Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đổi mới phương pháp dạy học loại văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn 11 để tạo hứng thú cho học sinh ở trường THPT quảng xương 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.26 KB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh hiện nay, khi đất nước ngày càng phát triển thì ngành
giáo dục nói chung và môn ngữ văn nói riêng lại có một vai trò và nhiệm vụ
mới. Điều này đã được cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nêu rất rõ trong bài viết
Đổi mới toàn diện: “Ngày nay, sự hiểu biết của con người luôn đổi mới. Cho
nên dù được học trong nhà trường bao nhiêu chăng nữa cũng chỉ là rất có hạn.
Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện bộ óc, rèn luyện
phương pháp, suy nghĩ, phương pháp học tập, phương pháp tìm tòi, phương
pháp vận dụng tốt nhất bộ óc của mình”[1]. Luật Giáo dục điều 24.2 cũng ghi
rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”[1]. Như vậy, có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của giáo dục
hiện nay là đào tạo học sinh trở thành những con người năng động, chủ động,
biết vận dụng sáng tạo những gì đã học được trên ghế nhà trường vào trong đời
sống, góp phần phát triển xã hội. Tiêu chí này đã làm thay đổi không nhỏ hệ
thống giáo dục nước ta những năm gần đây. Giáo dục Việt Nam đã và đang cố
gắng cải cách chương trình và đặc biệt là thay đổi phương pháp dạy học.
Các văn bản nghị luận được đưa vào chương trình sách giáo khoa môn
ngữ văn có vai trò rất quan trọng. Nó giúp học sinh hình thành những quan điểm
đúng đắn về chính trị, xã hội; hình thành năng lực tư duy và thành công trong
giao tiếp. Cao hơn một bước, văn nghị luận giúp học sinh có năng lực phân tích,
tổng hợp, khám phá vấn đề có sức thuyết phục trên cơ sở lí lẽ chặt chẽ, căn cứ
xác thực. Thế nhưng, việc dạy – học các văn bản nghị luận trong trường phổ
thông hiện nay đang gặp phải những khó khăn trở ngại cả ở phía người dạy và
người học: học sinh thụ động, giáo viên thiếu tài liệu mà văn nghị luận lại có
phần khô khan khó hiểu. Mặt khác, lượng thời gian một hay hai tiết dành cho
các văn bản này là quá ít. Do thời lượng hạn chế nên các đơn vị bài học không
được khám phá một cách đầy đủ và có chiều sâu.


Đối chiếu lại vai trò, chức năng của các văn bản nghị luận mà sách giáo
khoa lựa chọn, cùng với mục tiêu đổi mới giáo dục như nói ở trên, chúng tôi cho
rằng không có cách nào khác là giáo viên phải trăn trở, tìm ra con đường tốt
nhất để giúp học sinh biết tiếp cận loại văn bản khó này. Vì vậy chúng tôi chọn
đề tài cho sáng kiến kinh nghiệm của mình là ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY
HỌC LOẠI VĂN BẢN NGHỊ LUẬN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN
11 ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG THPT QUẢNG
XƯƠNG IV.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề này, chúng tôi muốn đưa ra cái nhìn khái quát về việc
dạy học văn bản nghị luận trong môn ngữ văn, xác định cơ sở khoa học và
những gợi ý cụ thể khi soạn giảng một bài đọc hiểu văn bản nghị luận, để không
1


chỉ cung cấp kiến thức mà còn giúp học sinh rèn luyện kĩ năng, nhằm góp thêm
kinh nghiệm giúp việc dạy - học bộ môn trong trường THPT đạt kết quả cao
hơn!
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, vấn đề chúng tôi muốn làm rõ là phương pháp dạy học loại
văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn 11. Để khái quát thành lí thuyết,
trong 2 năm, chúng tôi đã thực nghiệm phương pháp này ở 3 đơn vị lớp: Lớp
11B năm học 2016 – 2017 và lớp 11H, 11I năm học 2017 -2018 của trường
THPT Quảng Xương 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, chúng tôi vận dụng kết hợp nhiều
phương pháp: khảo sát - thống kê, phân loại, phân tích, so sánh - đối chiếu, tổng
hợp, khái quát hóa…

2. NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lí luận
Trong thực tiễn lập kế hoạch và tiến hành dạy học, người thầy thường
xuyên đối diện với câu hỏi: làm thế nào để lựa chọn phương pháp dạy học phù
hợp và có hiệu quả ? Theo chúng tôi, phương pháp dạy học cần được lựa chọn
dựa trên các mối quan hệ: Với mục tiêu dạy học; với nội dung dạy học; với nhu
cầu, hứng thú, thói quen học tập của học sinh; năng lực, sở trường, kinh nghiệm
sư phạm của giáo viên; với điều kiện giảng dạy và học tập. Dưới đây là mấy cơ
sở căn bản cần quan tâm khi lựa chọn phương pháp dạy học:
2.1.1. Chọn những phương pháp dạy học có khả năng cao nhất đối với việc
thực hiện mục tiêu dạy học
Mỗi mô hình lí luận dạy học, phương pháp dạy học đều có những điểm
mạnh, điểm hạn chế nhất định. Nhưng khi xem xét việc thực hiện một mục tiêu
dạy học nhất định thì có một số phương pháp dạy học có khả năng cao hơn các
phương pháp dạy học khác. Chẳng hạn nếu đặt mục tiêu nhanh chóng truyền thụ
cho xong nội dung quy định thì phương pháp dạy học thuyết trình có vị trí quan
trọng. Nhưng nếu đặt mục tiêu phát triển năng lực tìm tòi sáng tạo của học sinh
thì vấn đề sẽ khác đi.
2.1.2. Lựa chọn các phương pháp dạy học phải xuất phát từ đặc trưng thể
loại
Giữa nội dung và phương pháp dạy học có mối quan hệ tác động lẫn
nhau, trong nhiều trường hợp quy định lẫn nhau. Ở bình diện kĩ thuật dạy học,
phương pháp dạy học cần tương thích với nội dung dạy học. Mỗi nội dung dạy
học đều liên hệ mật thiết với những hoạt động nhất định.
Tác phẩm văn học nào cũng thuộc về một thể loại cụ thể. Phương thức tồn
tại của tác phẩm quy định cách tiếp cận tương ứng. Phân tích văn bản theo đặc
trưng thể loại là một nguyên tắc quan trọng của việc giảng dạy môn Ngữ văn.
2


Đổi mới phương pháp dạy học vẫn coi trọng nguyên tắc này.

