Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thiết kế bài “vĩnh biệt cửu trùng đài” (trích kịch vũ như tô) của nguyễn huy tưởng theo hướng tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.21 KB, 15 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn học có vai trò quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy
của con người. Là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm
quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Mục
đích cuối cùng của việc dạy học Văn là đào tạo được những thế hệ học sinh không
chỉ thành thục về kĩ năng mà còn giàu có về cảm xúc, có tâm hồn trong sáng, nhân
ái, biết vươn tới Chân - Thiện – Mĩ.
Vì vậy, dạy học Văn không còn là công việc riêng của nhà giáo và nhà
trường mà là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Nó liên quan trực tiếp đến chiến
lược con người, đến sứ mệnh của chế độ và cả đời sống văn học của xã hội. Đây
không còn là chuyện văn chương đơn thuần mà là chuyện đời, càng không phải chỉ
là câu chuyện về những cậu học trò ngây thơ mà chuyện của những con người sắp
thay thế cha anh làm chủ thế kỉ XXI; đây cũng không phải là chuyện chữ nghĩa mà
là linh hồn của chiến lược con người. Do đó, cần phải có cái nhìn toàn diện về thực
trạng dạy học Văn trong nhà trường theo đòi hỏi gay gắt, cấp bách của bản thân đời
sống xã hội và đời sống sư phạm để tìm ra một hướng đi đúng đắn cho bài toán
phức tạp có nhiều nghịch lí, nhiều lời giải khác nhau nhưng vẫn chưa có một đáp số
tối ưu.
Trong những năm gần đây, với sự phát triển của khoa học và công nghệ cùng
với sự bùng nổ thông tin, lượng tri thức của nhân loại phát minh ngày càng nhiều,
kiến thức giữa các lĩnh vực có liên quan mật thiết với nhau. Đồng thời, do yêu cầu
của xã hội, do nhu cầu thực tế đang đòi hỏi con người phải giải quyết nhiều tình
huống trong cuộc sống. Khi giải quyết các vấn đề đó, kiến thức của một lĩnh vực
chuyên môn sẽ không thể thực hiện được mà phải vận dụng kiến thức liên môn một
cách sáng tạo. Từ thực tế đó đã đặt ra cho giáo dục và đào tạo một vấn đề là phải
thay đổi quan điểm về giáo dục mà dạy học tích hợp đang là một định hướng mang
tính đột phá để đổi mới căn bản và toàn diện về nội dung và phương pháp dạy học
nói chung và dạy học Văn nói riêng. Đây là một bước chuyển từ cách tiếp cận nội
dung giáo dục sang tiếp cận năng lực nhằm đào tạo con người có tri thức mới, năng
động, sáng tạo khi giải quyết các vấn đề trong thực tiễn đời sống.


Từ thực tế giảng dạy và nghiên cứu, tôi mạnh dạn đề xuất vấn đề về dạy học
Văn theo hướng tích hợp. Nhưng trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ dừng lại ở một
văn bản cụ thể với đề tài: Thiết kế bài “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (trích kịch
Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng theo hướng tích hợp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu, tìm hiểu các phương pháp và kĩ thuật dạy học, hướng tiếp cận bài
học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh.
- Đề xuất biện pháp, hướng tiếp cận bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy học,
phù hợp với định hướng đổi mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1


- Chương trình Ngữ văn THPT lớp 11, bài “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (trích Vũ
Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.
- Học sinh các lớp 11 tại Trường THPT Tĩnh Gia 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp xử lí thông tin
- Phương pháp đối chứng
- Phương pháp kiểm tra.

