Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số biện pháp làm giảm tình trạng stress trong giờ ngữ văn tại lớp 10b trường THPT như xuân 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.8 KB, 15 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM GIẢM TÌNH TRẠNG STRESS TRONG GIỜ
NGỮ VĂN TẠI LỚP 10B TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II

Người thực hiện: Võ Thị Thanh Xuân
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2019
1


Mục lục
1.
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.
2
2.1.
2.2.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.


2.3.4.
2.4.
3.
3.1
3.2

Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Các biện pháp đã áp dụng
Giao tiếp bằng mắt
Sử dụng lời phê phù hợp trong bài viết
Giao nhiệm vụ học tập kết hợp các kĩ năng nói, viết, xem, nghe, đọc
Sử dụng biện pháp đọc diễn cảm và các kỹ thuật dạy học tích cực
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận , kiến nghi
Kết luận
Kiến nghi

Trang
1
1
2
2

2
2
3
3
4
4
4
4
5
6
10
10
10
10

BIỆN PHÁP GIẢM STRESS TRONG GIỜ HỌC NGỮ VĂN
TẠI LỚP 10B TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN II
1.Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Ngành giáo dục đang trên chặng đường đổi mới. Đó là nhu cầu và đòi hỏi
tất yếu. Mặc dù vậy đội ngũ giáo viên đang đối mặt với nhiều vấn đề, từ trong
mỗi người và bên ngoài xã hội. Trên lý thuyết thầy cô giáo hiểu mình cần đổi
2


mới tư duy, phương pháp dạy học, rèn luyện kỹ năng, tiếp cận công nghệ và học
ngoại ngữ. Nhưng trên thực tế có một khoảng trống trong việc giáo dục học sinh
với nhiều vấn đề nổi cộm. Theo tôi có 2 nguyên nhân chính.
Thứ nhất: tâm lý học sinh ngày càng phức tạp, xã hội có sự phân hóa
trong mức sống và nhận thức, phụ huynh nhiều mong muốn với người dạy học

nhưng cũng đặt lên họ những áp lực nặng nề. Thứ hai: Bản thân người thầy
người cô còn lúng túng khi thực hiện nhiệm vụ, sự tự thay đổi diễn ra còn chậm
và không đồng đều. Mỗi người đều có những vấn đề cá nhân, không dễ dàng đặt
nó ở ngoài cửa lớp học.
Qua thực tế dạy học và công tác đoàn thể, tôi nhận thấy vấn đề đang diễn
ra âm ỉ đó là tình trạng stress ở cả giáo viên và học sinh. Tình trạng stress sẽ gây
ra không khí nặng nề trong giờ học, tạo ra sự xa cách giữa giáo viên và học
sinh, sự hợp tác giữa thầy và trò mang tính chất đối phó, gượng gạo.
Môn văn là một trong những môn thi bắt buộc của kỳ thi THPT quốc gia.
Đây là môn học đặc biệt quan trọng giúp học sinh phát triên các năng lực giao
tiếp, thẩm mỹ…Tuy nhiên việc học văn ở các nhà trường còn đối diện với nhiều
vấn đề trong đó có phương pháp dạy của giáo viên và tâm lý của học sinh. Giáo
viên thường tập trung dạy kiến thức do áp lực điểm số, chỉ tiêu các kỳ thi. Trong
khi đó, tình trạng căng thẳng trong học tập của học sinh có dấu hiệu gia tăng.
Học sinh THPT có 13 môn học, đa số các em đều học ngày 2 buổi. Học sinh
chiu sự quá tải của môn học và chương trình phổ thông hiện hành. Mục tiêu học
tập của học sinh không có hoặc không rõ ràng. Một số khác lực học yếu sinh ra
chán nản. Bên cạnh đó học sinh gặp phải nhiều vấn đề của cuộc sống gia đình,
quan hệ bạn bè phức tạp, ảnh hưởng trái chiều của mạng xã hội. Học sinh rơi
vào tình trạng stress ngày càng nhiều.
1.2.Mục đích nghiên cứu
Từ thực trạng trên, tôi chọn nghiên cứu vấn đề biện pháp giảm Stress
trong giờ Ngữ văn tại lớp 10B trường THPT Như Xuân II nhằm khắc phục tình
trạng căng thẳng trong giờ học, thay đổi thái độ và nhận thức của học sinh về bộ
môn ngữ văn nói riêng và việc học nói chung.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nhóm học sinh bi stress ở lớp 10B trường THPT Như Xuân II, tìm
nguyên nhân học sinh bi stress và đưa ra giải pháp để khắc phục tình trạng đã
nêu; dần thay đổi cách thức dạy học va giáo dục học sinh.