2.1.3. Lựa chọn phương pháp dạy học cần chú ý đến hứng thú, thói quen
của học sinh, kinh nghiệm sư phạm của giáo viên
Khi lựa chọn các phương pháp dạy học, trước hết, cần chuẩn đoán nhu
cầu, hứng thú của học sinh. Bên cạnh đó, cũng cần chú ý thay đổi phương pháp
dạy học và hình thức tổ chức dạy học để tránh nhàm chán. Cần thay đổi phương
pháp dạy học sau 15, 20 phút. Với các phương pháp dạy học có ưu điểm tương
đương, cần ưu tiên lựa chọn phương pháp dạy học mà giáo viên và học sinh đã
thành thạo, bởi thực hiện dễ dàng hơn.
2.1.4. Lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện dạy học
Ở đây đề cập đến phương pháp dạy học diễn ra trong mối quan hệ với các
điều kiện vật chất, đặc biệt là thiết bị dạy học. Đương nhiên là cần phải lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp với điều kiện của nhà trường, của tình trạng đang
có. Trong khuôn khổ điều kiện cho phép, cần chọn thứ tự ưu tiên khả năng tốt
nhất.
Các thiết bị dạy học hiện đại không luôn đồng nghĩa với các thiết bị dạy
học đắt tiền. Tính hiện đại của thiết bị dạy học thể hiện ở việc sử dụng các thiết
bị sao cho đạt yêu cầu cao nhất trong việc thực hiện các mục tiêu dạy học, thể
hiện rõ tư tưởng sư phạm hiện đại.
Tóm lại, trên đây là 4 cơ sở quan trọng nhất, là căn cứ xuất phát khi tiến
hành lựa chọn, lập kế hoạch các phương pháp dạy học. Điều quan trọng nhất là
cần xác định lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học có thể giúp
học sinh học tập với niềm say mê, hứng thú, khát khao tìm tòi khám phá; lĩnh
hội tri thức trong các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo, theo
phương pháp khoa học; học trong tương tác, trong việc hình thành các quan hệ
hợp tác, thân thiện, cùng nhau giải quyết các nhiệm vụ học tập.
2.1.5. Văn bản nghị luận
2.1.5.1. Khái niệm
Văn nghị luận là loại văn bản mà người viết phải dùng ngôn ngữ trực tiếp
của mình để trình bày, phân tích, luận giải, phê phán, đánh giá và đi đến giải
quyết một vấn đề nào đó về chính trị xã hội, văn hoá, tư tưởng,… do cuộc sống

đặt ra, khiến cho người đọc, người nghe không những hiểu mà còn đồng tình
với cách giải quyết của tác giả.
2.1.5.2. Đặc điểm của văn bản nghị luận
- Về chức năng: Văn nghị luận trực tiếp trình bày các luận điểm, thể hiện
tư tưởng về chính trị, triết học, đạo đức, xã hội, văn học hay bày giải quan điểm
về đạo lí ở đời… Văn nghị luận không chỉ có tư tưởng đúng đắn mà còn có
những tình cảm lớn làm thành mạch nguồn của nó. Vì thế văn nghị luận bồi
dưỡng cho con người những tình cảm sâu sắc đúng đắn về thời đại, dân tộc,
nhân loại.
- Về kết cấu: Do có nhiều thể loại khác nhau nên kết cấu của chúng cũng
rất đa dạng. Song, trên bình diện chung có thể thấy, bài văn nghị luận thường
3


gồm ba phần chính dưới dạng tổng – phân – hợp: Vấn đề nghị luận/ nội dung
nghị luận/ Khái quát, bày tỏ quan điểm tư tưởng. Các thao tác phân tích, so
sánh, giải thích, bác bỏ, chứng minh, … thường xuất hiện trong văn nghị luận.
- Về tổ chức lời văn: Văn nghị luận đòi hỏi sự chặt chẽ của lập luận, sự
xác đáng của các luận cứ, sự thuyết phục của luận chứng… Văn nghị luận thời
trung đại có thể là văn vần, văn xuôi, nhưng phổ biến nhất là văn biền ngẫu.
Văn nghị luận hiện đại phổ biến nhất là câu văn xuôi có cấu trúc ngữ pháp rõ
ràng, chính xác đúng quy chuẩn. Tuỳ theo sở thích của tác giả, văn nghị luận
cũng thường xuất hiện các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, liên tưởng làm cho các tư
tưởng mềm mại, gợi cảm hoặc hóm hỉnh. Có khi tác giả trực tiếp bộc bạch tư
tưởng, tình cảm, nỗi lòng của mình trong lời văn nghị luận.
2.1.5.3. Các văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn 11 cơ bản
Sách giáo khoa Ngữ văn 11 (cơ bản) do Phan Trọng Luận tổng chủ biên
tuyển chọn đưa vào chương trình các văn bản nghị luận sau:
- Tiết 21 – 22: Chiếu cầu hiền (Ngô Thì Nhậm)
- Tiết 24: Đọc thêm: Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)

- Tiết 101 – 102: Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh)
Đọc thêm: Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân
tộc bị áp bức (Nguyễn An Ninh)
- Tiết 105: Đọc thêm: Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng - ghen)
- Tiết 106 – 107: Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)
Từ sự thống kê trên, có thể thấy rằng: Văn nghị luận được đưa vào
chương trình lớp 11 gồm nhiều thể loại: chiếu, điều trần, diễn thuyết, điếu văn,
tiểu luận; thuộc cả giai đoạn văn học trung đại và giai đoạn cận – hiện đại; bao
gồm cả văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Về thời lượng: Tổng số tiết
đọc hiểu văn bản nghị luận trong chương trình ngữ văn 11 cơ bản là 8 tiết trên
tổng số 123 tiết của cả năm học. So với số tiết dành cho đọc hiểu văn bản nghị
luận trong chương trình lớp 10 cơ bản (4 tiết) và chương trình lớp 12 cơ bản (8
tiết), có thể thấy dù thời lượng 8 tiết là không nhiều, song trong năm học này,
người soạn sách đã có sự ưu tiên cho việc rèn luyện tư duy logic và kĩ năng lập
luận ở học sinh. Sự ưu tiên này là cần thiết và hợp lí hướng tới mục tiêu đào tạo
con người phát triển toàn diện, trong đó có sự phát triển tư duy khoa học và
năng lực giao tiếp.
2.2. Cơ sở thực tiễn
Từ thực tế giảng dạy phần văn bản nghị luận ở trường phổ thông, chúng
tôi nhận thấy khó khăn lớn nhất từ phía học sinh là tư duy lập luận logic của các
em mới chỉ định hình. Điều này cũng có lý do vì chương trình lớp dưới chủ yếu
học văn miêu tả, trần thuật, thuyết minh… nên thói quen của các em vẫn chỉ là
tư duy hình ảnh theo phản ánh một chiều đối với hiện thực khách quan. Trong
khi đó văn bản nghị luận đòi hỏi cao hơn về tính khoa học, tính logic, tính biện
chứng. Từ “rào cản” đó mà sự tiếp nhận kiến thức mới đối với các em rất hạn
chế, ảnh hưởng nhiều đến sự lắng đọng kiến thức mà giáo viên muốn truyền thụ.

