Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong đọc hiểu văn bản đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.06 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN TRÃI

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

CÁCH THỨC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CÂU HỎI GÓP
PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRONG GIỜ ĐỌC - HIỂU
VĂN BẢN “ĐÂY THÔN VĨ DẠ” CỦA HÀN MẶC TỬ.

Người thực hiện: Hoàng Thị Xuân
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2018


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU…………………………………………………………………
1.1. Lí do chọn đề tài……………………………………………….
1.2. Mục đích nghiên cứu…………………………………………...
1.3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………..
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………….
II. NỘI DUNG ……………………………………………………………
2.1. Cơ sở lí luận…………………………………………………….
2.1.1. Câu hỏi và câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) trong dạy
học...................................................................................................................
2.1.2. Câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học và vai trò
của câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học…….............................
2.2. Thực trạng vấn đề……………………………………………….....
2.2.1. Về phía giáo viên............................................................................


2.2.2. Về phía học sinh............................................................................
2.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi đọc - hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ”

1
1
2
2
2
3
3
3
3
4
4
4

của Hàn Mặc Tử góp phần nâng cao hiệu quả giờ đọc văn.……………
4
2.3.1. Xác định yêu cầu cần đảm bảo khi xây dựng câu hỏi trong
giờ dạy đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)…….................. 4
2.3.2. Xây dựng câu hỏi, tình huống học tập trong giờ dạy đọc 5
hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)........................................
2.4. Kết quả của Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi đọc- hiểu văn
12
bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử góp phần nâng cao hiệu quả giờ
đọc văn..........................................................................................................
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ …………………………………………
3.1. Kết luận…………………………………………………………
3.2. Kiến nghị………………………………………………………..


15
15
15

Tài liệu tham khảo………………………………………………………..

18

1


I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây, cùng với việc đổi mới phương pháp dạy-học, kiểm
tra, đánh giá, Bộ Giáo dục và Đào tạo có những đổi mới trong việc ra đề thi
THPT QG môn Ngữ văn. Điều đó thực sự phát huy được tính sáng tạo và kiểm
tra được năng lực cảm thụ văn học của học sinh... Chính cách ra đề thi như thế
đã tác động tích cực đến quá trình đổi mới dạy và học môn Ngữ văn ở các
trường THPT, được giáo viên và học sinh chủ động đón nhận.
Nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học mới được nghiên cứu vận dụng
nhằm phát huy vai trò chủ thể của học sinh trong đó có kỹ thuật đặt câu hỏi. Đặt
câu hỏi trong dạy học (đặc biệt những câu hỏi có vấn đề - tình huống học tập) có
ý nghĩa quan trọng trong việc tổ chức, hướng dẫn quá trình nhận thức giúp học
sinh chiếm lĩnh tri thức một cách có hệ thống và tạo không khí học tập sôi nổi.
Giáo viên qua câu hỏi có thể đánh giá được năng lực của học sinh, có được
thông tin phản hồi làm cơ sở cho sự điều chỉnh, bổ sung một cách phù hợp, kịp
thời những đơn vị kiến thức, kỹ năng trong giờ dạy.
Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy nói chung, giảng dạy môn Ngữ văn nói
riêng vẫn tồn tại tình trạng đầu tư cho việc xây dựng câu hỏi chưa thật sự thỏa
đáng. Phần nhiều câu hỏi sa vào chi tiết vụn vặt, đơn điệu, nhàm chán hoặc

trong câu hỏi đã bao hàm ý trả lời hoặc mang tính chiếu lệ, thiếu những câu hỏi
mang tính chất gợi mở, không có những tình huống gay cấn buộc học sinh phải
suy nghĩ, trăn trở vì thế giờ học trôi đi tẻ nhạt, học sinh không hứng thú, học qua
loa cho xong để rồi đến các kì thi, thực tế đáng buồn lại tái diễn: các em tìm
chép tài liệu, sai kiến thức cơ bản, suy diễn nội dung tác phẩm một cách thô
thiển, tách rời nội dung và nghệ thuật của tác phẩm…
Đứng trước yêu cầu của xã hội, trước thực trạng dạy học môn Ngữ văn,
tôi luôn trăn trở, suy nghĩ làm thế nào để vận dụng một cách có hiệu quả những
phương pháp, dạy học tích cực để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Trong
quá trình giảng dạy, nhận thấy vai trò quan trọng và ưu thế của cách thức đặt câu
hỏi nên tôi đã đầu tư xây dựng hệ thống câu hỏi cho các giờ dạy, đặc biệt chú ý
xây dựng những câu hỏi có vấn đề nhằm khơi dậy hứng thú học văn của học
sinh, kích thích sự phát triển trí tuệ và giúp các em lưu giữ kiến thức lâu hơn.
Chính vì thế, tôi chọn “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử - SGK Ngữ
văn 11(chương trình chuẩn và nâng cao) - để trình bày sự vận dụng hệ thống đặt
câu hỏi vì đây là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, chứa nhiều mâu
thuẫn nghệ thuật đặc thù, không những thế “Đây thôn Vĩ Dạ” còn được đánh
giá là văn bản hay song học sinh khó tiếp cận.Với những đặc điểm trên, có thể
nói tác phẩm mở ra mảnh đất phì nhiêu để giáo viên xây dựng những câu hỏi
chứa đựng tình huống học tập. Từ đó rút ra kinh nghiệm của bản thân, để trao
đổi và được cùng bàn bạc, thảo luận ở đề tài: Cách thức xây dựng hệ thống
câu hỏi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong đọc- hiểu văn bản “Đây
thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu
Đáp ứng việc dạy và học có chất lượng theo yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học mà Đảng, Nhà nước và Ngành giáo dục luôn quan tâm và đề cao
hiện nay.