1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh
1.5.Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
3


Các sáng kiến kinh nghiệm của đồng nghiệp chủ yếu nghiên cứu khảo sát
về biểu hiện stress, không thể hiện trong phạm vi môn học cụ thể và chỉ ra biện
pháp khắc phục.SKKN của tôi tập trung vào nhóm đối tượng cụ thể là học sinh
lớp 10B trường Như Xuân II; Tìm biện pháp khắc phục và đã có những chuyển
biến tích cực và hiệu quả nhất đinh. Kinh nghiệm này có thể sử dụng cho nhiều
bộ môn và nhiều hoạt động giáo dục trong nhà trường.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Stress là phản ứng của cơ thể trước bất cứ một yêu cầu, áp lực hay một
yếu tố tác động nào đe dọa đến sự tồn tại lành mạnh của con người cả về thể
chất lẫn tinh thần. Stress là một khái niệm đa hình. Trong thường ngày chúng ta
đều trải nghiệm stress ở nhiều khía cạnh khác nhau trong các hoạt động của
chúng ta:ở trường, ở nhà, nơi công sở và thậm chí cả trong các hoạt động thể
dục thể thao cũng có stress,stress luôn luôn tồn tại quanh ta. Bất kỳ ai cũng có
thể rơi vào trạng thái stress. Stress có 4 dạng biểu hiện về cơ thể, cảm xúc, hành
vi, trí tuệ, cụ thể:
Stress cơ thể: mệt mỏi, đau đầu, đau lưng, đau cơ bắp, chóng mặt đổ mồ hôi, tức
ngực - khó thở, tay chân bủn rủn, bụng cồn cào, tim đập nhanh – thở gấp, tiêu
chảy táo bón.
Stress cảm xúc: Lo âu, dễ nổi cáu, hồi hộp, chán nản, sợ hãi, không hài lòng,
trống rỗng, mất phương hướng, cảm thấy dễ tổn thương, căng thẳng,
Stress trí tuệ: Mất khả năng tập trung, liên tưởng chậm, trí nhớ giảm, đánh giá
nhận đinh kém.
Stress hành vi: Hạn chế tham gia các hoạt động, hay tranh luận quá khích, né

tránh học tập, diễn đạt không lưu loát, ngại tiếp xúc, trêu bạn, cãi thầy cô, mắt
nhìn vô đinh, uống rượu bia.
Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng stress của học sinh thường là do: chương
trình nặng, khó, lich học dày; giáo viên cứng nhắc, quá nghiêm khắc; Học sinh
thiếu kỹ năng sống, không có động cơ học tập; rắc rối trong quan hệ với bạn bè,
gia đình hoặc không có mục tiêu học tập, mất phương hướng, lực học yếu dẫn
đến chán nản, buông xuôi, nghiệm games, mạng xã hội….
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình dạy học, quan sát, theo dõi học sinh tham gia các hoạt
động, tôi nhận thấy luôn có một nhóm học sinh stress trong học tập. Lớp 10B có
45 học sinh, số học sinh nữ gấp đôi số học sinh nam. Nhìn chung các em có lực
học trung bình khá, thiên về các môn thuộc khối xã hội. Trong lớp có nhiều em
được lựa chọn tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh. Bên cạnh đó có một nhóm
tôi xếp vào đối tượng bi stress. Các em lười học thường xuyên tỏ ra uể oải, ủ rũ,
ngồi học thường khồng đúng tư thế (nằm xoài ra bàn hoặc dựa lưng vào tường),
4


thậm chí là ngủ một cách tự nhiêm, hoặc nghich phá hoặc lơ đễnh nhìn ra ngoài,
không trả lời bài, không học bài cũ…
- Nguyễn Như Quỳnh: lơ đễnh, nằm ngủ, luôn buồn bã vì chia tay bạn trai
- Phạm Thùy Trang: thường không trả lời được câu hỏi của giáo viên do không
tập trung, lực học yếu.
- Nguyễn Thu Hoài: nằm xoài ra bàn, ngủ, không ghi bài, không trả lời được bài
- Đoàn Thi Trang; Nguyễn Bích Ngọc: ghi bài nhưng không tập trung
- Trần Thi Hằng: nói tự do, nói to trong lớp, nổi cáu với bạn.
- Cao Thế Hải, Nguyễn Tài Trường: gây gổ, đánh nhau, bỏ tiết.
- Trần Thế Anh, Mai Thanh Bách: không hợp tác với giáo viên, ra vào lớp tự do
Nhìn chung thái độ hợp tác của nhóm học sinh này rất thấp, không học bài
cũ, thầy cô giáo bộ môn thường xuyên than phiền về thái độ, ý thức và kết quả