4



Một lý do chủ quan khác là tình trạng học sinh còn ngại đọc sách, đọc tài liệu và
không say mê với việc tìm hiểu những vấn đề thuộc lĩnh vực trừu tượng, khó
hiểu và khô khan này. Nếu không có sự hướng dẫn tận tình, sự thúc ép của giáo
viên thì học sinh cũng rất khó tự giác học và làm bài.
Về phía người thầy, để phục vụ cho những bài giảng này vẫn còn thiếu đồ
dùng, giáo cụ để góp phần nâng cao hiệu quả tiết học. Thầy cô nào yêu nghề,
say mê với môn học thì mới tự mò mẫm và thiết kế riêng những đồ dùng để tự
phục vụ cho chính bản thân mình. Còn không, “có sao dùng vậy”, vì thế ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng dạy học.
Thời gian gần đây, giáo viên cũng đã có nhiều thuận lợi như có đủ sách
giáo viên, sách tham khảo, sách thiết kế bài giảng… là những tài liệu quý hỗ trợ
cho giáo viên mở rộng kiến thức, chọn lọc những gì tinh túy nhất để đưa vào bài
giảng của mình. Hiện nay giáo án giảng dạy không chỉ là tài sản riêng của mỗi
cá nhân như trước đây mà nay đã trở thành sản phẩm chung của nhóm, tổ
chuyên môn luôn có sự góp ý bổ sung của tập thể nên chất lượng “tinh” hơn.
2.3. Một số phương pháp dạy học văn bản nghị luận trong chương trình
ngữ văn 11 cơ bản theo hướng đổi mới
2.3.1. Phương pháp đọc diễn cảm
2.3.1.1 Nội dung của phương pháp
Đọc diễn cảm là phương pháp tiếp nhận thông tin bằng mắt và truyền
thông tin bằng âm thanh. Bản chất của việc đọc văn quy định việc đọc diễn cảm.
Trong quá trình đọc, người đọc phải tạo được không khí giao cảm giữa người
nghe và tác phẩm, nhằm tìm hiểu tác phẩm. Vì vậy, ngữ điệu khi đọc phải thay
đổi linh hoạt. Khi đọc, phải làm rõ được giọng điệu, cảm xúc của nhà văn thể
hiện trong văn bản.
Việc đọc diễn cảm đối với văn bản nghị luận là rất cần thiết và quan trọng
để tái hiện âm hưởng đặc biệt của mỗi văn bản, qua đó cảm nhận, đánh giá về
thái độ, tình cảm của tác giả. Một áng văn nghị luận bất hủ bao giờ cũng là sản
phẩm kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng sâu sắc, mới mẻ và tình cảm mãnh
liệt, dạt dào.

2.3.1.2. Cách vận dụng
Phương pháp đọc diễn cảm có thể được vận dụng như sau:
- Giáo viên đọc mẫu (hoặc hướng dẫn cách đọc), tổ chức cho học sinh đọc rồi rút
ra nhận xét.
- Hoạt động đọc có thể diễn ra trong suốt quá trình dạy học (đầu, giữa hoặc cuối
tiết học).
- Giáo viên có thể hỗ trợ học sinh bằng câu hỏi, gợi ý; kết hợp hỏi với giải thích
từ ngữ khó; tiến hành đọc kết hợp với các hình thức khác như xem video, nghe
băng ghi âm…
2.3.1.3. Ví dụ
Theo chúng tôi, phương pháp dạy học này cần được sử dụng trong tất cả
các tiết dạy của phần văn nghị luận trong chương trình ngữ văn 11 cơ bản.
Chẳng hạn, với văn bản Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác (Ăng - ghen), vì là
5


bài điếu văn Ăng – ghen đọc trước mộ Mác trong lễ an táng người bạn cũng là
một bậc vĩ nhân của nhân loại, khi đọc, người đọc cần thể hiện được giọng
chậm rãi, hơi buồn (đoạn đầu), nhưng ở những câu, đoạn tiếp theo giọng phải
trang nghiêm, dứt khoát, mạnh mẽ, trầm hùng và tự hào. Không phải giọng bi
thương, mà đó mới là giọng chủ yếu của bài văn điếu này, xuất phát từ quan
điểm của Ăng – ghen khi đánh giá về giá trị sự sống của con người: giá trị của
con người được tính bằng những cống hiến của người ấy cho sự phát triển
chung của nhân loại.
2.3.1.4. Kết quả
Sử dụng phương pháp đọc diễn cảm trong giờ đọc hiểu văn bản nghị luận,
chúng tôi đã gặt hái được nhiều kết quả: Tạo cảm xúc trong giờ văn, tạo sự nhập
thân vào văn bản; giúp học sinh có những cảm nhận ban đầu về tác văn bản,
phát triển tư duy trực quan sinh động; lôi cuốn học sinh vào hoạt động tìm hiểu,
phân tích tác phẩm… Như vậy, đọc diễn cảm là chặng đầu tiên trên con đường

đọc hiểu văn bản, bao gồm người đọc, người nghe (người nghe có thể chính là
người đọc), tạo ra thế giới hình tượng sống động, được cụ thể hóa, cá tính hóa
trong khi đọc.
2.3.2. Phương pháp gợi mở (phương pháp đàm thoại)
2.3.2.1. Nội dung của phương pháp
Gợi mở hay đàm thoại là phương pháp dạy học mà nội dung bài học được
truyền thụ và tiếp nhận thông qua hệ thống câu hỏi. Tên gọi gợi mở đã thể hiện
rõ mục đích, tính chất của phương pháp: phương pháp khi được sử dụng có tác
dụng định hướng, dẫn dắt vấn đề, theo đó, quá trình tìm hiểu, lí giải văn bản tác
phẩm đi từ ngoài vào trong, từ thấp đến cao, từ phân tích hình ảnh, câu chữ, bộ
phận nhỏ lẻ đến khái quát giá trị của văn bản. Để đạt được hiệu quả cao, người
sử dụng phương pháp gợi mở phải soạn thảo được hệ thống câu hỏi đảm bảo các
yêu cầu sau đây:
Thứ nhất: Câu hỏi phải phù hợp với đặc trưng tài liệu học tập. Với văn
nghị luận, hệ thống câu hỏi phải tập trung khơi gợi để học sinh thấy rõ ba vấn
đề, là: mức độ sâu sắc, mới mẻ của tư tưởng tác giả; nghệ thuật lập luận độc đáo
và sự hòa quyện giữa tư tưởng với cách lập luận, giữa lí trí với cảm xúc trong
văn bản.
Thứ hai, câu hỏi phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của học sinh. Muốn
vậy, câu hỏi cần bám sát nội dung bài học và những vấn đề đời sống và phải
được “lạ hóa”.
Thứ ba: câu hỏi gợi mở phải đa dạng và có tính hệ thống. Điều này có
nghĩa: câu hỏi phải được thiết kế hướng tới mục đích giúp học sinh tìm hiểu nội
dung, nắm bắt kỹ năng và phải được sắp xếp theo trật tự nhất định. Có những
câu hỏi về ấn tượng chung, có câu hỏi yêu cầu tái hiện, suy luận, nêu vấn đề
hoặc so sánh, tổng hợp, khái quát, phân tích v.v…
Gợi mở dù là phương pháp đã ra đời từ rất lâu, song nó vẫn được sử dụng
rộng rãi trong quan điểm dạy học mới. Trong giờ đọc văn nói chung, đọc hiểu