2


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm
Tích hợp (integration) có nghĩa là sự hợp nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp. Nội
hàm khoa học khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát là sự hợp nhất hay

là sự nhất thể hóa đưa tới một đối tượng mới như là một thể thống nhất trên những
nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng. Hiểu như vậy, tích hợp có hai tính
chất cơ bản là tính liên kết và tính toàn vẹn.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là sự kết hợp một cách hữu cơ, có
hệ thống, ở những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng ở các môn học khác
nhau hoặc hợp phần của một bộ môn thành một nội dung thống nhất, dựa trên cơ sở
các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập trong các môn học hoặc các hợp
phần của bộ môn đó.
Trong Chương trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 của Bộ GD&ĐT, khái
niệm tích hợp cũng được hiểu là “sự phối hợp các tri thức gần gũi, có quan hệ mật
thiết với nhau trong thực tiễn, để chúng hỗ trợ và tác động vào nhau, phối hợp với
nhau nhằm tạo nên kết quả tổng hợp nhanh nhất và vững chắc”.
2.1.2. Các hình thức tích hợp
a. Tích hợp ngang
Tích hợp ngang là kiểu tích hợp giữa ba phân môn Văn – Tiếng Việt – Tập
làm văn. Điều này thể hiện trong việc bố trí các bài học giữa ba phân môn một cách
đồng bộ và liên kết với nhau trên nhiều mặt để hỗ trợ nhau, bổ sung làm nổi bật cho
nhau. Phân môn này sẽ củng cố, hệ thống hóa lại kiến thức cho phân môn khác.
Trong một bài học Ngữ văn, để tích hợp ngang được tốt, giáo viên cần phải
nghiên cứu cấu trúc tích hợp của các phân môn trong một đơn vị bài học tuần, từ đó
xác định mục tiêu chung của bài học, mục tiêu riêng của từng phân môn trong bài
học đó.
b. Tích hợp dọc
Tích hợp dọc là cách vận dụng quan điểm tích hợp trong cùng một phân môn
với nhau, tức là giữa văn bản với văn bản, giữa tiếng Việt với tiếng Việt, giữa tập
làm văn với tập làm văn trong cùng một khối hay các khối theo chiều dọc từ trên
xuống.
Thực chất, tích hợp dọc là hệ thống hóa các kiến thức có liên quan với nhau
ở những thời điểm thích hợp đề học sinh có thể nắm bắt vấn đề một cách hệ thống.
Khi thực hiện tích hợp dọc, các kiến thức được nhắc lại, được liên hệ với nhau giúp

học sinh khắc sâu, nhớ lâu hơn nội dung bài học.
c. Tích hợp liên môn (tích hợp ngoài Văn)
Tích hợp liên môn là quan điểm tích hợp mở rộng kiến thức trong bài học
Ngữ văn với các kiến thức của các bộ môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, các
ngành khoa học, nghệ thuật khác, với kiến thức đời sống mà học sinh tích lũy được
từ đời sống cộng đồng, qua đó là giàu vốn hiểu biết và phát triển nhân cách cho học
sinh.
3


Thực tế cho thấy, áp dụng hình thức này, học sinh rất hào hứng với nội dung
bài học, vốn kiến thức tổng hợp cho học sinh được bổ sung nhẹ nhàng tự nhiên
nhưng hiệu quả. Mặt khác, các kiến thức liên môn thông qua hình thức tích hợp này
giúp học sinh có thêm căn cứ, cơ sở đề hiểu sâu hơn nội dung, ý nghĩa của văn bản.
2.1.3. Biện pháp khi tích hợp
Khi thực hiện phương pháp tích hợp, giáo viên cần có năng lực sư phạm,
kiến thức chuyên môn vững vàng, sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học thành thạo.
Ngoài ra, để giờ học đạt hiệu quả cao, giáo viên cần chú ý một số biện pháp sau:
- Dùng hệ thống câu hỏi nâng cao có tính chất tổng hợp nhằm:
Phát huy tính tích cực động não, suy nghĩ của học sinh
Phát huy trên nhóm học tập
- Dùng hệ thống bài tập nâng cao: Nên dùng bài tập trắc nghiệm tốt hơn bài
tập tự luận hoặc dùng trò chơi ô chữ.
- Dùng sơ đồ, biểu bảng: Biện pháp này thích hợp với kiểu tích hợp dọc
- Dùng tranh minh họa hoặc kênh hình.
2.1.4. Một số vấn đề cần chú ý khi sử dụng phương pháp tích hợp
Để thiết kế một giờ học theo quan điểm tích hợp, trước mỗi văn bản, tác
phẩm được dạy, giáo viên cần chú ý khai thác các vấn đề cơ bản sau:
- Những hiểu biết về tiếng Việt và ngôn ngữ học cần để phân tích, soi sáng,
làm nổi bật nội dung của văn bản, tác phẩm (ngữ âm, từ vựng, biện pháp tu từ…).

