học nghiên cứu vẫn chưa
hoàn thiện thì cần tiếp tục nghiên cứu để tiến hành dạy ở các lớp sau cho hoàn
thiện hơn.
- Các GV trong tổ sẽ viết bài báo cáo vạch ra những gì họ được học liên
quan đến chủ đề nghiên cứu và mục tiêu của họ trong giảng dạy.
- Sự quyết tâm cuả tổ Ngữ văn (THPT Như Thanh) khi khẳng định sẽ tiếp
tục thực hiện đổi mới SHCM theo hướng NCBH ở những bài học và chuyên đề
kế tiếp trong năm học 2018-2019 và những năm kế tiếp.

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
+ Về phía GV
Qua chuyên đề thực nghiệm, GV trong tổ Ngữ văn của trường THPT Như
Thanh đã thực sự hiểu đúng tầm quan trọng của các buổi sinh hoạt chuyên
môn, nơi tinh thần và ý kiến tập thể được vận dụng vào xây dựng đánh giá góp ý
bài dạy một cách hữu ích nhất, phân tích các nguyên nhân, các mối quan hệ
trong giờ học và tìm biện pháp cải tiến, nâng cao chất lượng các bài học. Nhận
thức sâu sắc SHCM là nơi mối quan hệ đồng nghiệp được gắn kết sâu sắc nhất.
+ Về phía HS
- Thực hiện nhiệm vụ học tập để thu thập xử lí thông tin, liên hệ với thực
tiễn chuyên đề, giúp các em chủ động và tích cực hơn trong quá trình học tập,
tiếp thu và lĩnh hội kiến thức, sử dụng và khai thác tư liệu có liên quan đến bài
học; học sinh yêu văn học nước ngoài hơn, các em sự hiểu biết và yêu mến về
thể loại Kịch, về Sếch-xpia, về Rômeo và Giuliet

15


Thông qua việc tổ chức thực nghiệm và đánh giá một cách nghiêm túc, tôi
rút ra một số kết quả như sau: điểm trung bình phiếu học tập môn Ngữ văn của
học sinh các lớp tôi dạy, 2 lớp có học lực tương đương (trong đó 11C6 là lớp
tiến hành thực nghiệm):
Tổng
Lớp
Điểm giỏi Điểm khá Điểm TB Điểm yếu
số HS
11C8
40
0 (0%)
14 (35%)
18 (45%)
8 (20%)
11C6
41
5 (12,2%) 20 (48,8%) 16 (39%)
0
Điểm số của học sinh 11C6 cao hơn hẳn so với 11C8. Học sinh 11C6 viết
được đoạn văn nghị luận sâu sắc về tư tưởng tình cảm, mạch lạc, chặt chẽ trong
suy nghĩ và trình bày, cách thức lập luận mang tính thuyết phục cao. Nếu tiến
hành dạy học trên các biện pháp mà người nghiên cứu đã đề xuất, chắc chắn giờ
học sẽ trở nên sinh động hơn, thu hút học sinh tham gia vào quá trình nhận thức

16



KẾT LUẬN
1. Kết luận
Năm 2005, tôi tốt nghiệp lớp Cao học K13 chuyên ngành Văn học Phương
Tây của trường ĐHSP Hà Nội. Hơn 10 năm đi dạy sau đấy, tôi luôn trăn trở về
“vị thế” của Văn học nước ngoài trong nhà trường THPT. Làm thế nào để Hs
vượt qua những trở ngại để yêu thích học tác phẩm văn học nước ngoài? làm thế
nào để các GV bộ môn Ngữ văn đầu tư thời gian vào mảng này, tìm tòi những
phương pháp dạy hấp dẫn giống như mảng Văn học Việt Nam?.
Có thể nói, SKKN này chính là một trong những sản phẩm tâm huyết của
tôi với nghề. Với cương vị Tổ trưởng chuyên môn, khi mà GV trong tổ bộ môn
Ngữ văn hiểu đúng tầm quan trọng của các buổi sinh hoạt chuyên môn, và
khi mà Hs yêu thích, hứng thú với bài học nghĩa là tôi đã góp phần nhỏ giúp “vị
thế” của phân môn Văn học nước ngoài phần nào được nâng cao hơn trong
phạm vi đơn vị công tác- trường THPT Như Thanh. Đây là điều rất quan trọng
trong yêu cầu của thời đại với xu thế hội nhập toàn cầu, thời đại của những công
dân toàn cầu với những hiểu biết về văn hóa toàn cầu.
2. Kiến nghị
- Về phía giáo viên cần đầu tư, chú trọng hơn nữa trong những chuyên đề
và giờ dạy học Văn học nước ngoài.
- Về chương trình, cấu trúc thi THPT Quốc Gia cần có 01 câu trong phần
đọc hiểu hoặc NLXH cho phân môn Văn học nước ngoài.
Mặt khác chúng tôi cũng mong muốn các Nhà trường THPT cần tổ chức
các giờ ngoại khoá về Văn học Nước ngoài nhiều hơn nữa để góp phần tạo cơ
hội cho học sinh giao lưu, học hỏi nhờ vậy mà tăng năng lực sử dụng ngôn ngữ
cho học sinh.
- Về phía học sinh cũng nên chủ động hơn nữa trong quá trình học tập,
tránh tình trạng học rụt rè, đối phó…Các em cần rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn
ngữ một cách linh hoạt, sinh động và phong phú hơn. Rèn luyện tư duy lập luận
sáng rõ, khoa học bằng ngôn ngữ không chỉ ở bộ môn Ngữ văn mà còn ở các bộ
môn khác và trong cuộc sống.

Hi vọng những biện pháp mà tôi đề xuất sẽ là những gợi ý có ích cho giáo
viên trong việc dạy học nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học Ngữ văn ở
bậc THPT.
Trên đây là SKKN của tôi, rất mong được sự ủng hộ, đóng góp của các anh
chị em đồng nghiệp để bài dạy của tôi được tốt hơn và tâm huyết của tôi được
lan tỏa trong phạm vi rộng hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Cam kết của người viết:
Tôi xin cam đoan SKKN này là sản phẩm của cá nhân tôi. Tôi xin chịu
trách nhiệm về lời cam kết của mình
Như Thanh, ngày 20 tháng 05 năm 2019
17


Người viết

Nguyễn Kim Thành
Xác nhận của cơ quan

18


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Kim Thành
Chức vụ và đơn vị công tác: TTCM - Trường THPT Như Thanh – Thanh Hóa
Kết quả
Cấp đánh giá

Năm học
đánh
giá
xếp
loại
TT
Tên đề tài SKKN
đánh giá
(Ngành GD cấp
xếp loại
xếp loại
1.
2.
3.
4.

5.

Một số biện pháp khắc phục
khó khăn khi dạy tp của
Nguyễn Tuân cho HS THPT
Như Thanh
Một cách tiếp cận tp Nhàn
của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Con đường tôi luyện để trở
thành GVCN Giỏi
Rèn luyện kĩ năng lập luận
trong đoạn văn nghị luận cho
HS THPT qua giờ trả bài làm
văn

Hình thành 5 phẩm chất, 10
năng lực cho HS THPT qua
chuyên đề “Những yêu cầu về
sử dụng Tiếng Việt”.

huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Ngành

C

2007

Ngành

C

2010

Ngành

A

2013

Ngành

B


2016

Ngành

B

2018

19



×