học tập. Giáo viên chủ nhiệm áp dụng nhiều hình thức phạt, kỷ luật, trò chuyện,
can thiệp tâm lý, phối hợp với phụ huynh nhưng sự thay đổi của các em không
đáng kể. Tôi đã tìm hiểu và rút ra kết luận:
Nguyên nhân trực tiếp: từ lớp 9 các em đã không ham học, một số em đã
có người yêu nên càng xao nhãng bài vở, bên cạnh đó các em đã được gán mác “
dốt”, “nhác”…và không có động lực để gỡ cái mác ấy ra.
Nguyên nhân sâu xa: không hứng thú với việc học nói chung và môn văn
nói riêng , không có mục tiêu, không tìm thấy niềm vui trong giờ học, sự tin
tưởng với thầy cô cũng không nhiều.
Với nhóm học sinh này, thầy cô thường kêu ca phàn nàn nên các em thêm
phần chán nản. Muốn thay đổi các em cần cho các em thấy mình được quan tâm,
được ghi nhận. Các biện pháp kỷ luật không có nhiều hiệu quả mà phải tác động
vào tâm lý và cảm xúc trước. Môn văn có ưu thế hơn các bộ môn khác trong
việc tiếp cận con người bên trong của học sinh.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã áp dụng
2.3.1. Tích cực giao tiếp bằng ánh mắt với học sinh
Quan sát học sinh và cho học sinh biết mục đích của việc quan sát. Bao
quát lớp là nhiệm vụ của người dạy học. Tuy nhiên không phải giáo viên nào
cũng tuân thủ điêu này. Nhiều giáo viên hoặc quan sát lớp nhưng gây sự căng
thẳng, lo âu; hoặc không để ý đến nhóm học sinh không hợp tác để giờ học
không bi gián đoạn.
Tôi cho rằng giao tiếp bằng mắt với học sinh là một biện pháp hiệu quả để
kéo học sinh trở lại với nhiệm vụ học tập. Giáo viên dùng mắt bao quát lớp,
5


hướng đến những học sinh có vấn đề , ngầm nhắc học sinh quay về nhiệm vụ
hiện tại, bày tỏ sự không hài lòng. Hoặc giáo viên hướng vào một đối tượng duy
nhất, khuyến khích: chờ đợi câu trả lời, khích lệ khi học sinh còn rụt rè, làm
đồng minh khi các bạn có ý cười cợt; dùng ánh mắt tán thưởng với những việc

làm đúng, chào đón những học sinh yếu thế trong lớp (bi các bạn xem thường,
kỳ thi, tẩy chay) khi các em đến lớp.
2.3.2. Sử dụng lời phê phù hợp
Học sinh lớp 10 có tổng số 7 bài viết hệ số 2, 7 bài viết hệ số 1. Như vậy
mỗi học sinh được nhận ít nhất 14 lời phê trong bài kiểm tra. Nếu tận dụng lời
phê để uốn nắn học sinh, giáo viên có cơ hội đến gần các em hơn. Bởi lời phê
cho học sinh trong bài như một kênh giao tiếp chỉ giáo viên và học sinh đó biết
nội dung. Lời phê cần: nhận xét về bài làm, những lỗi phải khắc phục; nhận biết
vấn đề của học sinh: về động cơ học tập, rắc rối riêng tư, khó khăn mà các em
đang phải đối diện. Lời phê tạo ra sự tin tưởng giáo viên là người quan sát, khích
lệ, dõi theo quá trình học tập và rèn luyện của học sinh. Tôi đã áp dụng cách này
nhiều năm và thực tế đã thay đổi thái độ của nhiều học sinh. Nhiều em viết bài
văn như một sự giãi bày về bế tắc của bản thân, xung đột của gia đình, ước mơ
không được cổ vũ, khích lệ…Khi đọc được những bài viết như vậy nhất đinh
giáo viên phải đóng vai là người lắng nghe, tin vào điều các em viết và gợi cho
các em suy nghĩ tích cực.
Học sinh A viết: Thuở bé em rất sợ hãi khi nghe thấy mẹ cha cãi vã, đánh nhau.
Em chỉ mong muốn có một cuộc sống bình thường như những bạn bè khác. Tôi
phê trong bài viết là: Em không thay đổi được quá khứ, thay đổi bố mẹ mình
nhưng tương lai vẫn là của em em nhé!
Học sinh B: Thất vọng về bản thân vì không đạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi
cấp tỉnh. Em có thể làm lại. Thầy cô đủ kiên nhẫn để chờ vì vậy em cũng phải đủ
quyết tâm và sự chăm chi
Học sinh C: Em mơ ước trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp. Nhưng em
thấy đau khổ vì gia đình và bạn bè không ai tin vào ước mơ ấy. Tôi đã phê: Yêu
thể thao là một cách để mạnh mẽ và biết sống tử tế, nhưng không nhất thiết phải
là cầu thủ chuyên nghiệp nhất là khi không đủ điều kiện. Em có thể làm nhiều
công việc khác để lan tỏa tình yêu bóng đá
Đã có học sinh nữ cá biệt đến lớp chỉ ngủ, gặp thầy cô không muốn chào
nhưng rất ăn diện, sành điệu. Tôi đã tâm sự với em và tìm lí do để khen ngợi em