- Những hiểu biết về lí luận, lịch sử văn học và các yếu tố khác ngoài văn
bản góp phần hiểu đúng, hiểu sâu hơn về văn bản, tác phẩm văn học.
- Những vấn đề nào đặt ra trong tác phẩm dành cho sự cảm nhận riêng biệt
của mỗi học sinh.
- Cách tổ chức giờ học như thế nào để tích hợp được tất cả các tri thức và kĩ
năng đã nêu?
Tóm lại một giờ học Văn theo hướng tích hợp là một giờ học phải vận dụng
một cách tổng hợp, nhuần nhuyễn nhiều tri thức và kĩ năng nhằm làm sáng lên
những giá trị nội dung và nghệ thuật tiềm ẩn trong tác phẩm văn học.
2.2. Thực trạng của vấn đề
Dạy học Ngữ văn theo hướng tích hợp đang là một xu hướng tất yếu, là biện
pháp để tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh, rèn luyện thói quen tư duy,
nhận thức vấn đề một cách hệ thống và lôgic. Qua đó, học sinh thấy được mối quan
hệ biện chứng giữa các kiến thức trong chương trình, vận dụng kiến thức lí thuyết
và các kĩ năng thực hành, đưa được những kiến thức về Văn, tiếng Việt vào quá
trình tạo lập văn bản một cách hiệu quả.
Theo tinh thần đổi mới, SGK Ngữ văn gồm 3 phân môn: Văn bản, Tiếng
Việt, Tập làm văn. Nội dung kiến thức, kĩ năng và mục tiêu cần đạt ở ba phân môn
này có quan hệ mật thiết với nhau, đều hướng đến mục đích cuối cùng là nâng cao
trình độ sử dụng tiếng mẹ đẻ và năng lực cảm thụ văn học cho học sinh. GS.TS
Nguyễn Thanh Hùng viết: “Tích hợp là điểm nổi bật nhất của chương trình và sách
giáo khoa Ngữ văn mới đã chi phối cách xây dựng chương trình, chỉ đạo nội dung
4


và phương pháp dạy học Văn” (Tích hợp trong dạy học Ngữ văn – Tạp chí
KHGD)
Song, thực tiễn cho thấy từ thập niên 90 cho đến nay, việc dạy học Văn vẫn
mang tính “hàn lâm, lí thuyết”. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng việc truyền thụ hệ
thống tri thức khoa học đã được quy định trong chương trình nhưng chưa chú trọng

đến khả năng ứng dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn.
Những năm gần đây, phương pháp dạy học tích hợp đã được giáo viên tiếp
nhận nhưng ở mức độ thấp. Phương pháp dạy học hiện nay về cơ bản chưa có sự
liên kết chặt chẽ giữa các phân môn, từng phương diện kiến thức còn bị tách rời,
học sinh học tập chưa tích cực, hiệu quả giờ học chưa cao. Nhiều giờ dạy, giáo viên
chưa chú trọng phương pháp tích hợp làm cho việc khai thác văn bản thiếu tính hệ
thống, thiếu chiều sâu, chất lượng bài dạy chưa đạt hiệu quả cao. Một số giáo viên
tích hợp một cách gượng gạo, các đơn vị kiến thức được tích hợp không có mối
liên hệ gắn bó. Đôi khi, giáo viên lựa chọn kiến thức tích hợp chưa trọng tâm, vô
hình chung làm lệch nội dung trọng tâm, mục tiêu cần đạt của tiết dạy.
Tóm lại, quan điểm tích hợp cần được hiểu toàn diện và phải được quán triệt
trong toàn bộ môn học: từ Đọc văn, tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi
khâu của quá trình dạy học, tích hợp trong chương trình, tích hợp trong sách giáo
khoa, tích hợp trong phương pháp dạy học của giáo viên và tích hợp trong hoạt
động học tập của học sinh, tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo. Quan
điểm “lấy học sinh làm trung tâm” đòi hỏi việc tích cực hóa hoạt động học tập của
học sinh trong mọi mặt, trên lớp và ngoài giờ, tìm mọi cách phát huy năng lực tự
học của học sinh, phát huy tinh thần dân chủ, bồi dưỡng lòng tin cho học sinh thì
các em mới tự tin và tự học, mới xem tự học là có ý nghĩa và như vật đào tạo mới
có kết quả.
2.3. Một số biện pháp trong thiết kế bài “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” (Trích
kịch Vũ Như Tô) của Nguyễn Huy Tưởng.
2.3.1. Lựa chọn những nội dung của bài học có thể tích hợp
Qua nghiên cứu nội dung sách giáo khoa, nội dung bài học và những kiến
thức liên quan, tôi xin lựa chọn những nội dung tích hợp sau
a. Phần tiểu dẫn
* Tác giả: Giáo viên có thể lựa chọn cách tích hợp dọc trong một phân môn
khác khối để tìm hiểu về tác giả Nguyễn Huy Tưởng
Giáo viên đặt câu hỏi: Em hãy kể tên một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn
Huy Tưởng đã học trong chương trình?

