Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

BỒI DƯỠNG NHÂN CÁCH học SINH THPT QUA VIỆC PHÁT HIỆN NHỮNG vấn đề xã hội TRONG một số tác PHẨM văn học lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.6 KB, 31 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT LÊ LỢI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

BỒI DƯỠNG NHÂN CÁCH HỌC SINH THPT
QUA VIỆC PHÁT HIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ HỘI
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚP 12 .

Người thực hiện: Đỗ Thị Huyền
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ Văn

THANH HÓA, NĂM 2018


Mục lục
STT
1

2

3
4

NỘI DUNG
Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài

Trang


2
2

1.2 Mục đích nghiên cứu

3

1.3 Đối tượng nghiên cứu

3

1.4 Phương pháp nghiên cứu
Nội dung

3
4

2.1 Cơ sở lý luận

4

2.2 Thực trạng của vấn đề

5

2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện

6

2.3.1 Giải pháp


6

2.3.2 Tổ chức thực hiện

7

2.4 Hiệu quả của SKKN

12

2.4.1 Hiệu quả đạt được

12

2.4.2 Bài học kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo

13
15
18

1


1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Hiện nay, đổi mới chương trình giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học,
đổi mới kiểm tra, đánh giá nhằm phát huy vai trò chủ động, tích cực, sáng tạo

của học sinh trong học tập đã được triển khai và áp dụng sâu rộng trong trường
học. Trong đó, học sinh đóng vai trò chủ động, tích cực khám phá và chiếm lĩnh
tri thức. Có thể nói đó là vấn đề thiết thực, tiến bộ, phù hợp với thời đại.
Những năm gần đây, cá nhân tôi nhận thấy học sinh đã thực sự trở thành
những chủ thể tích cực và sáng tạo, hiệu quả giáo dục đã được cải thiện và khởi
sắc. Ngành giáo dục đã cho ra đời những con người tài giỏi, năng nổ, thúc đẩy
và đóng góp lớn vào quá trình phát triển của đất nước. Đó là điều đáng mừng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, dư luận xã hội và các phương tiện
thông tin đại chúng cũng đang báo động về tình trạng xuống cấp đạo đức của
con người : sống vô trách nhiệm, vô cảm, bạo lực học đường, bạo hành gia đình,
lối sống thực dụng, hưởng thụ , …
Đó cũng là vấn đề mà những người làm công tác giáo dục có tâm với
nghề luôn suy nghĩ và trăn trở …
Có thể nói quá trình giáo dục nhân cách học sinh gồm có nhiều yếu tố.
Trong đó các môn học xã hội đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên là điều đáng nói là
trong những năm gần đây, hiện tượng học lệch ngày nay ở phần lớn học sinh đã
dẫn đến việc các em coi thường, học qua loa đối phó, … đối với phần lớn các
môn xã hội, trong đó có môn Ngữ văn. Mặc dù đây là bộ môn khoa học có
những giá trị to lớn về nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, góp phần quan trọng trong
việc hình thành và phát triển nhân cách của con người một cách tự nhiên và hiệu
quả nhất.
Là người giáo viên dạy văn, tôi luôn tâm niệm, dạy văn trước hết là dạy
làm người, học văn trước hết là học làm người, tôi rất quan tâm và trăn trở về
vấn đề phát triển nhân cách học sinh. Vì vậy, trong nhiều năm qua tôi rất chú
trọng việc giáo dục nhân cách học sinh trong quá trình dạy học Ngữ văn bằng
cách thức giúp các em tích cực, chủ động khám phá ra các vấn đề xã hội trong
2


tác phẩm văn chương, từ đó nhận thấy văn học rất gần gũi, gắn liền với đời

sống và nhận thức được giá trị giáo dục của văn học, hình thành, phát triển
và hoàn thiện nhân cách. Với mong muốn góp phần hoàn thiện nhân cách học
sinh và phát huy giá trị giáo dục lớn lao của văn học nên tôi mạnh dạn chia sẻ
với quý đồng nghiệp một kinh nghiệm nhỏ qua đề tài: BỒI DƯỠNG NHÂN
CÁCH HỌC SINH THPT QUA VIỆC PHÁT HIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ XÃ
HỘI TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN HỌC LỚP 12.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trang bị cho học sinh những hiểu biết cần thiết, cơ bản về những vấn đề
của đời sống xã hội, giáo dục ý thức đạo đức, bồi dưỡng nhân cách để các em
trở thành những công dân tốt biết sống và làm việc cống hiến cho đất nước.
1.3 Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 12 THPT.
- Việt Bắc(Tố Hữu)
-

Tây Tiến(Quang Dũng)

-

Vợ chồng APhủ(Tô Hoài)

-

Vợ nhặt(Kim Lân)

-

Rừng xà nu(Nguyễn Trung Thành)

-


Những đứa con trong gia đình(Nguyễn Thi)

-

Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu)

-

Văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt(Lưu Quang Vũ)

1.4 Phương pháp nghiên cứu:
+ PP nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: nghiên cứu và khảo lược các tài liệu
trên sách, báo, mạng internet…
+ Phương pháp thu thập thông tin; PP thống kê, xử lý số liệu: Phương pháp
thống kê, mô tả thực trạng đối tượng học sinh tại trường THPT và ý thức của
học sinh phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc hình thành đạo đức, nhân
cách của học sinh.