trước lớp học. Em dần thiện chí hơn trong giờ học. Trong bài viết hệ số 2, em
viết về ước mơ của mình : em không mơ ước cao sang làm bác sĩ hay công an,
em chỉ thích thú với việc pha chế các loại đồ uống, trở thành một người pha chế
đồ uống chuyên nghiệp. Tôi phê rằng: lựa chọn này rất thực tế. Biết đâu em sẽ
làm việc ở khách sạn quốc tế. Hãy áp dụng lời khuyên: trở thành con người lớn
bằng cách làm việc nhỏ với tình yêu cực lớn. Đây là học sinh có nhiều thay đổi
nhất trong giờ ngữ văn tại lớp 10B.
6


2.3.3.Giao nhiệm vụ học tập cụ thể kết hợp kĩ năng đọc – nghe - xem
Nhận thức và trình độ học sinh trong lớp học không giống nhau, nhóm
học sinh ở trạng thái stress lại càng không như các bạn khác. Do đó, các em
thường không hoàn thành nhiệm vụ học tập chung. Muốn các em hợp tác, tham
gia vào quỹ đạo, giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ thể để học sinh phải hoàn
thành về nội dung và thời gian. Nhận thức và trình độ học sinh trong lớp học
không giống nhau, nhóm học sinh ở trạng thái stress lại càng không như các bạn
khác. Do đó, các em thường không hoàn thành nhiệm vụ học tập chung. Nhiều
em thản nhiên trả lời em không học bài, chưa học bài, không ghi bài, không làm
bài kiểm tra. Với những trường hợp như vậy, tôi có nguyên tắc không cho điểm
ngay lập tức, kiên nhẫn chờ đợi sự thay đổi.
Muốn các em hợp tác, tham gia vào quỹ đạo, giáo viên phải giao nhiệm
vụ cụ thể để học sinh phải hoàn thành về nội dung và thời gian. Khi giao nhiệm
vụ phải gắn với nội dung bài học và mức độ nhận thức.
+ Những học sinh không học bài cũ, hẹn ngày trả bài. Khi các em đã
thuộc lần 1, yêu cầu lên bảng lần 2 vì lúc này em đã tự tin hơn.
+ Những học sinh không viết bài đưa ra yêu cầu: bài này em chỉ cần viết
cho cô 10 dòng hoặc 20 dòng. Theo dõi em khi đã viết được số dòng đó khuyến
khích viết thêm 5 đến 10 dòng nữa.
Lưu ý: các nhiệm vụ phải từ dễ đến khó và liên tục. Khi giao nếu học