6



văn bản nghị luận nói riêng, nếu được sử dụng khéo léo, phương pháp này sẽ
tạo được không khí sôi nổi, giúp giờ học đạt được hiệu quả như mong muốn.
2.3.2.2. Cách vận dụng
- Để vận dụng phương pháp gợi mở, người dạy cần vật chất hóa nội dung
bài học thành một hệ thống những câu hỏi. Việc hỏi – đáp được tiến hành trong
suốt giờ học. Quy trình đặt câu hỏi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp,
giáo viên hỏi và kiên trì nhắc lại câu hỏi khi học sinh chưa tìm được câu trả lời
đúng. Khi nhắc lại câu hỏi, giáo viên có thể thay đổi câu chữ nhưng vẫn giữ
nguyên nội dung hỏi. Từ ngữ trong câu hỏi phải chính xác, rõ ràng.
- Giáo viên phải nhận xét, góp ý khi học sinh trả lời xong.
- Phương pháp này không sử dụng riêng rẽ, tách rời mà phải kết hợp với
các phương pháp khác.
2.3.2.3. Ví dụ
Xin được lấy văn bản Một thời đại trong thi ca (trích – Hoài Thanh) làm
ví dụ. Đây là một văn bản nghị luận nhưng lại có nét khác biệt so với các văn
bản nghị luận học sinh được học trước đó, vì thuộc thể loại tiểu luận - phê bình
văn học. Dạy văn bản này, giáo viên một mặt phải giúp học sinh thấy được quan
niệm của Hoài Thanh về tinh thần thơ mới – một vấn đề vừa có ý nghĩa văn
chương, vừa có ý nghĩa xã hội. Mặt khác, giáo viên cũng cần định hướng học
sinh tìm hiểu về nét đặc sắc trong nghệ thuật nghị luận của tác giả: kết hợp giữa
tính khoa học chặt chẽ và tính nghệ thuật điêu luyện, từ đó thấy được phong
cách phê bình văn học tài hoa của Hoài Thanh, bước đầu hình thành năng lực
phê bình văn học ở học sinh. Từ mục tiêu trên, chúng tôi xin trích ngang một
phần trong thiết kế giáo án cho bài học với các câu hỏi gợi mở như sau:
HOẠT ĐỘNG CỦA GV VÀ HS
YÊU CẦU CẦN ĐẠT
1. Hoạt động 1: Tìm hiểu chung
I.Tìm hiểu chung



2.Hoạt động 2: Đọc và tìm hiểu II. Đọc hiểu văn bản
mạch lập luận của văn bản
1.Tìm hiểu mạch lập luận của tác giả

trong văn bản

3. Hoạt động 3: Tìm hiểu quan
2. Quan điểm của Hoài Thanh về
điểm của Hoài Thanh về tinh thần “tinh thần thơ mới”
thơ mới
a) Về con đường đi tìm tinh thần thơ
mới
- Giáo viên hỏi: Hoài Thanh đã vạch - Phải sánh bài hay với bài hay.
ra những con đường, cách thức nào - Phải nhìn vào đại thể để xác định đặc
để đi tìm “tinh thần thơ mới”? Việc sắc của mỗi thời.
xác định này có ý nghĩa gì?
- Xác định tinh thần thơ mới cần được
- HS xác định, đánh giá.
tìm hiểu, đối sánh trong mối quan hệ
với thơ cũ.
=> Nhận xét: Phương pháp nghiên cứu
khoa học, dự báo kết quả tìm hiểu
7


- GV hỏi: Vậy, “tinh thần thơ mới”
theo quan điểm của Hoài Thanh là
gì? Hành trình xuất hiện và đến với

bạn đọc của nó ra sao?
- HS dựa vào văn bản, trả lời.

- GV hỏi: Từ hiểu biết về phong trào
thơ mới, em có nhận xét gì về quan
niệm của Hoài Thanh?
- HS lấy dẫn chứng, phân tích làm rõ
cho quan điểm của Hoài Thanh, từ
đó đi đến nhận xét.
- GV hỏi: Từ bài viết của Hoài
Thanh, có thể thấy bi kịch của cái
“tôi” thơ mới là gì? Hiểu thấu bi kịch
này và hướng giải thoát của nó giúp
em đánh giá như thế nào đối với các
nhà thơ mới?
- HS tái hiện, bày tỏ quan điểm.

được sẽ có độ chính xác cao.
b) Về tinh thần thơ mới
- Tinh thần thơ mới gồm lại trong chữ
“tôi” với ý nghĩa khẳng định “quan
niệm con người cá nhân” trong “cái
nghĩa tuyệt đối của nó”. Thực chất đó
chính là sự giải phóng, trỗi dậy, bừng
nở của ý thức cá nhân.
- Quá trình xuất hiện của cái “tôi” thơ
mới: từ chập chững, lạ lẫm ->
quen -> thương.
=> Nhận xét: Xác định tinh thần thơ
mới chính xác, miêu tả sinh động, gợi

hình.