3


2. Nội dung
2.1 Cơ sở lý luận
Văn học là một bộ môn nghệ thuật. Trước hết tác phẩm văn học là một
tấm gương phản chiếu cuộc sống. Tác phẩm văn học là kết quả của quá trình nhà
văn khám phá, lí giải cuộc sống rồi chuyển hóa những hiểu biết đó vào nội dung
tác phẩm. Qua lăng kính nghệ thuật nhà văn trực tiếp hay gián tiếp chuyển tải
những vấn đề xã hội vào trong tác phẩm văn chương. Bởi vậy văn học là cuộc
sống, gần gũi và gắn bó với mỗi người. Nó giúp chúng ta hiểu biết rõ hơn, sâu

hơn về cuộc sống xung quanh và chính bản thân mình, từ đó tác động vào cuộc
sống hiệu quả hơn. Thông qua cuộc sống và hình ảnh của nhiều người khác nhau
được trình bày trong các tác phẩm cụ thể, văn học còn giúp cho mỗi người đọc
hiểu được bản chất của con người nói chung. Đồng thời chính từ cuộc đời người
khác, mỗi người đọc có thể liên hệ, so sánh, đối chiếu để hiểu bản thân mình
hơn với tư cách là một con người cá nhân.[1]
Tác phẩm văn chương chứa đựng nhiều giá trị. Nhà văn khi phản ánh hiện
thực cuộc sống thông qua tác phẩm văn học, dù trực tiếp hay gián tiếp bao giờ
cũng bộc lộ một thái độ tư tưởng, tình cảm, một sự nhận xét, đánh giá của mình,
… như vậy, tất cả đều sẽ tác động đến người đọc. Bởi con người ta nhận thức
không chỉ để nhận thức mà nhận thức là để hành động. Con người không chỉ có
nhu cầu hiểu biết mà còn có nhu cầu hướng thiện, khao khát một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Chính vì vậy, văn học có khả năng đem đến cho người đọc những bài
học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt đẹp
hơn.Về tư tưởng, văn học hình thành trong người đọc một lí tưởng tiến bộ, giúp
cho học có thái độ và quan điểm đúng đắn về cuộc sống. Về tình cảm, văn học
giúp con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng hơn. Về đạo đức, văn
học nâng đỡ cho nhân cách của con người phát triển, giúp cho học biết phân biệt
phải – trái, tốt - xấu, đúng - sai, có quan hệ tốt đẹp và biết gắn bó cuộc sống của
cá nhân mình với cuộc sống của mọi người. Tóm lại, là văn học có giá trị giáo
dục lớn lao, nó có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm con người theo

4


chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, đồng thời làm cho con người ngày càng
hoàn thiện về đạo đức.
Tuy nhiên đặc trưng giáo dục của văn học hoàn toàn khác với những
nguyên tắc áp đặt của pháp luật hay những lời giáo huấn trực tiếp trong những
bài giảng về đạo đức. Bởi lẽ, văn học giáo dục con người bằng con đường đi từ

cảm xúc đến nhận thức, bằng cái thật, cái đúng, cái đẹp của những hình tượng
sinh động, đầy sức thuyết phục. Có lẽ vì thế tác dụng giáo dục của văn học
không phải ngay lập tức mà dần dần thấm sâu nhưng rất lâu bền, nó gợi ra
những cảm nghĩ sâu xa về cuộc đời và con người, nó gián tiếp đưa ra những bài
học những đề nghị về cách sống. Với những khả năng ấy, văn học không những
góp phần hoàn thiện nhân cách con người mà còn hướng họ tới những hành
động cụ thể, thiết thực, vì một cuộc đời ngày càng tốt đẹp hơn. Mặt khác văn
học còn có khả năng giúp con người biết cảm nhận và rung động một cách tinh
tế, sâu sắc trước mọi vẻ đẹp của cuộc đời, hướng họ đến chân, thiện, mĩ.
Dựa vào những cơ sở những giá trị của văn học, đặc biệt là giá trị giáo
dục, chúng tôi đề xuất cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn
đề xã hội trong tác phẩm văn học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
Ngữ văn, nhất là hiệu quả giáo dục nhân cách học sinh THPT thông qua những
tác phẩm văn học.
2.2 Thực trạng của vấn đề
Từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế,
việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây
dựng hệ giá trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
được giải quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện
xem nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, chạy theo thị hiếu
không lành mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống
lành mạnh trung thực, có lý tưởng…với lối sống ích kỉ, thực dụng…đang diễn ra
hàng ngày. Bên cạnh những giá trị mới được hình thành trong quá trình hội
nhập, những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều

5


tầng lớp nhân dân, đặc biệt là học sinh, lứa tuổi đang trong giai đoạn phát triển
nhân cách.

Để chuẩn bị cho hành trang vào đời, các bạn học sinh không chỉ mang
theo vốn kiến thức được học mà phải là người có đạo đức tốt, hay nói đúng hơn
“trước khi thành tài thì phải thành nhân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã
từng nói: “có tài mà không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài
thì làm gì cũng khó” qua đó cũng đủ hiểu Người coi trọng như thế nào về đạo
đức lối sống, tác phong. Yếu tố đó không những quyết định kết quả học tập mà
quyết định đến tương lai và cuộc đời của mỗi bạn. “Giới trẻ là tương lai của xã
hội và nhân loại”. Đã đến lúc xã hội cần nhìn nhận vấn đề đạo đức học sinh
trong nhà trường hiện nay với một tinh thần trách nhiệm và nghiêm túc. Cần
phải đổi mới hoàn toàn cách thức mà lâu nay chúng ta đã dùng để giáo dục đạo
đức học sinh. Bản thân giáo dục đã mang tính xã hội hóa, nhà nước cần tạo điều
kiện để toàn dân tham gia vào công tác giáo dục học sinh. Điều quan trọng là
cần có một môi trường xã hội lành mạnh, mọi người sống tuân thủ pháp luật và
tôn trọng những giá trị đạo đức xã hội. Một môi trường xã hội tốt sẽ tác động
vào nhận thức của học sinh, sinh viên và các em cũng phải tuân thủ những
nguyên tắc ứng xử đã được học trong nhà trường mà cả xã hội đang áp dụng.
2.3 Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Giải pháp.
a. Đẩy mạnh giáo dục về nhân cách con người
Một trong những nội dung được nhiều học sinh kiến nghị là cần quan tâm
hơn nữa đến việc giáo dục kỹ năng sống trong trường học. Đa số phụ huynh học
sinh đều đồng tình lứa tuổi cấp 3 cần dạy thêm kỹ năng sống và kỹ năng thực
hành xã hội, đó là những kỹ năng giáo dục về nhân cách con người. Nhà trường
có thể giáo dục học sinh về tình yêu thương, tấm gương của sự thành công… và
khi được đào tạo các kỹ năng này bài bản trong chương trình THPT thì học sinh
khi bước ra cuộc sống sẽ có kỹ năng thực hành xã hội cần thiết, sống sâu sắc và
biết quan tâm đến người khác.
b. Cần điều chỉnh chương trình học
6