sinh vẫn không thể hoàn thành, giáo viên cho phép các em được lựa chọn.
Chẳng hạn: lựa chọn văn bản thơ học thuộc, nói hoặc viết về một chủ đề mà em
thích, một con người em thần tượng, nỗi buồn khó nói của em…
Một thực tế hiện nay là văn hóa nghe nhìn đang lấn át văn hóa đọc.
Những học sinh bi stress sẽ gặp nhiều khó khăn với văn bản văn học. Giáo viên
có thể giao nhiệm vụ để phát triển kĩ năng nghe và nhìn.
Chẳng hạn: Xem MV Bánh trôi nước của Hoàng Thùy Linh, đặt câu hỏi
về việc chuyển thể văn bản thơ Bánh trôi nước của nữ sĩ Hồ Xuân Hương thành
lời bài hát của tác giả; Xem MV Anh ơi ở lại của Chipu và nhận xét việc sử
dụng cốt truyện Tấm Cám; Xem những chương trình truyền hình giàu tính nhân
văn như: Như chưa hề có cuộc chia ly, Việc tử tế, Cặp lá yêu thương…Sau khi
xem học sinh nói, viết cảm nhận của cá nhân. Nếu học sinh chưa tự tin nói trước
lớp học, có thể trả lời riêng với giáo viên. Những yêu cầu này rèn luyện các kĩ
năng giao tiếp cơ bản, học sinh cũng không có cảm giác nhàm chán, gò bó khi
nghĩ đến môn học.
2.3.4. Khuyến khích năng lực riêng
Dù mỗi môn học có một nhiệm vụ riêng nhưng đều dựa trên mục tiêu
chung là phát triển con người toàn diện. Quan điểm dạy học của giáo viên cần
phải linh hoạt, tạo điều kiện để học sinh tự tin phát huy thế mạnh riêng của
7


mình. Những học sinh stress không hẳn các em yếu kém. Hơn thế các em có nhu
cầu giải tỏa bản thân rất lớn. Tôi thường tìm cách nhận ra thế mạnh của các em
và khuyến khích các em thể hiện. Giáo viên cần củng cố niềm tin ở học sinh về
giá tri mỗi con người và 8 dạng trí thông minh. Nhất đinh mỗi học sinh sẽ sở
hữu ít nhất một trong số đó. Tôi đã quan sát, theo dõi việc học tập và tham gia
các hoạt động của học sinh để nhận ra năng khiếu và sở thích của những em
thuộc nhóm stress.
TT

Họ tên
Năng khiếu
1 Lê Như Quỳnh
Hát
2 Trần Thi Hằng
Hát, nấu ăn
3 Nguyễn Thu Hoài
Pha chế đồ uống
4 Lê Thi Chúc
Múa
5 Mai Thanh Bách
Bóng chuyền
6 Trinh Mỹ Linh
Múa
7 Đỗ Thi Ngọc Ly
Vẽ
8 Nguyễn Thế Anh
Bóng chuyền
9 Nguyễn Tài Trường
Chạy bền
Những em có năng khiếu ca hát sẽ được mời hát, giao nhiệm vụ từ trước
tiết học để biêu diễn trong giờ học( hát tiếng Việt hoặc tiếng Anh). Lưu ý bài hát
cần phù hợp với chủ đề của bài học. Chẳng hạn học trích đoạn Trao duyên học
sinh Như Quỳnh hát bài mylove, a time for us…
Trong các giờ học tự chọn hoặc ôn tập cuối năm giáo viên giao nhiệm vụ
chuyển thể tác phẩm văn học thành tranh. Học sinh có thể tạo một bức tranh
hoàn chỉnh hoặc trình bày ý tưởng với những tác phẩm thơ như: Thơ Haiku của
basho; Cảnh ngày hè (Nguyễn Trãi)…với những em thật sự đam mê hội họa,
giáo viên đưa ra nhiệm vụ khó và dài hơi hơn như: chuyển một tác phẩm cổ tích
hoặc truyền thuyết thành truyện tranh (An Dương Vương và Mi Châu- Trọng

Thủy; Tấm Cám…)
Bên cạnh đó, tôi khuyến khích học sinh thể hiện con người thật của mình
bằng hoạt động thuyết trình. Đây là cách giúp học sinh rèn luyện kĩ năng nói
trước đám đông, một điểm yếu của học sinh miền núi. Học sinh có thể nói về
đam mê của bản thân, Giới thiệu về một cuốn sách mình đã đọc, một bộ phim
em say mê hoặc một bước ngoặt, dấu ấn trong cuộc đời mình….Mỗi một hoạt
động như vậy ít nhất có 3 học sinh tham gia để có sự nhận xét khách quan.
2.3.4. Phát huy tác dụng của việc đọc diễn cảm và sử dụng một số kỹ thuật
dạy học tích cực
Một lí do học sinh ngại giờ văn là do ghi chép nhiều. Với những học sinh
stress, lười học thì đây là cực hình. Đề hạn chế việc học máy móc, học vẹt người
dạy nên áp dụng các kỹ thuật dạy học tích cực đã nêu. Các kỹ thuật này được áp
dụng tùy thuộc vào nội dung và mục tiêu giờ học. Kỹ thuật hội chợ, kỹ thuật ổ bi
được áp dụng cho hình thức thảo luận nhóm. Kỹ thuât đọc nhanh, kỹ thuật trình
8