c) Về bi kịch của thời đại cái tôi
- Bi kịch của cái tôi thơ mới
+ Cái tôi tự cảm thấy bé nhỏ, tội
nghiệp “mất hết cốt cách hiên ngang
ngày trước”.
+ Cái “tôi” trốn chạy vào ý thức cá
nhân, thoát li cuộc đời nhưng bế tắc:
“mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, nhưng
càng đi sâu càng lạnh…”
+ Cái “tôi” thiếu một lòng tin đầy đủ…
- Giải pháp: Các nhà thơ mới dồn tất cả
vào tình yêu tiếng Việt, trau chuốt, gọt
dũa, làm giàu có cho ngôn ngữ tiếng
Việt trong từng tác phẩm.
=> Nhận xét:
+ Bi kịch của các nhà thơ mới là bi
kịch chung của cả một thế hệ, một thời
đại (khách quan).
+ Dù buồn, các nhà thơ mới vẫn thể
hiện tình cảm yêu nước kín đáo.
+ Mặt khác của bi kịch: giải phóng cái
tôi sáng tạo của nghệ sỹ. Từ đây,
phong trào thơ mới có đóng góp lớn
cho văn học về phong cách tác giả và
ngôn ngữ thơ ca.
-> Nỗi buồn của các nhà thơ mới cần
8



được cảm thông, chia sẻ. Người đầu
tiên thấu hiểu các nhà thơ mới có lẽ
chính là Hoài Thanh.
3. Về nghệ thuật phê bình văn học
của Hoài Thanh
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục, ý kiến
đánh giá sắc sảo.
- Ngôn ngữ tinh tế, giàu hình ảnh, cảm
xúc.
- Giọng điệu: nhập cuộc, đầy cảm
thông, thấu hiểu.
=> Lối phê bình văn học độc đáo, tinh
tế, tài hoa.

- GV hỏi: Em thích nhất đoạn nào
trong đoạn trích? Vì sao?
- 2 – 3 học sinh trình bày ấn tượng,
phân tích làm rõ vì sao có ấn tượng
như vậy?
- GV yêu cầu: Nêu những đặc điểm
nổi bật trong văn phong phê bình của
Hoài Thanh (Theo em, những
nguyên nhân nào làm nên sức hấp
dẫn của bài viết xét về nghệ thuật lập
luận ?)
3. Hoạt động 3: Tổng kết
III. Tổng kết




2.3.2.4. Kết quả
Sử dụng phương pháp gợi mở trong mỗi giờ đọc hiểu văn bản nghị luận,
chúng tôi đã giúp học sinh phát huy được tinh thần dân chủ và sự tự do tư tưởng
trong giờ học, tạo nên mối quan hệ hiểu biết lẫn nhau giữa thầy và trò. Bên cạnh
việc rèn luyện óc tìm tòi và các kĩ năng văn chương, phương pháp này còn tạo
kĩ năng giao tiếp xã hội cho học sinh, giàm bớt không khí thụ động trong giờ
học. Mặt khác, gợi mở còn giúp đảm bảo tính đặc thù trong tiếp nhận tri thức
nói chung, tiếp nhận tri thức văn chương nói riêng. Đó là quá trình đi từ thấp
đến cao, từ cụ thể đến khái quát, từ sự tìm hiểu các thành phần bộ phận cấu tạo
văn bản đến việc nắm bắt văn bản trong chỉnh thể trọn vẹn của nó, gắn những
cảm nhận trực giác hồn nhiên với những thao tác phân tích văn bản chặt chẽ,
khoa học. Vì vậy, đa số học sinh nắm vững bài học khi giáo viên sử dụng thành
thạo phương pháp dạy học này.
2.3.3. Sử dụng phiếu học tập kết hợp với thảo luận nhóm
2.3.3.1. Nội dung phương pháp
Thảo luận nhóm là một trong những phương pháp dạy học tích cực được
sử dụng thường xuyên trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
Theo Phan Trọng Ngọ,“Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn
(lớp học) được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp
đều được làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của
nhóm mình về vấn đề đó” [4].
Khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, có thể kết hợp sử dụng phiếu
học tập để “giao việc” cho học sinh trong giờ học.

9


Phiếu học tập là một trong những công cụ nhằm tiết kiệm thời gian trong
việc tổ chức hoạt động học tập, đồng thời cùng một lúc có thể kiểm tra được

nhiều kiến thức, kĩ năng, nhiều đối tượng và chữa những lỗi cơ bản, phổ biến.
Phiếu học tập là những tờ giấy rời in sẵn những công việc, phát cho học sinh
yêu cầu hoàn thành trong thời gian ngắn của tiết học.
2.3.3.2. Cách vận dụng
Để phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, những điểm khó của
phương pháp thảo luận nhóm ở môn Ngữ văn, giáo viên nên chú ý những vấn
đề sau:
- Lựa chọn chủ đề thảo luận: Chủ đề thảo luận phải là những nội dung cơ bản,
trọng tâm, đồng thời là những tình huống có vấn đề, hấp dẫn, buộc học sinh
phải động não. Chủ đề thảo luận được giáo viên nêu ra trong phiếu học tập với
những yêu cầu công việc cụ thể. Để đảm bảo chất lượng của quá trình thảo luận
cũng như chất lượng của giờ lên lớp, giáo viên nên hướng dẫn học sinh đọc
trước bài học và những vấn đề cần lưu ý. Điều đó giúp học sinh chủ động hơn
trong thảo luận.
- Chia nhóm và chọn nhóm trưởng: Giáo viên có thể áp dụng linh hoạt các hình
thức chia nhóm: Chia nhóm ngẫu nhiên, chia nhóm cùng trình độ, chia nhóm
gồm đủ các trình độ, chia nhóm theo sở trường. Ngoài ra, có thể chia nhóm theo
kiểu nhóm nhỏ thông thường, nhóm rì rầm, nhóm kim tự tháp, nhóm đồng tâm...
- Giao nhiệm vụ cho nhóm: Giáo viên nêu nhiệm vụ rõ ràng, ngắn gọn, xác định
thời gian, hướng dẫn cách thức thảo luận (Những yêu cầu này đã được ghi rõ
trong phiếu học tập).
- Làm việc theo nhóm: Sau khi chia nhóm, mỗi nhóm sẽ bốc thăm để chọn
nhóm trưởng, thư ký hoặc tự bầu ra nhóm trưởng. Giáo viên có thể chỉ định
nhóm trưởng, thư ký luân phiên để khắc phục tình trạng có học sinh chuyên
trách nhiệm vụ này. Trong khi học sinh thảo luận giáo viên đi tới các nhóm,
quan sát, gợi ý, giúp đỡ học sinh thảo luận nếu thấy cần thiết và nhắc nhở
không nói chuyện, chơi, làm việc riêng. Sau khi thảo luận, đại diện các nhóm
lên trình bày. Học sinh quan sát, bổ sung.
- Tổng kết: Giáo viên với vai trò trọng tài chốt lại những nội dung cơ bản, khen
thưởng những nhóm thảo luận tốt, động viên, khuyến khích để tạo hứng thú cho

học sinh.
2.3.3.3. Ví dụ
Với bài đọc thêm Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ), có thể
thiết kế phiếu học tập cho thảo luận nhóm như sau:
Tiết 24: Đọc thêm XIN LẬP KHOA LUẬT (Nguyễn Trường Tộ)
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 1
Lớp:11…… Nhóm:…………………………………………………………
Nhiệm vụ: Tìm hiểu mạch lập luận của văn bản
1 Đọc văn bản, xác định bố cục, luận đề, tìm ý được triển khai trong mỗi phần của
văn bản.
10