Trên cơ sở đó bài viết ( sáng kiến) đưa ra những bước, những thao tác cụ
thể theo tiến trình bài dạy đọc- hiểu một văn bản thơ mới. Góp phần hình thành
nên phương pháp, kĩ năng đọc - hiểu thể loại văn bản này. Đồng thời giúp học
sinh phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo trong học tập, hứng thú yêu thích
với bộ môn
Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm là nghiên cứu, phát huy tính chủ
động, sáng tạo của học sinh, đòi hỏi phải có những phương pháp để tiến hành có
hiệu quả một tiết dạy Ngữ văn chính là xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp với
đối tượng học sinh qua đó giúp học sinh khám phá, cảm thụ tác phẩm văn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học văn bản một tác
phẩm thơ mới: “Đây thôn Vĩ Dạ” – Hàn Mặc Tử. Hệ thống câu hỏi phù hợp
với đối tượng học sinh
* Phạm vi nghiên cứu:. Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả trong đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp chủ
yếu sau:
+ Phương pháp thống kê;
+ Phương pháp phân tích, chứng minh, bình luận
+ Các phương pháp nghiên cứu văn học khác
+ Phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp loogic,tông hợp

3


II. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1.Câu hỏi và câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) trong dạy học
- Câu hỏi là một dạng cấu trúc ngôn ngữ để diễn đạt một yêu cầu, một đòi hỏi,

một mệnh lệnh mà người học cần giải quyết.
- Câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) là những câu hỏi chứa đựng tình huống
nảy sinh trong quá trình học tập, tình huống đó chứa đựng một mâu thuẫn buộc
học sinh phải suy nghĩ, tìm tòi phương hướng giải quyết. Do được hình thành từ
một khó khăn trong lí luận hay thực tiễn nên muốn giải quyết chúng người học
phải có một sự nỗ lực, một cuộc vân động trí tuệ thực sự.
- .Đặc trưng của câu hỏi và câu hỏi có vấn đề:
+ Câu hỏi luôn chứa đựng một cái gì chưa biết khiến người học phải băn
khoăn, trăn trở, tìm hướng khắc phục khoảng trống của sự thiếu hiểu biết. Đồng
thời chứa đựng một cái gì đã biết làm cơ sở khắc phục những nghịch lí, thắc
mắc, băn khoăn. Giữa cái chưa biết và cái đã biết có quan hệ chặt chẽ với nhau cái đã biết là tiền đề để tìm ra cái chưa biết, cái chưa biết là cái đích cần đạt đến
của điểm xuất phát là những dữ liệu đã cho.
+ Đối với những câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập) còn phải bao hàm
trong bản thân nó một yếu tố tâm lí nào đó thể hiện ở tính rõ ràng, mới lạ của sự
kiện, ở tính bất thường của bài tập nhận thức [1;58].
2.1.2.Câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học và vai trò của câu hỏi
trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học
- Câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học:
Xuất phát từ đặc thù phân môn (vừa là môn khoa học vừa là môn nghệ thuật)
nên câu hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu tác phẩm văn chương cũng mang sắc thái
riêng độc đáo thể hiện qua hiệu quả tác động của nó: vừa phát triển tư duy khoa
học, tư duy sáng tạo; vừa kích thích được cảm xúc thẩm mĩ của người học. Vì
vậy xây dựng câu hỏi trong giờ dạy đọc hiểu văn bản văn học ngoài việc tuân
thủ các quy trình, hướng đến các mục đích tìm hiểu nội dung, nghệ thuật tác
phẩm, phát triển trí tưởng tượng, sự sáng tạo, bộc lộ cảm xúc còn phải chú ý
phát hiện các mâu thuẫn: từ bản thân tác phẩm giảng dạy, từ tầm đón nhận của
học sinh, từ cách cảm nhận, lí giải, phân tích tác phẩm trái ngược nhau của ý
thức tiếp nhận đồng đại và lịch đại...
- Vai trò của câu hỏi trong giờ dạy đọc- hiểu văn bản văn học:
+ Câu hỏi có vai trò định hướng, giúp học sinh xác định được nhiệm vụ nhận

thức, buộc các em phải huy động tri thức, vốn sống, kinh nghiệm một cách sáng
tạo, chọn lọc lấy những gì có liên quan đến vấn đề đã được biểu đạt. Giáo viên
không đưa kiến thức đến cho các em dưới dạng có sẵn, không rung cảm hộ mà
với câu hỏi đưa ra giáo viên sẽ tổ chức, hướng dẫn cho các em suy nghĩ, cắt
nghĩa, thâm nhập vào tác phẩm. Các em tự nắm bắt giọng điệu nhà văn, đối
thoại với người sáng tác, hòa nhập vào khung cảnh của tác phẩm...Từ đó các em
được bồi dưỡng năng lực cảm thụ, năng lực sáng tạo thẩm mĩ ; quá trình tư duy
4


của các em vận động không ngừng, các em sẽ lớn lên về kiến thức, hoàn thiện
về kỹ năng. Nói cách khác, các câu hỏi sẽ kích thích sự phát triển trí tuệ của học
sinh thông qua sự tăng cường khả năng suy nghĩ độc lập.
+ Với hệ thống đặt câu hỏi của giáo viên, học sinh không chỉ hiểu mà còn lưu
giữ, ghi nhớ kiến thức lâu hơn bởi trong văn chương khi người đọc trải qua quá
trình cảm thụ bằng liên tưởng, tưởng tượng ; rung cảm bằng trái tim thì kiến
thức ấy thâm nhập vào máu tủy, xương thịt. Sự ghi nhớ ở đây sẽ trở thành tiền
đề quan trọng để quá trình tư duy, tưởng tượng đạt hiệu quả cao hơn.
+ Khi xây dựng được câu hỏi có vấn đề (tình huống học tập), giáo viên sẽ gieo
vào tâm hồn các em sự háo hức, day dứt không yên do vậy các em sẽ không cảm
thấy xa lạ trước vấn đề giáo viên đặt ra, không thể lãnh đạm với tiếng nói tâm
tình tha thiết của nhà văn. Bởi chính bản thân các em từ bên trong có nhu cầu
chiếm lĩnh tác phẩm chứ không phải do áp lực tác động bên ngoài. Giáo viên sẽ
đạt đến mục đích đánh thức niềm đam mê, hứng thú học văn của học sinh.
Tóm lại, việc vận dụng hệ thống đặt câu hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu tác
phẩm văn chương sẽ phát huy được vai trò chủ thể tích cực của học sinh, tạo ra
bầu không khí cởi mở, dân chủ giữa giáo viên - học sinh, học sinh - học sinh,
học sinh - nhà văn; thiết lập được mối quan hệ đa chiều (giáo viên - học sinh tác phẩm - nhà văn) và phát triển mối quan hệ đó một cách cân đối hài hòa.
2.2. Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Về phía giáo viên:

Tâm huyết với nghề và luôn muốn tìm ra những phương pháp thiết thực
để đổi mới quá trình dạy và học. Những trăn trở thật đáng trân trọng đối với giáo
viên Ngữ văn, chúng tôi thiết nghĩ, không có một mục đích nào khác là mong
muốn cho học sinh tiếp nhận tác phẩm văn học một cách trọn vẹn.
2.2.2. Về phía học sinh:
Học sinh chuẩn bị bài ở nhà là một yêu cầu quan trọng trong việc dạy và
học môn Ngữ văn. Có chuẩn bị bài tốt thì học sinh mới có thể lĩnh hội tốt kiến
thức trong quá trình đọc - hiểu văn bản. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy và học tập
môn Ngữ văn hiện nay cho thấy, học sinh chuẩn bị bài trên cơ sở câu hỏi, hướng
dẫn học bài trong sách giáo khoa chỉ để đối phó, chiếu lệ, hợp thức hóa. Vì vậy,
trong quá trình giảng dạy, tự học, tự đọc tác phẩm.
2.3. Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm góp phần nâng cao hiệu
quả trong đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
2.3.1. Xác định yêu cầu cần đảm bảo khi xây dựng câu hỏi trong giờ dạy đọchiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
Xây dựng câu hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ ”của
Hàn Mặc Tử, tôi xác định cần phải đạt đến các yêu cầu sau:
- Câu hỏi khai thác được đặc trưng thể loại (văn bản thơ mới)
- Các dạng câu hỏi kích thích được sự tìm tòi, hứng thú của học sinh và phù
hợp với khả năng tiếp nhận của các em. Câu hỏi, tình huống học tập được xây
dựng phải khai thác cái mới từ tác phẩm, gợi liên tưởng nhiều chiều ở người
học.
5


- Các dạng câu hỏi phong phú đa dạng, có hệ thống hoàn chỉnh....
2.3.2. Xây dựng câu hỏi, tình huống học tập trong giờ dạy đọc - hiểu văn bản
“Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử)
Từ vấn đề trên, cho thấy để đổi mới phương pháp dạy học cần sự chủ
động tích cực của học sinh trong tiết học. Không có gì khuyến khích điều đó tốt
hơn một hệ thống câu hỏi hợp lý với nhiều mức độ khó dễ khác nhau để mọi học

sinh ở nhiều trình độ đều có thể trả lời được. Từ sự đóng góp ý kiến của mình
hoàn thiện bài học các em, không những hiểu bài tốt hơn mà còn hứng thú với
vai trò của mình, yêu thích say mê môn học hơn. Tôi xin được trình bày cụ thể
Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
trong đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử. Thông qua một
tiết học với đối tượng học sinh lớp 11B6 Trường THPT Nguyễn Trãi.

6


ĐÂY THÔN VĨ DẠ
- Hàn Mặc Tử I.MỤC TIÊU: Sau bài học, HS đạt được:
1. Kiến thức [2;71]
- Vẻ đẹp thơ mộng, đượm buồn của thôn Vĩ và nỗi buồn, cô đơn trong cảnh ngộ
bất hạnh của một con người tha thiết yêu thiên nhiên, yêu sự sống.
- Phong cách thơ Hàn Mặc Tử qua bài thơ: một hồn thơ luôn quằn quại yêu, đau,
trí tưởng tượng phong phú, hình ảnh thơ có sự hòa quyện giữa thực và ảo.
2. Kỹ năng [2;71]
- Đọc - hiểu một bài thơ trữ tình theo đực trưng thể loại.
- Cảm thụ, phân tích tác phẩm thơ.
3. Thái độ [2;71]
- Bồi dưỡng tình yêu cuộc sống và vẻ đẹp thiên nhiên, con người Việt Nam.
II.CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH:
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Phương pháp đọc hiểu, phân tích, thuyết trình kết hợp trao đổi thảo luận.
- Sách giáo khoa. Giáo án, đọc tài liệu tham khảo.
2. Chuẩn bị của học sinh:
- Chủ động tìm hiểu soạn bài học qua các câu hỏi sgk
III. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP:
1. Ổn định lớp

2. Kiểm tra bài cũ
3. Tiến trình bài học
Hoạt động : Khởi động
Giáo viên có thể cho học sinh xem một số hình ảnh về Thôn Vĩ Dạ và tác giả
Hàn Mặc Tử, qua hệ thống các câu hỏi tái hiện, sau đó đặt ra các câu hỏi nêu
vấn đề, gợi mở để học sinh suy nghĩ rồi dẫn dắt vào bài mới.
Hoạt động : Hình thành kiến thức
A.HOẠT ĐỘNG 1: TÌM HIỂU CHUNG.
1. Phương pháp, kĩ thuật dạy học:
- HS đọc tiểu dẫn trong sách giáo khao
- Dựa trên cơ sở tìm hiểu bài ở nhà, GV đặt câu hỏi yêu cầu HS trả lời.
2. Hình thức tổ chức hoạt động:
Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu phần
I. Tìm hiểu chung
tiểu dẫn SGK.
1. Tác giả:
Giáo viên định hướng học sinh trả lời
* Cuộc đời:
các câu hỏi:
- Hàn Mặc Tử(1912-1940), tên thật là
- Cuộc đời Hàn Mặc Tử?
Nguyễn Trọng Trí, sinh ra ở Đồng Hới,
- Phong cách thơ Hàn Mặc Tử ?
Quảng Bình
- Đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử ?
- Sớm mất cha sống với mẹ tại Quy
Nhơn
7