bày một áp dụng cho hoạt động cá nhân. Các kỹ thuật này giúp cải thiện kỹ năng
nói của học sinh nói chung và học sinh stress nói riêng, việc ghi chép vẫn duy trì
nhưng chỉ mang tính chắt lọc.
2.3.4.1. Đọc diễn cảm
Ở cấp THPT không còn phân môn đọc diễn cảm, nhưng đây là một hoạt
động không thể thiếu trước khi tìm hiểu các văn bản văn học. Những văn bản
văn học giàu tính thẩm mĩ, có trữ lượng xúc cảm lớn nhất đinh phải được đọc
trọn vẹn như: ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa, Trao duyên, Nỗi thương
mình…Tấm Cám, Truyện An Dương Vương và Mi Châu – Trọng Thủy. Với
những học sinh thuộc nhóm Stress, giáo viên đưa ra câu hỏi sẵn, yêu cầu tập
trung vào một phân đoạn và có phương án trả lời.
Trong giờ học tự chọn, giáo viên tìm những văn bản phù hợp với tâm lý
lứa tuổi, có tính giáo dục cao để các em đọc tham khảo. Giáo viên trực tiếp đọc

hoặc giao cho những bạn có giọng đọc tốt và khuyến khích nhóm bi stress đọc.
Chẳng hạn: Thư Mác gửi con gái, thư tổng thống Mỹ Lincon gửi thầy hiệu
trưởng của con trai mình, những câu chuyện về người đương thời , những nhân
vật truyền cảm hứng như: Huỳnh Tiểu Hương – bà chúa vỉa hè, Chuyện cha con
diễn viên Tuấn Anh…Đã có nhiều học sinh thực sự xúc động trước những văn
bản , những câu chuyện như vậy. Khi xúc động, nhận thức về vấn đề và môn học
ít nhiều thay đổi. Để khắc sâu hơn giáo viên có thể cho các em xem video sau
khi đọc.
2.3.4.2.Kỹ thuật hội chợ
Kỹ thuật hội chợ là một loại hoạt động nhóm, nhóm trình bày kết quả làm
việc vào một tờ giấy A. Nhóm cử một người thuyết trình về nội dung của nhóm,
đồng thời cử người đi nghe ở nhóm khác. Đại diện các nhóm chất vấn nguời
thuyết trình của nhóm mình đang nghe, quay về bổ sung thông tin cho nhóm.
Kỹ thuật hội chợ có thể giúp học sinh rèn luyện nhiều kỹ năng: nói trước
đám đông, phản biện, lọc và lựa chọn thông tin. Đối với những em bi stress giáo
viên giao nhiệm vụ di chuyển đến nhóm khác. Kỹ thuật này áp dụng cho nhiệm
vụ học tập ở mức độ thông hiểu và vận dụng. Chẳng hạn:
- Liệt kê các tình tiết quan trọng trong chuyện chữ phán sự đền Tản Viên, sự
kiện nào có ý nghĩa là nút thắt của câu chuyện?
- Quá trình đấu tranh đi tìm hạnh phúc của Tấm được chia làm mấy chặng? Chi
ra sự khác biệt ở các chặng đường ấy? Giải thích vì sao?
2.3.4.3.Kỹ thuật ổ bi
Kĩ thuật "Ổ bi" là một kỹ thuật dùng trong thảo luận nhóm, trong đó HS
chia thành hai nhóm ngồi theo hai vòng tròn đồng tâm như hai vòng của một ổ
bi và đối diện nhau để tạo điều kiện cho mỗi HS có thể nói chuyện với lần lượt
9


các HS ở nhóm khác. Khi thảo luận, mỗi HS ở vòng trong sẽ trao đổi với HS đối
diện ở vòng ngoài, đây là dạng đặc biệt của phương pháp luyện tập đối tác. Sau