Học sinh trả lời: Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng” với hình ảnh Trần
Quốc Toản dù nhỏ tuổi nhưng có lòng yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm lớn
lao với đất nước.
Giáo viên đặt câu hỏi: Từ tác phẩm đó, em hãy lí giải yếu tố quen và lạ khi
đến với tác phẩm Vũ Như Tô?

5


Học sinh trả lời: Quen: Nguyễn Huy Tưởng có thiên hướng khai thác các đề
tài lich sử để dựng nên những bức tranh, những hình tượng hoành tráng về lịch sử
bi hùng của dân tộc.
Lạ: Ông không những là nhà viết tiểu thuyết có nhiều đóng
góp mà còn là nhà viết kịch tài ba; văn phong khi giản dị, trong sáng, khi thâm trầm
sâu sắc.
* Tác phẩm
Phần hoàn cảnh ra đời, giáo viên có thể tích hợp với kiến thức lịch sử dưới
triều Lê Tương Dực.
Giáo viên hỏi: Vở kịch Vũ Như Tô được viết dựa trên sự kiện lịch sử nào?
Học sinh trả lời: Tác phẩm được viết dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở
kinh thành Thăng Long dưới thời Lê Tương Dực.
Giáo viên hỏi: Em biết gì về sự kiện này và Lê Tương Dực?
Học sinh trả lời: Lê Tương Dực là ông vua xa sỉ, hoang dâm vô độ. Để thõa
mãn thú ăn chơi, ông đã bắt xây dựng cung điện trăm nóc lấy tên là Cửu Trùng Đài.
Vì vậy, Tương Dực phải cần đến một người thợ tài ba bậc nhất là Vũ Như Tô và
hàng vạn nhân lực gồm cả cống phẩm từ các nước Lào, Chiêm thành – Chăm pa.
Vì hoang dâm như thế, cho nên sứ nhà Minh sang trông thấy vua, bảo rằng Tương
Dực có tướng lợn nên mọi người ngoài và dân chúng gọi ông là Vua Lợn. Do mải
mê ăn chơi, thác loạn, xa hoa nên Tương Dực ngày càng bỏ bê chính sự, từ chối
quân vương, ra sức huy động bắt bớ dân đen, hành hạ, thúc dục xây dựng đài điện,

tẩm cung. Đó là nguyên nhân khiến dân oán thán, nạn trộm cắp, chết đói, bạo loạn
nổi lên nhanh chóng. Ngày 7 tháng 4 âm lịch năm 1516 vua Tương Dực bị Trịnh
Duy Sản giết.
Phần tóm tắt, giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt theo sơ đồ:
Lê Tương
Dực