Thảo luận, hoạt động nhóm
Đại diện nhóm trả lời, nhận xét,

- Tác phẩm chính ?
GV: Nhận xét, mở rộng và chốt lại kiến
thức

- Đi làm công chức thời gian ngắn rồi
mắc bệnh
- Là nhà thơ có sức sáng tạo mãnh liệt
trong phong trào Thơ mới “Ngôi sao
chổi trên bầu trời thơ Việt Nam”(Chế
Lan Viên).
* Sự nghiệp:
-Tác phẩm chính: Gái quê, Thơ điên,
Xuân như ý, Duyên kì nhộ...
-Tâm hồn thơ ông đã thăng hoa thành
những vần thơ tuyệt diệu,chẳng những
gợi cho ta niềm thương cảm còn đem
đến cho ta những cảm xúc thẩm mĩ kì
thú và niềm tự hào về sức sáng tạo của
con người
-Quá trình sáng tác thơ của ông đã thâu
tóm cả quá trình phát triển của thơ mới
từ lãng mạn sang tượng trưng đến siêu
thực
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ: Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ"

lúc đầu có tên "Ở đây thôn Vĩ Dạ",
được sáng tác vào khoảng năm 1938 in
lần đầu trong tập "Thơ Điên" về sau
đổi thành “Đau thương”.

- Hoàn cảnh sáng tác và vị trí bài thơ ?

b. Hoàn cảnh sáng tác:
Bài thơ được gợi cảm hứng từ một tấm
thiệp của Hoàng Cúc gửi tặng Hàn
Mặc Tử để động viên, an ủi khi bà
nghe tin nhà thơ bị bệnh hiểm nghèo.

- Bố cục bài thơ ?

c. Bố cục: 3 phần:
- Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và tình
người tha thiết.
- Khổ 2: Cảnh đêm trăng thôn Vĩ và
niềm đau cô lẻ, chia lìa.
- Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ.

B. HOẠT ĐỘNG 2: ĐỌC HIỂU VĂN
BẢN.
8


1.Phương pháp, kĩ thuật dạy học:
Đọc, gợi tìm, trả lời câu hỏi theo yêu cầu
2. Hình thức tổ chức hoạt động

Hoạt động của GV và HS
Nội dung cần đạt
Gv hướng dẫn hs đọc hiểu chi tiết bài II. ĐỌC – HIỂU VĂN BẢN
thơ.
1. Khổ 1: Cảnh ban mai thôn Vĩ và
* Gv gọi 1 Hs đọc lại khổ 1
tình người tha thiết
* Gv sử dụng kĩ thuật khăn trải bàn:
Chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm thảo - “ Sao anh… thôn Vĩ ?” : Câu hỏi tu
từ mang nhiều sắc thái:
luận theo câu hỏi do GV đưa ra.
- Nhóm 1: tìm hiểu câu thơ đầu: Mở đầu + Vừa như lời trách móc, hờn dỗi vừa
bài thơ là một câu hỏi. Em hãy cho biết như lời mời gọi tha thiết của người con
đó là câu hỏi của ai? Giọng điệu hỏi như gái thôn Vĩ.
thế nào? Ý nghĩa của lời hỏi?
+ Đây cũng là lời tự hỏi mình, trách
mình sao không về thăm thôn Vĩ.
→ Cả câu thơ chính là ao ước thầm
kín, là niềm khao khát được trở về thôn
Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa.
→ Câu thơ đã làm sống dậy một hồi ức
tốt đẹp của nhà thơ về cảnh và người
thôn Vĩ.
- Nhóm 2: tìm hiểu nội dung, nghệ thuật
câu thơ 2, 3: Bức tranh thiên nhiên thôn
Vĩ:

- Cảnh thôn Vĩ buổi sớm mai (câu 2,3):
+ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên":
* Điệp từ “nắng”: nhấn mạnh ánh sáng

của buổi bình minh.

+ Bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ được
miêu tả với những màu sắc như thế nào? * Hình ảnh "Nắng hàng cau nắng mới
+ Những biện pháp nghệ thuật nào được lên": gợi lên cái nắng ấm áp, rực rỡ,
sử dụng? Ý nghĩa của những biện pháp trong trẻo, tinh khôi trong buổi bình
nghệ thuật ấy?
minh.

+ Từ đó em nhận xét như thế nào về bức → Cả câu thơ gợi vẻ đẹp trong trẻo,
tranh thiên nhiên thôn Vĩ buổi ban mai? tinh khiết của thôn Vĩ trong buổi bình
minh. Đó cũng là vẻ đẹp riêng của
nắng miền trung, nắng Huế. Nắng
chiếu trên những hàng cau trong vườn,
rực rỡ, mới mẻ, tinh khôi.
+ "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc":
* “Vườn ai”: đại từ phiếm chỉ “ai” gợi
9


sự bâng khuâng trong tâm hồn thi
nhân.
* “Mướt quá ”: giống như một tiếng
reo ngỡ ngàng, trầm trồ, khen ngợi khi
nhận ra vẻ non tơ, mượt mà, đầy xuân
sắc của khu vườn thôn Vĩ.
* “Xanh như ngọc”: là một so sánh
thật đẹp. Hình ảnh những lá cây xanh
mướt, mượt mà được "nắng mới lên"
cái ánh mặt trời rực rỡ buổi sớm mai

chiếu xuyên qua trở nên có màu xanh
trong suốt và ánh lên như ngọc gợi vẻ
tươi tốt, màu mỡ của khu vườn thôn
Vĩ.
- Nhóm 3: tìm hiểu nội dung, nghệ thuật
câu thơ 4:
+ Con người thôn Vĩ hiện lên với những
nét vẽ nào?