một ít phút thì HS vòng ngoài ngồi yên, HS vòng trong chuyển chỗ theo chiều
kim đồng hồ, tương tự như vòng bi quay, để luôn hình thành các nhóm đối tác
mới. Với kỹ thuật ổ bi các thành viên bắt buộc phải chuyển động. Ban đầu học
sinh có thể sẽ cảm thấy gượng gạo. Khi cảm giác này qua đi, các em trong nhóm
stress đã trở nên chủ động hơn, mình là một phần của buổi học.
2.3.4.4.Kỹ thuật đọc nhanh
Kĩ thuật này nhằm giúp HS tăng cường khả năng tự học và giúp GV tiết
kiệm thời gian đối với những bài học/phần đọc có nhiều nội dung nhưng không
quá khó đối với HS, chẳng hạn bài: Khái quát lịch sử tiếng Việt; những yêu cầu
về sử dụng tiếng Việt, Tính chuẩn xác hấp dẫn của văn bản thuyết minh.
Cách tiến hành như sau:GV nêu câu hỏi/yêu cầu đinh hướng HS đọc
bài/phần đọc. HS làm việc cá nhân: Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, HS
cần đọc lướt qua bài đọc/phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề,
từ/cụm từ quan trọn vẹn. Đọc và đoán nội dung : HS đọc bài/phần đọc và biết
liên tưởng tới những gì mình đã biết và đoán nội dung khi đọc những từ hay
khái niệm mà các em phải tìm ra. Tìm ý chính: HS tìm ra ý chính của bài/phần
đọc qua việc tập trung vào các ý quan trọng theo cách hiểu của mình. Tóm tắt ý
chính: HS chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2, hoặc 4 và giải thích cho
nhau thắc mắc (nếu có), thống nhất với nhau ý chính của bài/phần đọc đọc.HS
nêu câu hỏi để GV giải đáp (nếu có). Lưu ý: Một số câu hỏi GV thường dùng để
giúp HS tóm tắt ý chính:Em có chú ý gì khi đọc ............ ? Em nghĩ gì
về ................... ? Em so sánh A và B như thế nào? A và B giống và khác nhau
như thế nào?
2.3.4.5.Kỹ thuật trình bày 1 phút.
Kỹ thuật trình bày 1 phút dùng để tổng kết bài, học sinh được trình bày
trong khoảng thời gian 1 phút về vấn đề mình còn thắc mắc. Ưu tiên cho nhóm
stress được trình bày trước.Đây là kĩ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại
kiến thức đã học và đặt những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc
bằng các bài trình bày ngắn gọn và cô đọng với các bạn cùng lớp. Các câu hỏi
cũng như các câu trả lời học sinh đưa ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của

các em và cho giáo viên thấy được các em đã hiểu vấn đề như thế nào.
Kĩ thuật này có thể tiến hành như sau: Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết
học), giáo viên yêu cầu học sinh suy nghĩ, trả lời các câu hỏi sau: Điều quan
trọng nhất các em học đuợc hôm nay là gì? Theo các em, vấn đề gì là quan trọng
nhất mà chưa được giải đáp?... Học sinh suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi
của học sinh có thể dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi học sinh trình bày
trước lớp trong thời gian 1 phút về những điều các em đã học được và những
câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em muốn được tiếp
tục tìm hiểu thêm.
10


2.3.4. 6. Kỹ thuật nhóm đôi
Ghép những học sinh bi stress với những học sinh khá giỏi trong lớp.
Giáo viên đặt câu hỏi, dành thời gian để học sinh suy nghĩ, Từng nhóm đôi có
câu trả lời, chia sẻ ý tưởng. Sau đó học sinh thành lập nhóm đôi và chia sẻ ý
tưởng, thảo luận, phân loại. Nhóm đôi này lại chia sẻ tiếp với nhóm đôi khác
hoặc với cả lớp.
Lưu ý: Điều quan trọng là người học chia sẻ được cả ý tưởng mà mình đã nhận
được, thay vì chỉ chia sẻ ý kiến cá nhân; Giáo viên cần làm mẫu hoặc giải thích
Kỹ thuật này có ưu điểm: Thời gian suy nghĩ cho phép học sinh phát triển câu
trả lời, có thời gian suy nghĩ tốt, học sinh sẽ phát triển được những câu trả lời
tốt, biết lắng nghe, tóm tắt ý của bạn cùng nhóm. Bên cạnh ưu điểm kỹ thuật
nhóm đôi cũng có nhược điểm: học sinh dễ dàng trao đổi những nội dung không
liên quan đến bài học do giáo viên không thể bao quát hết hoạt động của cả lớp.
Giáo viên cần có kỹ năng bao quát tốt, việc chia cặp cần có tính toán từ trước.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua quá trình thực nghiệm các giải pháp trên tôi nhận thấy nhóm học sinh
stress đã có những sự thay đổi nhất đinh. Rõ rệt nhất là nhóm học sinh bi stress

về cảm xúc. Các em đã tự tin hơn, trong giờ học gương mặt tươi tỉnh và có
những sáng tạo nhất đinh trong giờ học. Những hành vi nói tự do, nói xẵng với
giáo viên ở nhóm stress hành vi cũng không còn. Điểm tổng kết của học kỳ II so
với học kỳ I năm học 2018-2019 đã có sự chuyển biến. Cụ thể.