Đan Thiềm

Trịnh Duy
Sản

CỬU
TRÙNG
ĐÀI

CTĐ là
nơi ăn
chơi

Vũ Như
Tô từ
chối

CTĐ
tranh
tinh xảo
với hóa
công


Vũ Như

nhận
lời

CTĐ bị
tiêu hủy

Vũ Như
Tô bị
giết
6


Hình 1. Sơ đồ tóm tắt tác phẩm
b. Phần đọc hiểu văn bản
- Giáo viên giới thiệu trích đoạn kịch Vũ Như Tô được chiếu trên VTV1 (Đoạn liên
quan đến nội dung văn bản)
- Nhân Vật Đan Thiềm: Giáo viên có thể tích hợp dọc
Giáo viên hỏi: từ nhân vật Đan Thiềm, em liên hệ đến nhân vật văn học nào?
Học sinh trả lời: Từ nhân vật Đan Thiềm có thể liên hệ đến nhân vật viên
quản ngục trong tác phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân. Đây cũng là người
yêu và say mê cái đẹp, luôn “biệt nhỡn liên tài”.
c. Phần tổng kết: Giáo viên có thể tích hợp dọc
Giáo viên hỏi: So sánh điểm giống và khác nhau giữa nhân vật Vũ Như Tô
và Đan Thiềm?
Học sinh trả lời:
Giống nhau: - Đều say mê, trân trọng cái Đẹp
- Có bản lĩnh, có nhân cách cao đẹp
 Phải chịu kết cục bi thảm

Khác nhau: - Vũ Như Tô Là nghệ sĩ say mê sáng tạo cái Đẹp nhưng không thực
hiện được giấc mộng lớn của mình. Đan Thiềm là người trân trọng cái tài, cái đẹp
nhưng phải lâm vào oan ức đau thương.
- Vũ Như Tô bướng bỉnh, cực đoan, ảo tưởng, khó thích ứng với những
diễn biến phức tạp của cuộc đời. Đan Thiềm tỉnh táo sáng suốt, dễ thích ứng với
hoàn cảnh.
Giáo viên hỏi: Nhận xét quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng có gì
Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù?
Học sinh trả lời: Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Tuân đều quan niệm nghệ
thuật phải gắn liền với cuộc sống. Cái đẹp phải được xây dựng trên cơ sở cái thiện.
Nếu đi ngược với quy luật trên, cái đẹp tất yếu sẽ diệt vong.
Giáo viên hỏi: Từ nội dung bài học, em rút ra bài học gì về nhận thức và
cách ứng xử với cái đẹp trong cuộc sống hiện nay.
Học sinh trả lời: Trân trọng tài năng, nâng niu những giá trị nghệ thuật chân
chính.
Không vì đề cao cái đẹp mà chà đạp lên những giá trị khác của cuộc sống, xử
lí đúng đắn mối quan hệ giữa nghệ thuật với thực tế đời sống.
2.3.2. Giáo án thể nghiệm
Tiết PPCT: 61,62,63
Đọc văn:
VĨNH BIỆT CỬU TRÙNG ĐÀI.
(Trích kịch: Vũ Như Tô)
Nguyễn Huy Tưởng.
I. Mục tiêu bài học
1. Về kiến thức
- Xung đột kịch, diễn biến tâm trạng, tính cách, bi kịch của Vũ Như Tô và Đan
Thiềm trong hồi V.
7



- Thái độ ngưỡng mộ, trân trọng của tác giả đối với những nghệ sĩ có tâm huyết
và tài năng nhưng phải chịu số phận bi thảm.
2. Về kĩ năng: Đọc –hiểu kịch bản văn học theo đặc trưng thể loại
3.Về thái độ : cảm thông, trân trọng đối với người nghệ sĩ tài năng nhưng
phải chịu số phận đau thương
Giáo dục kĩ năng sống: nhận thức giá trị, có quan điểm và cách ứng xử
đúng đắn với cái đẹp.
II. Chuẩn bị bài học
1. Giáo viên
1.1 Dự kiến phương pháp tổ chức học sinh hoạt động cảm thụ tác phẩm:
- Phương pháp đọc hiểu, đọc diễn cảm, kết hợp phân tích, giảng bình, so sánh,
nêu vấn đề bằng hệ thống câu hỏi gợi mở.
- Trao đổi thảo luận, kích thích sự sáng tạo của học sinh.
- Tích hợp phân môn Làm văn, Tiếng Việt, Đọc văn và các môn khác có liên
quan.
1.2. Phương tiện:
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo.
- Thiết kế bài học
- Máy chiếu
- Tranh ảnh, sơ đồ, trích đoạn kịch Vũ Như Tô
2. Học sinh
- Đọc văn bản
- Học sinh chủ động tìm hiểu bài qua hệ thống câu hỏi sgk.
III. Tiến trình bài học
1. Ổn định tổ chức.
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Bài mới:
Hoạt động của GV và HS.
Yêu cầu cần đạt
Tiết 1