→ Thiên nhiên thôn Vĩ buổi ban mai
đẹp thanh khiết, trong trẻo, thơ mộng,
tràn trề sức sống.
- Con người thôn Vĩ: "Lá trúc che
ngang mặt chữ điền":
+ “Mặt chữ điền”: là biểu tượng của
nét đẹp phúc hậu, hiền lành, trung
thực. (Hình ảnh thơ được miêu tả theo
hướng cách điệu hóa, tức chỉ gợi vẻ
đẹp của con người, không cụ thể là ai).
+ “Lá trúc che ngang”: lá trúc mảnh
mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của
con người xứ Huế.
→ Câu thơ giàu chất tạo hình: sự hài
hòa giữa thiên nhiên và con người
trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng.

- Nhóm 4: em có nhận xét gì về thiên
nhiên và con người thôn Vĩ ở khổ thơ
này? Qua đó, em cảm nhận như thế nào
về tâm trạng của thi nhân?

* Gv gọi 1 Hs đọc khổ 2
* Gv hỏi: Thiên nhiên ở hai câu thơ đầu
được miêu tả như thế nào? Thể hiện tâm
trạng gì của tác giả?

+ Thôn Vĩ buổi ban mai: Cảnh xinh
xắn, người phúc hậu.
+ Tâm trạng thi nhân: hạnh phúc, yêu
thiên nhiên, yêu người tha thiết cùng
niềm băn khoăn, day dứt của nhà thơ.
2. Khổ 2: Cảnh đêm trăng thôn Vĩ và
niềm đau cô lẻ, chia lìa:
- “Gió theo… mây”: thiên nhiên có sự
10


Như vậy, thiên nhiên có gì đó trái
ngược, khác thường, rời rạc, không liên
hệ, hài hòa "Gió theo lối gió, mây đường
mây" chứ không phải gió mây cùng
hướng, thuận chiều. Dòng sông Hương
vẫn thế, êm ả, trôi xuôi nhưng trong cảm
nhận của thi nhân trở nên buồn thiu vì ít
mây, ít gió, cả những bông hoa ngô tím
nhạt bên bờ sông cũng chỉ đu đưa, lay
động khe khẽ.
Nét độc đáo của nghệ thuật thơ Hàn
Mặc Tử là sự đứt đoạn bên ngoài của bố
cục, của cấu tứ nhưng vẫn chìm ẩn mạch
cảm xúc thống nhất. Đang từ cảnh bình

minh thôn Vĩ - không hề báo trước,
chuẩn bị - bắt ngay cảnh đêm trăng sông
Hương, tâm trạng đang bồi hồi vui,
mong đợi, ao ước bỗng chuyển sang
buồn thiu như dòng nước buồn thiu.

chuyển động ngược chiều của gió và
mây
→ cảnh vật chia lìa, li tán
- “Dòng nước buồn thiu”: gợi cảm
giác u buồn.
- "Hoa bắp lay": sự lay động rất nhẹ.
→ Cảnh vật lặng lẽ, vô hồn gợi nỗi
buồn xa vắng
→ Hai câu thơ tác giả sử dụng nghệ
thuật nhân hóa: không chỉ là cái buồn
của cảnh mà là cái buồn của lòng
người. Nhà thơ u buồn, cô đơn, tuyệt
vọng trước sự xa cách, thờ ở của cuộc
đời đối với mình.
- “ Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/
Có chở trăng về kịp tối nay?”

+ Đại từ phiếm chỉ "ai", sử dụng bút
pháp ảo hóa sông Hương thành sông
GV hỏi: Từ nào trong hai câu thơ thể
hiện rõ nét tâm trạng của thi nhân? Đó là trăng.
tâm trạng gì?
+ Hàng loạt câu hỏi: thuyền ai? Thuyền
có chở trăng? Có chở trăng về kịp tối

nay? → Câu hỏi ẩn chứa sự day dứt,
mong chờ và lo lắng trong tâm hồn nhà
thơ.
→ Cảnh vẫn đẹp nhưng hiu hắt, buồn
bã, lạnh lẽo.
GV hỏi: Vậy theo em tác giả mong chờ
điều gì ở con thuyền chở trăng? Chở
trăng từ đâu về? Tại sao phải "kịp tối
nay"? Qua đó ta thấy được điều gì trong
tâm hồn thi sĩ?
GV thuyết giảng: "kịp" hé mở cho ta
thấy một mặc cảm, hiện tại ngắn ngủi,
hé mở cho ta một cách sống, sống là
chạy đua với thời gian. Quỹ thời gian
đang vơi đi từng ngày, từng khắc, cuộc
chia lìa vĩnh viễn đang tới gần, thi sĩ

→ Với vẻ đẹp huyền ảo của ánh trăng,
sông trăng, tác giả đã thể hiện vẻ đẹp
tiêu biểu của xứ Huế, êm đềm và thơ
mộng.
+ Từ "kịp" kết hợp kết hợp với nhiều
câu hỏi liên tiếp thể hiện tâm trạng lo
âu, khắc khoải, mong chờ của nhà thơ.
→ Tác giả mong chờ một con thuyền
chở trăng từ cõi ảo về cõi thực để xua
đi nỗi buồn, tâm trạng cô đơn vì chỉ có
trăng mới có thể làm bạn với thi sĩ lúc
này.
11



mong mỏi với đau thương. "Thơ là sự
lên tiếng của thân phận". Định nghĩa ấy
hoàn toàn đúng với Hàn Mặc Tử.

→ Đây chính là khao khát yêu đương
và giao cảm với đời của thi sĩ.