2 Nhận xét về mạch lập luận dựa theo mối quan hệ giữa các ý trong văn bản.
Trả lời:.......................................................................................................................
....................................................................................................................................
Tiết 24: Đọc thêm XIN LẬP KHOA LUẬT (Nguyễn Trường Tộ)

1
2

1
2
3

PHIẾU HỌC TẬP SỐ 2
Lớp:11……… Nhóm:…………………………………………………………
Nhiệm vụ: Tìm hiểu về tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lí nhà nước của
Nguyễn Trường Tộ:
Ở thời điểm viết văn bản (thời phong kiến trung đại), Nguyễn trường Tộ đã có

cách nhìn nhận như thế nào về vai trò của pháp luật, về mối quan hệ giữa pháp
luật và đạo đức Nho giáo?
Ngày nay, pháp luật có vai trò như thế nào trong quản lí xã hội? Từ đó, nhận xét
về tầm tư tưởng của tác giả bản điều trần?
Trả lời:.......................................................................................................................
....................................................................................................................................
Tiết 24: Đọc thêm XIN LẬP KHOA LUẬT (Nguyễn Trường Tộ)
PHIẾU HỌC TẬP SỐ 3
Lớp:11……… Nhóm:…………………………………………………………
Nhiệm vụ: Tìm hiểu Nghệ thuật nghị luận
Xác định đối tượng thuyết phục, mục đích viết điều trần của tác giả?
Cách thức triển khai vấn đề của tác giả khéo léo, phù hợp ra sao?
Qua văn bản, em có nhận xét gì về thái độ, tình cảm của tác giả Nguyễn Trường
Tộ với nhân dân, đất nước?
Trả lời:.......................................................................................................................
....................................................................................................................................
Với 3 phiếu học tập trên, giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm thảo
luận về một vấn đề, hoàn thành phiếu trong khoảng 7 phút. Sau đó giáo viên tổ
chức cho học sinh trao đổi kết quả để đi đến thống nhất về giá trị của văn bản.
2.3.3.4. Kết quả
Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm kết hợp dùng phiếu học tập trong
các giờ đọc hiểu văn bản nghị luận, chúng tôi đã khắc phục được khô khan do
tính chất bài học, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Sau bài học,
học sinh không chỉ nắm được kiến thức mà còn nâng cao năng lực diến đạt, hợp
tác làm việc. Đây là phẩm chất quan trọng của người công dân trong xu thế hội
nhập, toàn cầu hóa ngày nay.
2.3.4. Dùng lược đồ tư duy
2.3.4.1. Nội dung phương pháp
Lược đồ tư (duy còn gọi là bản đồ khái niệm) là một sơ đồ nhằm trình bày
một cách rõ ràng những ý tưởng mang tính kế hoạch hay kết quả làm việc của cá

nhân hoặc nhóm về một chủ đề. Lược đồ tư duy có thể được viết trên giấy, trên
bảng trong, trên bảng hay thực hiện trên máy tính. Lược đồ tư duy có thể ứng
dụng trong nhiều tình huống khác nhau, như: tóm tắt nội dung, ôn tập một chủ
11


đề; trình bày tổng quan một chủ đề; chuẩn bị ý tưởng cho một báo cáo hay buổi
nói chuyện, bài giảng; thu thập, sắp xếp các ý tưởng; ghi chép khi nghe giảng…
Đối với các bài đọc hiểu văn bản nghị luận, lược đồ tư duy có thể được sử
dụng ở phần tìm hiểu về mạch lập luận của văn bản hay ở phần cuối bài học, để
thâu tóm, hệ thống hóa nội dung bài học.
2.3.4.2. Cách vận dụng
Việc vận dụng phương pháp này cần được tiến hành theo những thao tác
cụ thể:
- Viết tên chủ đề ở trung tâm, hay vẽ một hình ảnh phản ánh chủ đề.
- Từ chủ đề trung tâm, vẽ các nhánh chính. Trên mỗi nhánh chính viết một khái
niệm phản ánh một nội dung lớn của chủ đề bằng CHỮ IN HOA. Nhánh và chữ
viết trên đó được viết và vẽ cùng một màu. Nhánh chính đó được nối với chủ đề
trung tâm. Chỉ sử dụng các thuật ngữ quan trọng để viết trên các nhánh.
- Từ mỗi nhánh chính vẽ tiếp các nhánh phụ để viết tiếp những nội dung thuộc
nhánh chính đó. Các chữ trên nhánh phụ được viết bằng chữ in thường.
- Tiếp tục như vậy ở các tầng phụ tiếp theo.
2.3.4.3. Ví dụ
Với văn bản Về luân lí xã hội ở nước ta (Phan Châu Trinh), ở phần tìm
hiểu mạch lập luận, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lược đồ hóa nội dung
bài diễn thuyết như sau:
LUÂN LÍ XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

Thực trạng, nguyên
nhân


Bên Âu châu

Thực trạng

Ở Việt Nam

Thực trạng
Nguyên nhân

Nguyên nhân

Phải truyền bá chủ nghĩa xã hội, xây dựng
đoàn thể, tiến tới dành độc lập dân tộc.
12


2.3.4.4. Kết quả
Sử dụng lược đồ tư duy, học sinh có thể ghi nhớ những nội dung bài học
một cách dễ dàng, có hệ thống; rèn luyện tư duy logic khoa học. Với những kiến
thức đã biết về văn bản, việc yêu cầu học sinh sắp xếp lại bằng lược đồ tư duy
còn giúp các em hứng thú, say mê, tạo được không khí làm việc tích cực cho giờ
học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong hai năm học liên tiếp áp dụng các phương pháp trên vào việc dạy
các văn bản nghị luận, chúng tôi đã thu được kết quả khá khả quan.
Năm học 2016 – 2017: để có cơ sở so sánh, sau phần văn nghị luận,
chúng tôi tiến hành khảo sát ở hai lớp thực nghiệm là 11B và một lớp không
thực nghiệm là 11A bằng các đề kiểm tra mức độ hiểu bài và kĩ năng đọc hiểu
văn nghị luận của học sinh (thời gian: 45 phút). Kết quả bài làm như sau:

Lớp

Sĩ số

11B

42

Điểm
0-2
0

11A

42

2

Điểm
3-4
0

Điểm
5-6
10
24%
10
20
5%
24%

47%

Điểm
7-8
21
50%
10
24%

Điểm
9 - 10
11
26%
0

TB
trở lên
42
100%
30
71%

Năm học 2017 – 2018, chúng tôi làm công việc tương tự tại lớp thực
nghiệm là 11H, 11I và lớp không thực nghiệm là 11K. Kết quả thu được là:
Lớp

Sĩ số

11I


40

Điểm
0-2
0

11H

45

0

11K

44

1

Điểm
3-4
0

Điểm
5-6
15
38%
1
12
2%
27%

13
19
2%
30%
43%

Điểm
7-8
19
47%
24
53%
10
23%

Điểm
9 - 10
6
15%
8
18%
1
2%

TB
trở lên
40
100%
45
100%

30
68%

Dạy học là cả một nghệ thuật, dạy học ngữ văn lại càng khó khăn hơn nữa
trong xu thế phát triển nghề nghiệp hiện nay. Thực tế cho thấy hiện nay nhiều
học sinh không yêu thích môn văn. Thế nhưng, với những thể nghiệm đổi mới
phương pháp, vận dụng những phương pháp dạy học trên vào từng bài đọc hiểu
văn bản nghị luận cụ thể, chúng tôi đã tạo ra được không khí hứng thú say mê,

13


kích thích được trí tò mò khám phá và sự ham học hỏi của người học, đưa các
em vào vị trí trung tâm, chủ động khám phá và lĩnh hội kiến thức. Với những
phương pháp này, khi được chuẩn bị kĩ càng, người dạy cũng trở nên chủ động
hơn trong vai trò người dẫn dắt, gần gũi, hòa đồng hơn với học sinh, được học
sinh tin yêu, mến trọng.
2.5. Áp dụng các phương pháp dạy học loại văn bản nghị luận theo hướng
đổi mới vào bài giảng cụ thể
Khi tổ chức một giờ đọc hiểu văn bản, hiển nhiên giáo viên có nhiều
phương pháp để lựa chọn. Qua thực nghiệm, chúng tôi thấy những phương pháp
được trình bày trên đây là tối ưu nhất đối với giờ đọc hiểu một văn bản nghị
luận. Song, các phương pháp dạy học cần được vận dụng một cách linh hoạt, tùy
thuộc nội dung bài học, đối tượng học sinh và những điều kiện dạy học khác.
Đến đây, chúng tôi xin đề xuất hướng thiết kế giáo án cho bài Chiếu cầu hiền
của Ngô Thì Nhậm làm minh họa cho những lí thuyết được đúc rút trong sáng
kiến kinh nghiệm này (giáo án được thiết kế theo mẫu của trường THPT Quảng
Xương IV).
Tiết 21 – 22: CHIẾU CẦU HIỀN
(Cầu hiền chiếu – Ngô Thì Nhậm)

A. Mục tiêu:
Giúp học sinh:
- Hiểu được tư tưởng mang tầm chiến lược, chủ trương tập hợp nhân tài để xây
dựng đất nước của vua Quang Trung, qua đó nhận thức được tầm quan trọng của
nhân tài đối với quốc gia.
- Nắm được hệ thống lập luận trong bài chiếu và cảm xúc của người viết, từ đó
củng cố hiểu biết về thể loại chiếu và rèn luyện kĩ năng đọc, viết văn nghị luận.
B. Phương tiện dạy học: Sách giáo khoa, sách giáo viên, Thiết kế giáo án, các
phiếu học tập.
C. Phương pháp dạy học: Sử dụng kết hợp các phương pháp đọc diễn cảm, gợi
mở, thảo luận nhóm, dùng phiếu học tập, sơ đồ tư duy…
D. Tiến trình dạy học:
1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ
3. Bài mới

14


4. Củng cố - Dặn dò:
- GV hỏi: Câu 1: Theo em, việc
trọng dụng người tài có ý nghĩa như
thế nào trong công cuộc xây dựng
đất nước Việt Nam hiện nay? (Học
sinh cần thấy được vai trò của hiền
tài trong mọi thời đại. Ngày nay đất
nước có nhiều chính sách biệt đãi
người tài… Từ đó, HS biết xác định
phương hướng học tập, tu dưỡng để
trở thành nhân tài phục vụ đất nước).

Câu 2: Em học tập được gì
từ cách viết văn nghị luận của Ngô
Thì Nhậm? (HS rút ra bài học: Từ
mục đích, đối tượng nghị luận để lựa
chon cách viết phù hợp; bài nghị
luận cần thể hiện tính chặt chẽ trong
suy luận song cũng phải thể hiện
được tình cảm chân thành, mãnh liệt
của người viết…)
- Bài tập về nhà: Dùng lược đồ tư
duy để hệ thống hóa nội dung bài
học Chiếu cầu hiền.

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN
NGHỊ
3.1. Kết luận
Từ thực tiễn vận dụng đổi
mới phương pháp dạy học phần
văn nghị luận trong chương trình
Ngữ văn 11 (cơ bản) và kết quả
khảo sát trên, chúng tôi rút ra một
số kết luận như sau:
3.1.1. Đổi mới phương pháp dạy học
là việc làm cần thiết và phải được
tiến hành thường xuyên, liên tục, tùy
điều kiện dạy học ở mỗi trường, mỗi
vùng. Đổi mới phương pháp chính là
trải qua quá trình lựa chọn đúng và
sáng tạo kiểu phương pháp dạy học
đã được mô tả lí luận trong khoa học

giáo dục, xác định đúng và tối ưu

HOẠT
ĐỘNG
CỦA GV VÀ HS
1. Hoạt động 1:
Tìm hiểu chung
- GV yêu cầu: Dựa
vào phần Tiểu dẫn
(SGK), hãy trình
bày những nét
chính về tác giả
Ngô Thì Nhậm?
- HS dựa vào SGK,
trình bày.

- GV hỏi: Từ những
đặc điểm vừa nêu,
em có nhận xét gì
về Ngô Thì Nhậm?
- HS trao đổi trong
từng bàn để rút ra
nhận xét.
- GV hỏi: Ở cấp 2
em đã học văn bản
nào được viết theo
thể chiếu? Em biết
gì về thể loại này?
- HS nhớ lại bài
học Chiếu dời đô

của Lí Công Uẩn,
tái hiện kiến thức
về thể loại. GV bổ
sung, chốt ý.