TT
1
2
3
4
5
6
7
8

Học sinh
Lê Như Quỳnh
Trần Thi Hằng
Nguyễn Thu Hoài
Lê Thi Chúc
Mai Thanh Bách
Trinh Mỹ Linh
Đỗ Thi Ngọc Ly
Nguyễn Tài Trường

Điểm kỳ I
60
60
58
62

40
52
69
59

Điểm kỳ II
63
63
62
70
40
62
72
61

3. Kết luận, kiến nghị
3.1.Kết luận

11


Khắc phục tình trạng căng thẳng trong học tập cần đến nghiệp vụ sư
phạm, hiểu biết về tâm lý lứa tuổi học sinh. Thầy cô giáo thật sự phải có tình
thương và trách nhiệm với học trò. Những phương pháp, phương tiện dạy học
chỉ phát huy tác dụng khi người dạy học tâm huyết với nghề với học trò, hiểu rõ
đối tượng giáo dục. Và hơn hết thầy cô phải sẵn sàng thay đổi.
Việc dạy học văn trong bối cảnh hiện nay còn rất nhiều vấn đề cần bàn bạc trao
đổi, cốt lõi giáo viên văn phải hiểu dạy văn là dạy cái gì, học sinh hiểu học văn
là học những gì? Đây là những trăn trở của cá nhân tôi và rất nhiều đồng nghiệp.
Hi vọng với chương trình giáo dục phổ thông mới, những băn khoăn trên sẽ

được giải tỏa. Tôi tin tưởng tuyệt đối vào sự cần thiết và vai trò của môn văn nói
riêng và văn học nói chung với sự phát triển con người toàn diện. Những năng
lực mà môn học hướng đến sẽ là hành trang cần thiết với cuộc đời học sinh.
3.2. Kiến nghị
Sở giáo dục cần có các đợt tập huấn về nghiệp vụ sư phạm, tâm lý lứa tuổi
học sinh THPT và đinh hướng cách xử lý những tình huống có vấn đề, cung cấp
tài liệu hướng dẫn. Trường học cần phải có chuyên gia tư vấn tâm lý. Giáo viên
bộ môn phải thực sự thấy được tầm quan trọng của việc hiểu học sinh trước khi
dạy (tìm hiểu môi trường giáo dục, đối tượng giáo dục). Nội dung học phải sát
thực tế, chương trình môn ngữ văn nên có thêm những tác phẩm mang hơi thở
của cuộc sống hôm nay để đến gần hơn với học sinh.
Trường học cần được bổ sung các thiết bi dạy học để giáo viên có thể dễ
dàng vận dụng các kỹ thuật dạy học tích cực.
Gia đình phải thật sự đồng hành với con cái trong quá trình phát triển
nhân cách, tâm hồn, thể chất và trí tuệ; hợp tác và tin tưởng thầy cô và nhà
trường để hoàn thành nhiệm vụ giáo dục.
Như Xuân, tháng 5/2019
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm
là kết quả làm việc, nghiên cứu của bản
thân, không sao chép.
Người viết sáng kiến kinh nghiệm

Võ Thị Thanh Xuân

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VI
12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên trung học về dạy học tích cực, Bộ giáo dục và

đào tạo, Dự án phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn II, Hà Nội 2018
2. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên trung học phổ thông về giáo dục ki luật tích cực,
Bộ giáo dục và đào tạo, Dự án phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn II, Hà
Nội,2018.
3. Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên THPT về đổi mới phương pháp
dạy học, kĩ thuật xây dựng ma trận đề và biên soạn câu hỏi kiểm tra đánh giá,
Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 2017.

13


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Võ Thi Thanh Xuân
Chức vụ và đơn vi công tác: Giáo viên ngữ văn, Bí thư ĐTN Như Xuân II

TT

1.

Tên đề tài SKKN

Ôn tập môn Ngữ Văn theo

Cấp đánh giá xếp
loại
(Ngành GD cấp

huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá xếp
loại

Cấp tỉnh

C

(A, B, hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

2011-2012

phương pháp bản đồ tư duy
14


2.

Kinh nghiệm kiểm tra miệng

Cấp tỉnh

C


2014-2015

môn ngữ văn tại lớp 11A4
trường Như Xuân II

----------------------------------------------------

15



×