Trong thơ Hàn Mặc Tử, trăng là hình
tượng mang sức ám ảnh lớn, trăng giống
như người bạn tri âm, tri kỉ của nhà thơ:
-"Không gian đắm đuối toàn trăng cả
Anh cũng trăng mà em cũng trăng"
-"Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ.
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề."
Khổ 3: Nếu hai khổ thơ trên, tác giả
hòa với cảnh. Đến với khổ thơ này, tâm
tình với người xứ Huế nhà thơ lại lùi ra
xa. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu khổ
thơ thứ ba.

3. Khổ 3: Nỗi niềm thôn Vĩ.

* Gv gọi 1 Hs đọc khổ 3

- “Mơ khách đường xa, khách đường
Gv hỏi: Em hãy nhận xét cách ngắt nhịp xa”

câu thơ "Mơ khách đường xa, khách
+ Nhịp: 1/3/3
đường xa"? "Khách đường xa" là ai?
Tác dụng của điệp ngữ "khách đường
+ "khách đường xa": là chủ thể trữ tình
xa"?
đang hồi nhớ khi nhìn bức bưu ảnh từ
Huế gửi vào. Đây là hình ảnh trong mơ
GV nhận xét, chốt lại
của người trong mộng → hình ảnh cụ
thể nhưng mơ hồ, mơ và thực, hi vọng
và tuyệt vọng.
- Em có nhận xét gì về cách miêu tả
hình ảnh người con gái trong câu thơ
"Áo em trắng quá nhìn không ra"?

+ Điệp từ “khách đường xa”: nhấn
mạnh nỗi xót xa của nhà thơ. Trước lời
mời gọi của người con gái thôn Vĩ, nhà
thơ chỉ là khác đường xa mà thôi.

- “Áo em trắng quá nhìn không ra”:
Hình ảnh người con gái được miêu tả
tăng tiến: "áo trắng" → "trắng quá" →
"nhìn không ra" → cực tả sắc trắng,
- "Sương khói mờ nhân ảnh" là hình ảnh trắng một cách kỳ lạ và bất ngờ. Đây
thực hay mơ?
không còn là màu sắc thực nữa mà là
12



màu của tâm tưởng.
- “ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
+ “Sương khói mờ nhân ảnh”: gợi ra
vẻ đẹp thực và mơ. Thực là có hình
người, có dáng người. Mơ là hình ảnh
ấy phảng phất, lờ mờ trong sương khói.
- “Ai1 biết tình ai2 có đậm đà?”
+ Em có nhận xét gì về đại từ phiếm chỉ + Nhà thơ không biết tình người xứ
“ai”? "Ai" lặp lại hai lần nhằm mục đích Huế có đậm đà với mình không.
gì?
+ Người xứ Huế có biết chăng tình
cảm của nhà thơ đối với cảnh Huế,
người Huế hết.
→ Ý thơ thể hiện nỗi trống vắng, cô
đơn trong một tâm hồn tha thiết yêu
thương con người và cuộc đời đã
nhuốm đau thương, bất hạnh.
IV. TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP:
1. Tổng kết:
a) Ý nghĩa văn bản
Bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ và lòng yêu đời, ham sống mãnh liệt mà đầy uẩn
khúc của nhà thơ.
b) Nghệ thuật
- Trí tưởng tượng phong phú.
- Nghệ thuật so sánh nhân hóa, thủ pháp lấy động gợi tĩnh, sử dụng câu hỏi tu
từ,...
- Hình ảnh sáng tạo, có sự hòa quyện giữa thực và ảo.
2. Hướng dẫn học tập:
- Học thuộc lòng bài thơ.

- “Đây thôn Vĩ Dạ vừa đem đến cho người đọc bức tranh thiên nhiên đặc trưng
cho hoa cỏ núi sông một vùng miền Trung nước Việt, vừa cho người ta thấy
được vẻ đẹp lãng mạn của tình yêu thời Thơ mới”.
Anh (chị) hiểu như thế nào về ý kiến trên?
2.4. Kết quả của việc Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả trong đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc
Tử.
Như vậy, với Cách thức xây dựng hệ thống câu hỏi nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả trong đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc
Tử, giáo viên không áp đặt các đơn vị kiến thức mà trao quyền chủ động chiếm
lĩnh tri thức cho học sinh sau khi các em được thâm nhập vào tác phẩm và trải
qua quá trình tư duy sâu sắc.
13


Giáo viên cần căn cứ vào đối tượng học sinh lớp mình đang dạy, cân nhắc,
lựa chọn những câu hỏi sao cho thích hợp. Sau khi đã chọn được đúng câu hỏi
thích hợp rồi, điều quan trọng là: phải sắp xếp những câu hỏi ấy thành một hệ
thống, dẫn dắt học sinh tìm hiểu bài học. Điều này đòi hỏi giáo viên vừa phải
nghiên cứu hệ thống câu hỏi, vừa phải hướng dẫn học sinh soạn bài một cách
chu đáo.
Xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ dạy – học văn không phải là biện
pháp duy nhất dẫn đến kết quả cao trong giờ đọc hiểu. Nhưng dù sao nó cũng
góp phần đáng kể trong việc bồi dưỡng óc thẩm mỹ, tính năng động, từ đó rèn
luyện năng lực trí tuệ cho học sinh. Vì vậy, nâng cao chất lượng dạy và học
trong giờ đọc – hiểu văn bản là một việc cần thiết của giáo viên Ngữ Văn. Muốn
thế, giáo viên cũng phải theo phương châm hiểu biết, khám phá, sáng tạo trong
khi soạn bài và đọc hiểu tác phẩm: hiểu thấu cuộc sống và con người được phản
ánh trong tác phẩm và hiểu thấu cuộc sống và con người ngoài đời, có những nét
tương đồng với tác phẩm và hiểu thấu đối tượng tác động: Học sinh lớp mình;