- GV hỏi: Nêu hoàn
cảnh ra đời của bài
chiếu? Từ hoàn
cảnh, xác định mục
đích, đối tượng mà
bài chiếu hướng
tới?
- HS trả lời câu hỏi
2. Hoạt động 2:

YÊU CẦU CẦN
ĐẠT
I.
Tìm
hiểu
chung
1. Tác giả Ngô
Thì Nhậm (1746
– 1803)
- Quê: Trấn Sơn
Nam – Thanh Trì
– Hà Nội.
- Từng đỗ Tiến sĩ
và làm quan dưới
triều Lê – Trịnh.

- Là một trong
những sĩ phu Bắc
Hà đi theo phong
trào Tây Sơn,
được
Quang
Trung trọng dụng;
có nhiều đóng góp
cho triều đại Tây
Sơn, giúp vua
Quang Trung soạn
thảo nhiều văn
bản giấy tờ quan
trọng.
=> Người tài giỏi,
thức thời, yêu
nước.
2. Tác phẩm
a/ Thể chiếu
-Thể văn nghị
luận chính trị - xã
hội thời trung đại,
do vua ban hành
(hoặc người khác
viết thay, dựa theo
tư tưởng nhà vua).
- Xuống chiếu cầu
hiền tài là một
truyền thống văn
hóa, chính trị

phương Đông.
b/ Hoàn cảnh ra
đời: Khi nhà Tây
Sơn mới được
thành
lập
->
Hướng tới tầng15
lớp sĩ phu Bắc Hà,
thuyết phục họ


những mô hình tâm lí của kiểu phương pháp dạy học đã chọn – tức là đúng khả
năng sư phạm của người dạy và đặc điểm của lớp học, người học.
3.1.2. Đổi mới dạy học ngữ văn nói chung, dạy học văn bản nghị luận nói riêng
là một việc làm không dễ. Để thành công, người giáo viên cần nắm vững kiến
thức, có khả năng ứng phó tốt với các tình huống sư phạm và hoạt động dạy học
phải được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ, thuận lợi.
3.1.3. Với các phương pháp cơ bản là đọc diễn cảm, gợi mở, thảo luận nhóm kết
hợp sử dụng phiếu học tập, dùng lược đồ tư duy, nếu được vận dụng khéo léo sẽ
cho hiệu quả tối ưu trong các giờ đọc hiểu văn bản nghị luận. Muốn vậy, về phía
học sinh cần, chủ động, sáng tạo; biết lắng nghe những yêu cầu, hướng dẫn của
giáo viên khi chuẩn bị và khi tiếp cận văn bản; biết chủ động tìm hiểu vốn sống
thực tế, sưu tầm tích lũy vốn tri thức, rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản trong
giao tiếp nói và viết. Về phía giáo viên cũng cần nắm bắt, hiểu biết sâu, rõ về
đặc trưng thể loại, có vốn tri thức phong phú; vận dụng các phương pháp dạy
học đúng đặc trưng bộ môn, sử dụng các phương tiện dạy học triệt để; đầu tư
nghiên cứu, chuẩn bị các phương tiện đồ dùng dạy học; thiết kế giáo án chú
trọng đến hệ thống câu hỏi và kiến tạo các hoạt động học cho học sinh. Có được
tất cả điều đó, mỗi giáo viên đều có thể chủ động, tự tin, có tâm lí vững vàng khi

đứng lớp và chắc chắn giờ đọc hiểu văn bản nghị luận không nhàm chán mà sẽ
đạt được hiệu quả như mong muốn.
3.2. Kiến nghị
Theo tôi, tổ chuyên môn của trường THPT Quảng Xương IV nên thường
xuyên tổ chức thao giảng đổi mới phương pháp ở các bài đọc hiểu văn bản nghị
luận; thư viện nhà trường cần bổ sung thêm sách tham khảo cho cả giáo viên và
học sinh về các văn bản nghị luận để việc dạy học phần văn bản khó này được
thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn.
Vấn đề ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LOẠI VĂN BẢN NGHỊ
LUẬN trên đây là kết quả tích lũy kinh nghiệm của cá nhân trong quá trình
giảng dạy. Như đã nói, đổi mới là một quá trình lâu dài, thường xuyên và liên
tục. Chúng tôi mong rằng sẽ nhận được ý kiến góp ý, sẻ chia của bạn bè đồng
nghiệp để tiếp tục rút kinh nghiệm, tích lũy thêm giúp công tác giảng dạy của
bản thân được tốt hơn.
XÁC NHẬN

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 05 năm 2018

CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Phan Thị Lan

16


17



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT QUẢNG XƯƠNG 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LOẠI VĂN BẢN
NGHỊ LUẬN TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 11
ĐỂ TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG
THPT QUẢNG XƯƠNG IV
Người thực hiện : Phan Thị Lan
Chức vụ : Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực : Ngữ văn

18


THANH HÓA, NĂM 2018

19


MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

1


1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung

2

2.1. Cơ sở lí luận

2

2.2. Cơ sở thực tiễn

3

2.3. Một số phương pháp dạy học loại văn bản nghị luận trong chương trình ngữ
văn 11 cơ bản theo hướng đổi mới
4
2.3.1. Phương pháp đọc diễn cảm


4

2.3.2. Phương pháp gợi mở

6

2.3.3. Sử dụng phiếu học tập kết hợp với thảo luận nhóm

9

2.3.4. Dùng lược đồ tư duy

11

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

13

2.5. Áp dụng các phương pháp dạy học loại văn bản nghị luận theo
hướng đổi mới vào bài giảng cụ thể

13

3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận

19

3.2. Kiến nghị


20

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Chí, Các căn cứ lí luận và thực tiễn lựa chọn phương
pháp dạy học, tháng 9/ 2009.
2. Đặng Thành Hưng, Kĩ thuật thiết kế phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hóa, Tạp chí giáo dục số 102, quý IV/ 2004.
3. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia, 1996
4. Phan Trọng Ngọ, Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường,
Nxb Đại học Sư phạm, 2013.
5. Nguyễn Thị Minh Tâm, Dạy học theo nhóm nhỏ trong phân môn văn
học, skkn, 2011.
6. Bùi Túy Phượng, Thiết kế phiếu học tập cho các bài dạy văn nghị luận
Việt Nam trung đại ở THPT, Tạp chí Dạy và học ngày nay, số 5 – 2011.
7. Nguyễn Thị Xuyến, Dạy đọc – hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại,
skkn, 2007

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
PHAN THỊ LAN
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Quảng Xương 4


TT

Tên đề tài SKKN

1.

Phương pháp tổ chức hoạt
động ngoại khóa về Nguyễn
Du và Truyện Kiều cho học
sinh ở trường THPT

Cấp đánh giá xếp
loại

Kết quả
đánh giá
xếp loại

(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc
C)

Sở GD & ĐT

C

Năm học

đánh giá
xếp loại

2011

2.
3.
4.
5.
...

22



×