Hiện nay chương trình các môn học còn khá nặng về kiến thức, khiến cho
học sinh không có thời gian tham gia các hoạt động phong trào, hoạt động xã
hội. Do việc học quá nặng nên học sinh dành hết thời gian học ở trường và các
lớp học thêm nên thời gian dành cho hoạt động đoàn hạn chế, thậm chí một số
bạn không hứng thú với hoạt động này. Hầu hết học sinh đều mong muốn, ngành
giáo dục giảm chương trình học để các bạn có thời gian tham gia các hoạt động
đoàn. Thực tế, chương trình học nặng về hình thức. Có giáo viên chủ nhiệm phải
“chạy” giáo án lấy tiết sinh hoạt để làm bài kiểm tra, trong khi thời gian dành
cho việc xây dựng tình cảm giữa giáo viên và học sinh bị bó hẹp. Để học sinh
phát triển đức - thể - mỹ, cần điều chỉnh thời gian học cho phù hợp.
c. Giải pháp cụ thể
Giáo viên cho học sinh nêu vấn đề xã hội mà các em đã phát hiện trong
quá trình chuẩn bị bài ở nhà và tìm hiểu tác phẩm trên lớp. Nếu học sinh chưa
nêu được những vấn đề xã hội trọng tâm theo yêu cầu, giáo viên có thể đặt ra hệ
thống câu hỏi định hướng, gợi mở vấn đề.
Sau khi học sinh đã nêu ra được những vấn đề xã hội trọng tâm được
phản ánh trong tác phẩm văn học, giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận và
trình bày ý kiến của bản thân về vấn đề đó trước lớp.
Giáo viên nhận xét, đánh giá, cho điểm phần trình bày của học sinh.
2.3.2 Tổ chức thực hiện.
a. Đối với chương trình Ngữ văn lớp 12 :
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh phát hiện một số vấn đề xã hội trọng
tâm trong các tác phẩm văn học như :
-

Việt Bắc(Tố Hữu): Tình quân dân

-


Tây Tiến(Quang Dũng):Trách nhiệm và lí tưởng của người trai với đất
nước.

-

Vợ chồng APhủ(Tô Hoài): Tinh thần tự đấu tranh giải phóng

-

Vợ nhặt(Kim Lân): Khát vọng sống và lòng nhân ái.

-

Rừng xà nu(Nguyễn Trung Thành): Vai trò của đồng bào dân tộc thiểu số
trong công cuộc giữ nước.
7


-

Những đứa con trong gia đình(Nguyễn Thi): Mối quan hệ giữa gia đình và
xã hội

-

Chiếc trhuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu): Bạo lực gia đình và trách
nhiệm của cha mẹ với con cái.

-


Văn bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt(Lưu Quang Vũ): Cuộc đấu tranh với
chính mình.

b. Ứng dụng trong một số bài học cụ thể
Tác phẩm Vợ chồng APhủ:
Sau khi hướng dẫn học sinh khám phá ra những vấn đề xã hội trong tác phẩm
văn học như : Tinh thần tự đấu tranh giải thoát bản thân, tinh thần đấu tranh
cách mạng giải phóng dân tộc, … giáo viên tổ chức học sinh thảo luận về các
vấn đề trên.
Sau cùng giáo viên nhận xét, đánh giá phần phát biểu của học sinh và có thể
nhấn mạnh những ý cơ bản :
Khi kẻ bị ức hiếp, áp bức, bóc lột, đè nén, … phản ứng của con người thường
là bất bình, phẫn uất, và phản kháng. Tuy nhiên, sự phản ứng thường là tiêu cực.
Chẳng hạn như nhân vật Mị vậy. Khi mới bị bắt cóc ép phải làm dâu gạt nợ, phải
sống cuộc sống đầy cơ cực, tủi nhục, ban đầu, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị
định tự tử. Khi ý định tự tử không thành, Mị cam chịu an phận. Sự cam chịu an
phận ấy không phải do sự thiếu hiểu biết về quyền sống, quyền tự do và hạnh
phúc của bản thân mà chính là do sự khiếp nhược của Mị cũng như của nhiều
người đàn bà khác trong nhà thống lí Pátra. Sự khiếp nhược khiến cho họ tê liệt
tinh thần phản kháng đấu tranh và kết cục là nhiều người đàn bà đã chết thảm
trong tay chúng, những người còn lại thì phải sống cuộc đời tủi nhục, đắng cay.
Nhưng cuối cùng, Mị đã tự do. Sự tự do ấy có được là bởi chính Mị biết dũng
cảm vượt lên trên cái chết để dành lại. Như vậy, sống là phải biết mạnh mẽ vùng
lên đấu tranh, đấu tranh với sự khiếp nhược của bản thân và đấu tranh với cái
xấu, cái ác.