khám phá cái hồn của tác phẩm, mức độ hiểu biết, rung cảm của học sinh để từ
đó sáng tạo những nội dung câu hỏi và dẫn dắt học sinh trả lời được những câu
hỏi đó. Câu hỏi phải đạt mục đích kích thích sự cảm thụ của học sinh khi đọc tác
phẩm. Công việc kích thích sự cảm thụ của người đọc (Thầy, Trò) với tác phẩm
văn học là vấn đề bắt buộc phải làm ngay trước khi vào giờ học Ngữ văn...
Một tiết học thành công là: Tiết học đó tất cả học sinh đều hăng hái sôi
nổi trong giờ học, các em chủ động tiếp thu kiến thức và luôn cảm thấy thoải
mái, nhẹ nhàng. Từ đó học sinh ngày càng yêu thích bộ môn ngữ văn và người
giáo viên cũng thêm yêu nghề gắn bó với nghề nghiệp của mình. Đó cũng chính
là hiệu quả mà sáng kiến kinh nghiệm này của tôi mong muốn đạt được. Tôi chỉ
hy vọng nó sẽ đóng góp một phần nhỏ vào quá trình đổi mới phương pháp dạy
và học để xây dựng phong trào “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
[3;40]
Quan niệm dạy học truyền thống với tất cả bề dày kiến thức, các kinh
nghiệm phong phú của nó, nhìn chung còn có một nhược điểm lớn, đó là chưa
phát huy đúng mức tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong hoạt động học tập của
học sinh. Vì vậy, tôi chú trọng xây dựng các câu hỏi với hình thức đa dạng (câu
hỏi tạo không khí, dẫn dắt nhằm tác động vào tâm lí học sinh để các em phải băn
khoăn, thắc mắc, chuẩn bị tâm thế huy động kiến thức để giải quyết vấn đề được
nêu; Câu hỏi cảm xúc; Câu hỏi phát triển trí tưởng tượng…).
Đặc biệt tôi coi trọng việc xây dựng câu hỏi có vấn đề ( tình huống học
tập ) và lưu tâm xây dựng tình huống học tập trung tâm nhờ vậy không khí giờ
học sôi nổi, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh. Các em chẳng những
được trải nghiệm cảm giác băn khoăn, ngạc nhiên, thích thú mà còn xác định
được cốt lõi vấn đề cần nắm vững trong tiết học, có được cái nhìn bao quát về
hướng đi, cái đích phải hướng tới của một giờ học; Các em được làm chủ kiến
thức, được chiếm lĩnh tác phẩm văn chương trong tính chỉnh thể toàn vẹn của
14



một cấu trúc nghệ thuật tinh vi, đa tầng chứ không phải sự cảm nhận đơn lẻ từng
yếu tố, từng chi tiết.
Đó là cơ sở để các em có hứng thú tiếp tục tự mình khám phá, chiếm lĩnh
tác phẩm một cách sâu sắc hơn bởi khi “vấn đề cốt lõi” của tác phẩm được giải
mã các em sẽ nhận ra rằng : còn nhiều yếu tố quy tụ xung quanh nó còn chưa
được khám phá, các em sẽ chưa thỏa mãn với tầm hiểu biết của mình và tiếp tục
bước vào cuộc hành trình khám phá thế giới cái hay, cái đẹp của văn bản khi giờ
học đã kết thúc.
Qua các câu hỏi kiểm tra nhanh, bài kiểm tra tự luận trên lớp hầu hết học
sinh nắm được kiến thức cơ bản của giờ học, biết vận dụng kiến thức để giải
quyết các đề bài kiểm tra liên quan đến tác phẩm, nhiều học sinh có cách lí giải
vấn đề thấu đáo, lập luận chặt chẽ, hành văn có cảm xúc…
Cụ thể: năm học (2017-2018) xây dựng hệ thống đặt câu hỏi vào giờ dạy
đọc –hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” khi tiến hành cho học sinh các lớp làm bài
kiểm tra tự luận (đề bài giống nhau) tôi thu được kết quả như sau:
Cùng nội dung về giảng dạy tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ, tôi đã tiến hành
dạy ở hai lớp. Lớp thực nghiệm (11B6) và lớp đối chứng (11B1) trường THPT
Nguyễn Trãi. Qua khảo sát thực tế học tập của 2 lớp, tôi thấy mức độ học tập và
trình độ nhận thức của 2 lớp tương đương nhau. Tinh thần, thái độ học tập môn
Ngữ văn nói riêng và các môn khác nói chung giống nhau.
Ở mỗi lớp tôi tiến hành một phương pháp giảng dạy khác nhau. Lớp 11B6
tôi đã áp dụng hệ thống câu hỏi đã xây dựng cho học sinh. Lớp 11B1 tôi dạy
theo phương pháp truyền thống. Qua 2 phương pháp dạy học, ở 2 lớp kết quả
học tập cũng như chất lượng bài học thu được có sự khác nhau rõ rệt:
-Ở lớp 11B1 (lớp đối chứng) việc giảng dạy được tiến hành bằng phương pháp
truyền thống. Do đó học sinh học tập rất uể oải, ghi chép thụ động, giờ học căng
thẳng. Giáo viên phải làm việc nhiều mà hiệu quả giờ dạy không cao.
-Ở lớp 11B6(lớp thực nghiệm). Cũng cùng nội dung kiến thức nhưng do sự đổi
mới về hình thức và phương pháp dạy học, chú trọng đến hệ thống câu hỏi, các
em trở nên sôi nổi, hứng thú và tích cực xây dựng bài. Do đó, các em hiểu bài

nhanh vì đã được khắc sâu những tri thức của bài học một cách cụ thể, sinh
động.
- Kết quả còn được minh chứng qua số liệu về phiếu học tập như sau:
Lớp dạy
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Số lượng
Ghi chú
SL TL SL
TL
SL
TL
S TL
(%)
(%)
(%)
L (%)
Lớp 11B1
Lớp đối
04 9
24
53
12
27
5 11
(45HS)
chứng
Lớp 11B6

Lớp thực
15 36 23
55
3
7
01 2
(42 HS)
nghiệm

15


III. KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
“Đây thôn Vĩ Dạ” (Hàn Mặc Tử) là văn bản có nhiều cách tiếp cận,
khoảng trống để gieo mầm sáng tạo vẫn còn nhiều, vì thế những câu hỏi và tình
huống học tập tôi đưa ra không tham vọng định hướng cho học sinh chiếm lĩnh
được hết tầng sâu cái hay, cái đẹp của văn bản mà chỉ đánh thức trong các em sự
thắc mắc, băn khoăn, niềm say mê dành cho tác phẩm và giải đáp phần nào
nhưng thắc mắc nảy sinh để các em thực sự trở thành chủ thể của quá trình học
tập. Hệ thống câu hỏi ấy cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng
học sinh.
Đặt câu hỏi là một nghệ thuật, kỹ thuật dạy học này đòi hỏi ở người giáo
viên năng lực của một nhà tâm lí, một nhà sư phạm, một nghệ sĩ. Khi xây dựng
hệ thống đặt câu hỏi vào giờ dạy đọc – hiểu văn bản văn học, giáo viên cần có
sự linh hoạt, khéo léo và khả năng kết hợp với các phương pháp, kỹ thuật dạy
học khác để đạt đến hiệu quả cao nhất, có như thế mới có thể đáp ứng được yêu
cầu đổi mới phương pháp giảng dạy. Tôi hi vọng với kinh nghiệm xây dựng hệ
thống câu hỏi vào giờ dạy đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ”(Hàn Mặc Tử) sẽ
góp một phần nhỏ vào việc hướng mối quan tâm, sự đầu tư thỏa đáng cho việc

xây dựng câu hỏi trong giờ dạy đọc - hiểu các văn bản văn học nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục
nói chung. Ngay từ thế kỷ XVI, Akomexki đã viết: “Giáo dục có mục đích đánh
thứ năng lực nhạy cảm , phán đoán đúng nhất, phát triển nhân cách…hãy tìm ra
một phương pháp cho phép giáo viên dạy ít hơn, học sinh học nhiều hơn”[4;65].
Vì vậy tôi có những đề xuất nhỏ trong việc Cách thức xây dựng hệ thống câu
hỏi nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong đọc- hiểu văn bản “Đây thôn
Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với học sinh
Bản thân mỗi học sinh phải có ý thức đọc – hiểu văn bản văn học. Từ đó xác
định cho mình một độc cơ, một thái độ học tập nghiêm túc, một định hướng cụ
thể khi học, tìm hiểu tác phẩm văn học phải đọc kỹ tác phẩm, sống cùng tác
phẩm, soạn bài trước khi đến lớp, luôn suy nghĩ tìm tòi để có thể tìm được
những ý sâu xa tiềm ẩn trong tác phẩm, …đồng thời giúp học sinh có kiến thức
cơ bản , chắc chắn về tác phẩm văn học để viết bài văn trước mọi dạng đề thi .
3.2.2. Đối với giáo viên
- Trách nhiệm của mỗi giáo viên đứng lớp hiện nay thật sự là quan trọng
mang tính quyết định đến sự thành công của mỗi tiết dạy. Vì vậy mỗi thầy cô
giáo cần thiết phải tìm tòi và học hỏi những đổi mới cũng như những kinh
nghiệm quý báu từ đồng nghiệm để ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng dạy
và học. Đồng thời cũng là để thực hiện tốt yêu cầu của Bộ Giáo dục & Đào tạo :
“Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương tự học, tự sáng tạo …” [5;48].
- Để Xây dựng hệ thống câu hỏi đọc- hiểu văn bản “Đây thôn Vĩ Dạ” của
Hàn Mặc Tử góp phần nâng cao hiệu quả giờ đọc văn thì người giáo viên
16


cũng phải theo phương châm hiểu biết, khám phá, sáng tạo trong khi soạn và
giảng văn - hiểu thấu cuộc sống và con người được phản ánh trong tác phẩm,

hiểu thấu cuộc sống con người ngoài đời, có những nét tương đồng với tác phẩm
và hiểu thấu đối tượng tác động: Học sinh lớp mình; khám phá cái hồn của tác
phẩm, mức độ hiểu biết, rung cảm của học sinh để từ đó học sinh được chủ
động, tích cực làm việc, hiểu bài, cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm
văn học, làm cho học sinh có hứng thú học văn hơn .
Với những điều đã trình bày ở trên và bằng thể nghiệm của chính mình, tôi
cũng mong đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng giảng dạy
Ngữ Văn trong trường THPT Nguyễn Trãi .
Nhân đây, tôi cũng xin được chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiêp, tổ
chuyên môn, Ban giám hiệu Nhà trường và các em học sinh lớp 11B1, 11B6
Trường THPT Nguyễn Trãi đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn
thành Sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) này.
SKKN của bản thân tôi được rút ra từ thực tế giảng dạy. Có thể còn những
vấn đề phải được trao đổi, bàn bạc thêm. Tôi mong nhận được sự quan tâm và
đóng góp của các bạn đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn !

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người thực hiện

Hoàng Thị Xuân

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. I.F Khazlamop, Phát huy tính tích cực của học sinh như thế nào, 1978.
[2]. Phan Trọng Luận, Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2006.
[3]. Nguyễn Văn Đường, Thiết kế bài giảng Ngữ văn, tập 2 NXB Giáo dục,
2006.
[4]. Sách chuẩn kiến thức, kỹ năng NXB Giáo dục, 2006.
[5]. Đỗ Ngọc Thống, Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT,
NXB Giáo dục, 2006.
[6]. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học học văn, NXB Đại học quốc gia
Hà Nội, 2007.

18



×