8


Tác phẩm Vợ nhặt(Kim Lân)

Giáo viên cũng hướng dẫn học sinh thực hiện quá trình khám khá và tìm
hiểu vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học như những bài trên. Sau đó xác định
những vấn đề xã hội trọng tâm: Đó là khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc
mãnh liệt, là tấm lòng nhân hậu và tinh thần lạc quan của người nông dân Việt
Nam qua nhân vật Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Từ đó giúp các em nhận ra những bài học quý giá về sự sống khi phải đối
mặt với hoàn cảnh khó khăn, nghiệt ngã, cách cư xử nhân ái với đồng bào, đồng
loại mà mỗi người đều cần phải có.
Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Trung Thành):
Tiến hành các bước tương tự những bài trên, giáo viên sẽ giúp học sinh
nhận ra: Vai trò và sự tác động lớn lao của gia đình trong việc hình thành và
phát triển nhân cách, các tố chất của các thành viên.
Lối sống của ông bà, cha mẹ, chú bác, anh chị, … sẽ ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống của con cháu họ. Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình,
hình ảnh người ông, người cha, người mẹ, người chú, … yêu nước, gan góc,
dũng cảm, bản lĩnh, kiên cường bất khuất tham gia hoạt động cách mạng cứu
nước và giàu lòng nhân hậu đã thấm sâu vào tâm trí, tư tưởng chị em Việt và
Chiến, tác động mạnh mẽ đến nhân cách, lí tưởng sống của họ, khiến hai chị em
trở thành những người con tiếp nối những truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê
hương, đất nước.
Vì vậy mỗi người chúng ta phải có ý thức giữ gìn truyền thống gia đình,
là tấm gương sáng cho con cháu mình. Mỗi gia đình là tế bào của xã hội, xã hội
làm nên bộ mặt của đất nước.
Chiếc thuyền ngoài xa(Nguyễn Minh Châu):
Tiến hành các bước như trên, giáo viên sẽ giúp họ sinh chủ động phát hiện
vấn đề xã hội được phản ánh trong tác phẩm: Đó là hiện tượng bạo hành gia
đình và vai trò, trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái, sự quan tâm đến người
khác các thành viên trông gia đình.

9



Tham gia thảo luận trên lớp sẽ giúp học sinh nhận thức được: Bạo hành gia
đình là hiện tượng tiêu cực để lại nhiều hậu quả nặng nề, làm tổn thương đến
người bị bạo hành, gây nguy cơ đổ vỡ hạnh phúc gia đình, ảnh hưởng xấu đến
qúa trình hình thành và phát triển nhân cách của con trẻ, v.v và trách nhiệm của
cha mẹ đối với con cái. Cha mẹ sinh ra con cái phải có trách nhiệm đối với
chúng – cho chúng một không khí gia đình hòa thuận hạnh phúc, nuôi dạy
chúng nên người, không vì hạnh phúc, sự ích kỉ cá nhân mà làm gia đình tan vỡ,
làm tổn hại tâm hồn và tương lai của con trẻ.
Giáo viên cũng có thể đặt ra các tình huống cho học sinh thảo luận, tìm
hướng giải quyết, chẳng hạn như :
Nếu em là nhân vật Phùng, khi chứng kiến cảnh người chồng hàng chài đánh
vợ tàn bạo, em sẽ làm gì ?
Nếu em là nhân vật thằng bé Phác, em sẽ xử sự như thế nào khi thấy cha
mình bất hòa, bạo hành mẹ ?
Qua việc thảo luận, học sinh sẽ nhận thức được những nhiều bài học về nhân
cách sống như phải biết cách xử sự phù hợp khi các thành viên trong gia đình
bất hòa dẫn đến xô xát, bạo hành đồng thời phải biết đấu tranh chống lại cái
ác, bảo vệ kẻ yếu, phải biết quan tâm, giúp đỡ người khác, biết giải gỡ vấn đề
một cách hiệu quả, nhất là biết nhìn nhận đánh giá con người một cách toàn
diện, nhân hậu, bao dung v.v.
Tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt(Lưu Quang Vũ)
Tiến hành theo cách thức trên, GV cũng có thể đặt ra những tình huống cho
học sinh giải quyết, phát hiện vấn đề và bày tỏ suy nghĩ của bản thân về vấn đề
đó :
- Tâm trạng của hồn Trương Ba như thế nào khi nhận ra bi kịch mình bị thân
xác hàng thịt điều khiển, biến thành kẻ tha hóa, sa đọa?
- Hãy tưởng tượng cuộc sống của Hồn Trương Ba khi ông nhập hồn vào thân
xác cu Tị.

- Nếu em là Trương Ba, trong màn đối thoại với Đế Thích, em sẽ giải quyết
vấn đề của bản thân như thế nào? Tại sao ?
10


Qua đối thoại, giáo viên sẽ giúp học sinh nhận thức được bài học quý giá về
tinh thần tự đấu tranh với bản thân.
Trong văn bản, nhân vật hồn Trương Ba đã rơi vào bị kịch tha hóa, bi kịch
tinh thần. Sau một quá trình nhận thức ông đã quyết liệt đấu tranh với bản thân,
với cả cái chết để hướng đến một cuộc sống trong sạch và toàn vẹn .
Như vậy cuộc đấu tranh với bản thân là cuộc đấu tranh hết sức khó khăn,
nhưng hết sức cần thiết để gìn giữ phần Người trong mỗi con người … Cuộc
đấu tranh đó đòi hỏi con người phải có lòng dũng cảm, bản lĩnh và cả sự hi
sinh.

11


2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Hiệu quả đạt được.
Hiệu quả của cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học
Bản chất của cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát hiện ra vấn đề
xã hội trong tác phẩm văn học là việc vận dụng nhiều phương pháp trong quá
trình dạy và học, đạt được nhiều hiệu quả :
Trước hết để thực hiện phương pháp này học sinh sẽ phải chủ động tích cực
chuẩn bị bài ở nhà, tìm hiểu kĩ về tác phẩm, phát hiện những vấn đề xã hội và
những thông điệp của tác giả, từ đó các em có tâm thế và hứng thú trong tiết
học trên lớp.
Thứ hai trong tiết học, giáo viên còn tổ chức tiết học bằng việc vận dụng

phương pháp dạy học như phát vấn, thảo luận nhóm, bình giảng, … . Điều này
sẽ giúp không khí học tập sinh động, học sinh được tự do, mạnh dạn bày tỏ ý
kiến quan điểm của mình về một vấn đề, cũng là phương thức đối thoại giữa
học sinh với nhà văn, giữa học sinh với giáo viên, và giữa học sinh với học
sinh, rèn luyện kĩ năng diễn đạt, tranh luận … Do vậy việc tiếp nhận tác phẩm
văn học không còn mang tính thụ động, áp đặt. Đồng thời qua đó giáo viên có
thể đánh giá được thái độ học tập của học sinh, nắm bắt mức độ tiếp nhận tác
phẩm văn học, mức độ hiểu biết của các em về các vấn đề xã hội ,… nhằm có sự
khích lệ hoặc có định hướng tích cực, kịp thời.
Thứ ba, việc tiếp nhận tác phẩm văn học một cách chủ động, tích cực còn sẽ
giúp học sinh thấy tác phẩm văn học không phải là cái gì xa lạ, tách rời cuộc
sống mà rất gần gũi, gắn bó với cuộc sống. Văn học là cuộc sống. Tiếp nhận
một tác phẩm văn chương một cách tích cực, học sinh sẽ có sự thấu hiểu và
đồng cảm, học hỏi được những giá trị tinh thần quý báu của nhà văn, từ đó tự
điều chỉnh đời sống cá nhân theo hướng tích cực, hướng đến chân, thiện , mĩ
một cách tự nhiên nhất .[2]

12


Thứ tư, việc tích cực, chủ động phát hiện, tìm hiểu về các vấn đề xã hội
trong tác phẩm văn học còn giúp học sinh phát triển tư duy, rèn luyện kĩ năng
làm văn nghị luận xã hội .
Kết quả giờ học thực nghiệm:
Trước khi áp dụng:
Lớp

Sĩ số

12A5

45
12A8
46
Sau khi áp dụng:
Lớp

Sĩ số

Không hứng thú
Số lượng
30
35

Không hứng thú

%
66,6
76,1

Hứng thú
Số lượng
15
11

%
33,4
23,9

Hứng thú


Số lượng
%
Số lượng
12A5 45
2
4,4
43
12A8 46
2
4,3
44
Qua kết quả đạt được đó cho thấy rằng các em đã yêu thích

%
95,6
95,7
bộ môn văn

học, phần nào đã nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn Ngữ văn và
thấm nhuần các tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh trong tâm tư tình cảm của
mình.
2.4.2 Bài học kinh nghiệm.
Để có thể tổ chức hiệu quả những tiết dạy học tác phẩm văn chương theo
cách thức giúp học sinh chủ động, tích cực, bồi dưỡng nhân cách học sinh qua
việc phát hiện những vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học, giáo viên cần lưu ý
một số vấn đề sau :
Mỗi tác phẩm văn chương nghệ thuật chứa đựng những hình tượng nghệ
thuật đa nghĩa, phản ánh nhiều vấn đề xã hội khác nhau. Vì vậy trước hành
động tích cực tiếp nhận của người đọc, nó hiện lên như một cấu trúc vừa ổn định
vừa biến đổi của những hình ảnh mang ý nghĩa thẩm mĩ. Nội dung ý nghĩa của

tác phẩm là một hệ thống mở đối với những cách lí giải khác nhau. Cho nên mỗi
sự phát hiện, cắt nghĩa, lí giải đúng đắn, hợp lí về ý nghĩa tác phẩm đều có khả
năng mang lại cho học sinh những tác động ảnh hưởng nhất định, tạo nên hệ quả
đa chiều. Vì vậy, trong giờ đọc văn, giáo viên cần tránh giới hạn, gò ép vào một
13


kết quả diễn giảng duy nhất, vào quan điểm, ý đồ của nhà văn mà cần gợi ra cho
học sinh nhiều chiều hướng lí giải khác nhau về ý nghĩa tác phẩm. Đặc biệt cần
tránh tình trạng chỉ chú trọng khai thác khía cạnh xã hội mà không có sự đầu tư
thỏa đáng cho việc tiếp nhận những giá trị khác của tác phẩm văn học.
Ngoài ra, việc tiếp nhận văn học của học sinh bao giờ cũng vừa mang tính
cá nhân gắn liền với cảm xúc, vốn sống, thị hiếu, trình độ, tâm lí riêng của từng
cá thể lại vừa mang tính tập thể xã hội, thể hiện sự gặp gỡ, quan điểm chung,
tiếng nói hòa đồng của tập thể lớp. Cho nên giáo viên cần phải tác động và xử lí
thông qua các định hướng sư phạm thích hợp, tinh tế nhằm cân bằng ở chừng
mực nhất định, tạo ra được sự nhất trí thỏa đáng trên tinh thần chung của lớp
học, đồng thời nhấn mạnh và phát huy tính tích cực sáng tạo, năng động chủ
quan của học sinh. Muốn vậy, giáo viên cần có những định hướng cho từng đối
tượng học sinh, phải nhạy bén nắm bắt, kích thích và phát huy tính sáng tạo của
các em, khơi gợi các hoạt động bên trong của mỗi học sinh để các em tiếp nhận
tác phẩm, tự tin và hào hứng phát biểu ý kiến, bộc lộ cái riêng của mình.
Trong quá trình dạy học, giáo viên cần vận dụng nhiều phương pháp, nhất
là phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm, phát vấn … tạo không khí học tập
nhẹ nhàng, linh hoạt, thân thiện nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả sư phạm, phát huy
được tối đa tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập.
Mặt khác, việc giáo viên nhận xét, đánh giá ý kiến phát biểu của học sinh
cũng hết sức quan trọng. Nó là một trong những yếu tố tạo hứng thú học tập cho
học sinh, tác động trực tiếp đến hiệu quả giáo dục. Vì vậy, giáo viên cần nắm
vững kĩ năng sư phạm, nhạy bén, xử lí tình huống hợp lí, có sự định hướng,

nhận xét và đánh giá thỏa đáng, điều chỉnh, uốn nắn những quan niệm, cách
nghĩ, cách hiểu lệch lạc, sai quỹ đạo chung, đồng thời, động viên khen ngợi,
thưởng điểm cho những học sinh đúng lúc sẽ giúp các em hứng thú, chủ động,
tích cực hơn trong việc học văn.
3. Kết luận, kiến nghị
Kết luận
14


Văn học là nhân học. Vấn đề giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua
các tác phẩm văn học nghệ thuật có thể nói rằng đã được hầu hết giáo viên thực
hiện trong các tiết học. Tuy nhiên để thực hiện việc giáo dục nhân cách học sinh
thông qua một phương pháp cụ thể như trên thì không phải ai cũng làm. Trong
quá trình dạy học, người viết đã thực nghiệm nhiều năm qua và nhận thấy
phương pháp này đã đạt được những hiệu quả nhất định. Bởi vậy xin được mạnh
dạn chia sẻ cùng quý thầy cô về cách thức giúp học sinh tích cực, chủ động phát
hiện những vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học, để từ đó bồi dưỡng nhân
cách cho học sinh THPT. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô để bài viết mang tính khả thi hơn nhằm đạt hiệu quả hơn trong
sự nghiệp giáo dục,“trồng người”.
Người viết tin rằng, với cái tài, cái tâm và trách nhiệm của một giáo viên
dạy văn, chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục đào tạo nên những thế hệ con người tài
đức vẹn toàn, góp phần phát triển đất nước và làm cho xã hội ngày càng tốt đẹp
hơn.
Kiến nghị
Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, tri thức của con
người phát triển rất nhanh và cũng nhanh bị thay đổi. Kho tàng kiến thức của
nhân loại ngày một phong phú và rộng lớn, một số tri thức cũng nhanh bị lạc hậu
và đào thải theo thời gian. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ là
sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông làm cho thế giới

ngày một “phẳng ra”, con người có điều kiện hòa nhập vào cộng đồng quốc tế,
mỗi quốc gia muốn phát triển cũng phải hội nhập quốc tế. Điều kiện tiên quyết
để một quốc gia có thể hội nhập với thế giới có lẽ phải bắt đầu từ giáo dục.
Chính vì thế tham vọng trang bị cho người học đầy đủ kiến thức cơ bản
của nhân loại trong chương trình giáo dục là “không thể, không cần thiết và
không hiệu quả”.[5] Bởi vậy, các cấp ban ngành cần:
Đổi mới phương thức đào tạo để khuyến khích khả năng tự học của học sinh
bậc học phổ thông:
15


Có nhiều cách hiểu và quan niệm về mục tiêu giáo dục, theo những tiếp
cận giáo dục hiện đại, có thể tóm tắt mục tiêu giáo dục ở các nhà trường phổ
thông hiện nay bao gồm: Kiến thức, kỹ năng và thái độ (hay kiến thức, kỹ năng
trí tuệ, kỹ năng sống - nhân cách). Năng lực của con người hiện nay được đánh
giá trên cả ba khía cạnh: Kiến thức, kỹ năng và thái độ, vậy mục tiêu của bậc
học phổ thông là: Hình thành và phát triển được nền tảng tư duy trí tuệ của con
người trong thời đại mới:
Kiến thức và kỹ năng cơ bản.
Kỹ năng tư duy khoa học: kỹ năng tư duy phân tích, suy luận, tổng hợp, lôgic…
Kỹ năng phát hiện và giải quyết vấn đề, Kỹ năng tư duy sáng tạo, phản biện. Kỹ
năng tự học và tự học hiệu quả.
Nhân cách và kỹ năng sống: Kỹ năng lãnh đạo bản thân như: trung thực, chủ
động, tự trọng và tự tin. Kỹ năng đặt mục tiêu, tạo động lực, tổ chức công việc
hiệu quả. Kỹ năng ứng xử - giao tiếp, lắng nghe, đàm phán, trình bày thuyết
trình. Kỹ năng làm việc nhóm, đồng đội…
Do đó nhiệm vụ của nhà trường trong thời đại hiện nay thay vì truyền thụ
kiến thức đơn thuần phải chú trọng đến việc trang bị cho người học khả năng tự
học để cho mỗi người có thể học suốt đời, người có học là người biết mình phải
học nữa và biết cách học thêm nữa để bồi tri thức, kỹ năng và nhân cách sống

cho bản thân mình.
Từ tư duy đó cũng cần phải đổi cách dạy, cách học và kiểm tra đánh giá
kết quả của quá trình học. Dạy học của thời đại này là dạy cách học, học là học
cách học có thể học suốt đời.
Chức năng của nhà trường bây giờ là: Phải tạo cho người học có cách học
hợp lý để có khả năng tự học, nâng cao kỹ năng tư duy để phát triển không
ngừng.
Tổ chức thi để đánh giá kết quả học tập thông qua đánh giá năng lực của
người học trước những vấn đề cần giải quyết thay vì tổ chức thi cử để đánh giá
những kiến thức thu nhận được qua bài giảng

16


Với mong muốn như trên, tôi xin chia sẻ một vài kinh nghiệm đã và đang
vận dụng trong giảng dạy: bồi dưỡng nhân cách cho học sinh THPT qua việc
phát hiện những vấn đề xã hội trong một số tác phẩm văn học lớp 12, rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thanh hoá, ngày 20 tháng 5 năm 2018
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác

Đỗ Thị Huyền

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Sách giáo khoa Ngữ văn 12, chương trình chuẩn - Bộ GDĐT- NXB
Giáo dục 2006
[2] Đỗ Ngọc Thống (2011), Chương trình Ngữ văn trong nhà trường phổ
thông Việt Nam, NXB GD.
[3] A.N. Lêônchiep (1989), Hoạt động - ý thức - nhân cách, NXB GD
(Phạm Minh Hạc, Phạm Hoàng Gia, Phạm Huy Châu dịch).
[4] Cẩm nang ôn luyện môn văn, nxb GD, 2017.
[5] Tham khảo một số tài liệu trên mạng internet
- Báo dân trí: Giá trị của môn ngữ văn trong nhà trường
- Tạp chí nghiên cứu văn học 6/2011
- Đổi mới chương trình Ngữ văn, báo giáo dục thời đại.

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI ĐÃ ĐƯỢC HĐKH CẤP SỞ GD & ĐT ĐÁNH GIÁ ĐẠT
TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Huyền
Đơn vị công tác: THPT Lê Lợi – Thọ Xuân
Cấp đánh giá
TT Tên đề tài SKKN

xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

1.


Vấn đề xây dựng tình huống QĐ

số

Kết quả
đánh giá

Năm học

xếp loại

đánh giá

(A, B,

xếp loại

hoặc C)
B

2007 - 2008

C

2008 - 2009

C

2010 - 2011


C

2011 - 2012

B

2012 - 2013

học tập cho học sinh trong 932/QĐ-SGD
giờ học tác phẩm văn chương Ngày 11/ 09/
2.

ở Trường THPT
2008.
Phát huy chủ thể học sinh Số
12/QĐtrong giờ dạy học tác phẩm SGD& ĐT
văn chương ở Trường THPT

3.

Ngày 05/ 01/

2010.
Một số giải pháp tích hợp kỹ QĐ

số

năng sống trong dạy và học 539/QĐmôn ngữ văn lớp 12 học kỳ I


SGD&ĐT
Ngày

4.

18/10/2011.
Phát huy tính tích cực của QĐsố871-/Q
học sinh qua việc xây dựng Đ-SGD&ĐT
tình huống học tập trong giờ Ngày
đọc - hiểu tác phẩm văn 18/12/2012
chương lớp 11 ở Trường

5.

THPT
Sử dụng một số kĩ thuật dạy QĐ số
học tích cực giúp học sinh hệ 743/QĐ-

19


thống kiến thức và ôn tập một GD&ĐT
số tác phẩm ngữ văn 12
6.

Ngày

04/11/2013
Giáo dục đạo đức cho học QĐ số


B

2013 -2014

B

2014 -2015

C

2015 -2016

C

2016 -2017

sinh THPT trong làm văn 753/QĐnghị luận xã hội về một hiện GD&ĐT
tượng đời sống
7.

Ngày

03/11/2014
Giáo dục tư tưởng đạo đức QĐ số
Hồ Chí Minh cho học sinh 745/QĐTHPT qua tác phẩm “Tuyên GD&ĐT
ngôn độc lập”

8.

Ngày


03/11/2015
Giáo ý thức bảo vệ môi QĐ số
trường cho học sinh Trung 972/QĐhọc phổ thông trong làm văn GD&ĐT
nghị luận xã hội về một hiện

9.

Ngày

tượng đời sống.
24/11/2016
Tích hợp nội dung Giáo dục QĐ số
tư tưởng đạo đức Hồ Chí 1112/QĐMinh cho học sinh THPT GD&ĐT
trong dạy - học thơ văn Hồ

Ngày

Chí Minh ở lớp 11 và 12.

18/10/2017

20


PHỤ LỤC
GIÁO ÁN MINH HỌA
Tiết 85, 86: Đọc văn: CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
NGUYỄN MINH CHÂU
I. Trọng tâm bài học: Giúp học sinh nắm được:

1. Kiến thức:
Cảm nhận được suy nghĩ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh khi phát hiện ra



mâu thuẫn éo le trong nghề nghiệp của mình; từ đó thấu hiểu mỗi người trong
cõi đời, nhất là người nghệ sĩ, không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận
cuộc sống và con người.
Thấy được nghệ thuật kết cấu độc đáo, cách triển khai cốt truyện rất sáng



tạo, khắc họa nhân vật khá sắc sảo của một cây bút viết truyện ngắn có bản
lĩnh và tài hoa.
2. Kĩ năng:
Định hướng góp phần hình thành các năng lực:
+ Năng lực giao tiếp, kĩ năng sống
+ Năng lực thẩm mĩ.
+ Năng lực tự học.
……
3. Thái độ:
+ Có ý thức hoàn thiện bản thân, có tình yêu đối với cái đẹp, đấu tranh cho lẽ
phải trong cuộc sống.
+ Có cái nhìn đa diện, đa chiều trước hiện thực cuộc sống.
+ Có tình yêu đối với thiên nhiên, tình yêu đối với gia đình.
II. Phương tiện dạy học


SGK, SGV.




Thiết kế bài học.



Màn hình máy chiếu.
III. Cách thức tiến hành
1. Ổn định lớp:


2. Kiểm tra bài cũ: Cảm nhận của em về nhân vật Việt trong truyện ngắn
“Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi ?
3.Tiến trình bài học:
Phương án 1:

- Đọc - hiểu văn bản, tổng hợp kiến thức:
- Dự kiến thời gian: 2 tiết

Sau 1975, đất nước thống nhất bước vào giai đoạn xây dựng, phát triển
trong hòa bình đã mở ra cho văn học những tiền đề mới. Nhiều nhà văn trăn trở,
tìm tòi hướng đi mới cho văn học trong tình hình mới: khám phá đời sống ở
phương diện đời thường trên bình diện đạo đức thế sự. Một trong những cây bút
tiên phong trong sự tìm tòi, khám phá là Nguyễn Minh Châu với một số tác
phẩm tiêu biểu như: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Chiếc
thuyền ngoài xa…Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu một tác phẩm tiêu biểu của
ông thuộc khuynh hướng này: Chiếc thuyền ngoài xa.
Hoạt động của Gv và Hs
Hoạt động 1.


Nội dung cần đạt

Khởi động
+ (Dự định):
-Trình chiếu bức ảnh buổi bình
minh trên biển và bức ảnh cuộc Hs nêu đúng tên tác phẩm đã học và đã
sống đông đúc, nheo nhóc, đông đọc. Hs nêu quan điểm của mình bằng
con của 1gia đình ngư dân trên dạng văn bản nói
chiếc thuyền.
? Em có cảm nhận gì về hai bức
ảnh?
? Nếu đặt bức ảnh thứ 2 vào khung
cảnh của bức ảnh 1, em có suy nghĩ
gì?
HS bày tỏ suy nghĩ. Giáo viên
nhận xét và dẫn dắt vào bài học.


– Hoạt động 2. Hình thành kiến I. Tìm hiểu chung
thức

1. Vài nét về tác giả:

I. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu – Sau 1975, khi văn chương chuyển
những nét khái quát về tác giả và hướng khám phá trở về với đời thường,
tác phẩm

Nguyễn Minh Châu là một trong số

– Nêu những nét chính về tác giả những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi

Nguyễn Minh Châu?

mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống

– Từ đó hãy rút ra nét cốt lõi về ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm điểm
cuộc đời, con người có ảnh hưởng những khám phá nghệ thụât của ông là
đến phong cách sáng tác của tác con người trong cuộc mưu sinh, trong
giả?

hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh

– Nguyễn Minh Châu có vị trí như phúc



hoàn

thiện

nhân

cách.

thế nào đối với văn học Việt Nam – Ông “thuộc trong số những nhà văn
sau 1975?

mở đường tinh anh và tài năng nhất của
văn

học


ta

hiện

nay”

-Nêu xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác, 2. Vài nét về truyện ngắn “Chiếc
cảm

hứng

của

tác

phẩm? thuyền ngoài xa”:

– Nêu những chi tiết, sự việc tiêu -Truyện in đậm phong cách tự sự – triết
biểu

trong

truyện

ngắn? lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu biểu

-Phân tích tác động của hoàn cảnh cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ
ra đời đến việc thể hiện nội dung tư thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác
tưởng của tác phẩm.


thứ hai.

-Dựa vào những chi tiết, sự việc đó, -Truyện ngắn lúc đầu được in trong
hãy

tóm

tắt

truyện

ngắn? tập Bến quê (1985), sau được nhà văn

-Dựa trên những hiểu biết về cốt lấy làm tên chung cho một tuyển tập
truyện, em hãy kể lại truyện theo truyện ngắn (in năm 1987).
lời văn của mình.

-Tóm tắt truyện:

II, Hướng dẫn học sinh đọc hiểu

II, Đọc hiểu truyện:

tác phẩm:

1.Tình huống truyện:

– Trong truyện ngắn, tác giả đã xây 1.1.


Tình huống phát hiện:


dựng những tình huống truyện hay. – Phùng thực hiện yêu cầu của trưởng
Em hãy chỉ ra tình huống truyện phòng nên thực hiện quá trình săn ảnh
đó? (Nhân vật Phùng đã có mấy của mình lí do tạo lên sự gặp gỡ:
phát hiện)

– Phùng phát hiện một cảnh đẹp trời
cho:

– Ở phát hiện thứ nhất, bức tranh + Đôi mắt tinh tường, “nhà nghề” của
vùng biển hiện lên như thế nào? người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp “trời
Cảm xúc của Phùng như thế nào cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà
khi chứng kiến bức tranh ấy? cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần.
Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc – đó
là niềm hạnh phúc của khám phá và
sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt
diệu .
+ Trong hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa
giữa biển trời mờ sương, anh đã cảm
– Phùng đã nhìn thấy cảnh tượng gì nhận cái đẹp toàn bích, hài hoà, lãng
trong phát hiện thứ 2. Tâm trạng mạn của cuộc đời, thấy tâm hồn mình
của anh như thế nào khi chứng kiến được thanh lọc. Phùng hạnh phúc, sung
cảnh tượng ấy?

sướng.
+ Phát hiện thứ 2 là cuộc gặp gỡ giữa
người nghệ sĩ nhiếp ảnh với gia đình
ngư dân rất tình cờ, bất ngờ, diễn ra

nhanh, giàu kịch tính: Người chồng tàn
nhẫn, vũ phu, người vợ cam chịu, đứa
con trai phản ứng gay gắtPhùng ngạc
nhiên, bất ngờ, ngỡ ngàng…tình huống
diễn ra dồn dập rồi tất cả biến mất như”
trong truyện cổ đầy quái đản”. Trong
tình huống gặp gỡ này, nhà văn đã bóc
tách dần cái đám sương mù trắng như


×