Hoạt động 1. Khởi động
GV chia lớp học thành 4 nhóm tham gia
trò chơi: Tìm hiểu về các tác phẩm kịch
trong chương trình THCS và THPT mà
em biết
Nội dung: Kể tên các tác phẩm kịch đã
được đọc trong chương trình Ngữ văn
THCS và THPT
Cách chơi: Trong vòng 5 phút, mỗi nhóm
kể tên các tác phẩm kịch đã học trong
chương trình THCS và THPT?
Hoạt động 2 – Hình thành kiến thức I. Tìm hiểu chung
8


mới
HS đọc tiểu dẫn và trả lời câu hỏi.
- Phần tiểu dẫn trình bày những nội dung
chính nào ?
(GV sử dụng máy chiếu hình ảnh tác giả,
tác phẩm)
Tích hợp: Em hãy kể tên một số tác
phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã học
học trong chương trình?
- Từ những tác phẩm đó, em hãy lí giải
yếu tố quen và lạ khi đến với tác phẩm
Vũ Như Tô?
Định hướng trả lời:
- Tác phẩm “Lá cờ thêu sáu chữ vàng”
với hình ảnh Trần Quốc Toản dù nhỏ tuổi

nhưng có lòng yêu nước sâu sắc và ý
thức trách nhiệm lớn lao với đất nước.
- Quen: Nguyễn Huy Tưởng có thiên
hướng khai thác các đề tài lich sử để
dựng nên những bức tranh, những hình
tượng hoành tráng về lịch sử bi hùng của
dân tộc.
Lạ: Ông không những là nhà viết tiểu
thuyết có nhiều đóng góp mà còn là nhà
viết kịch tài ba; văn phong khi giản dị,
trong sáng, khi thâm trầm sâu sắc.
- Vở kịch được viết dựa trên sự kiện lịch
sử gì?
Tích hợp: Em biết gì về sự kiện này?
Định hướng trả lời: Lê Tương Dực là
ông vua xa sỉ, hoang dâm vô độ. Để thõa
mãn thú ăn chơi, ông đã bắt xây dựng
cung điện trăm nóc lấy tên là Cửu Trùng
Đài. Vì vậy, Tương Dực phải cần đến
một người thợ tài ba bậc nhất là Vũ Như
Tô và hàng vạn nhân lực gồm cả cống
phẩm từ các nước Lào, Chiêm thành –
Chăm pa. Vì hoang dâm như thế, cho
nên sứ nhà Minh sang trông thấy vua,
bảo rằng Tương Dực có tướng lợn nên
mọi người ngoài và dân chúng gọi ông là
Vua Lợn. Do mải mê ăn chơi, thác loạn,

1. Tác giả.
- Nguyễn Huy Tưởng (1912 - 1960)

xuất thân trong gia đình nhà nho của
đất Bắc Ninh xưa, nay thuộc Đông
Anh, Hà Nội.
- Ông là nhà văn có thiên hướng khai
thác về đề tài lịch sử và có nhiều
đóng góp về thể loại tiểu thuyết và
kịch.
- Văn phong Nguyễn Huy Tưởng giản
dị, đôn hậu mà thâm trầm sâu sắc.

2. Tác phẩm kịch: Vũ Như Tô
a. Hoàn cảnh ra đời
- Vở kịch đầu tay - bi kịch lịch sử 5
hồi, viết về sự kiện xảy ra ở Thăng
Long khoảng năm 1516-1517 dưới
triều Lê Tương Dực.
- Tác phẩm được viết xong năm 1941,
ghi lời tựa tháng 6 năm 1942.

9


xa hoa nên Tương Dực ngày càng bỏ bê
chính sự, từ chối quân vương, ra sức huy
động bắt bớ dân đen, hành hạ, thúc dục
xây dựng đài điện, tẩm cung. Đó là
nguyên nhân khiến dân oán thán, nạn
trộm cắp, chết đói, bạo loạn nổi lên
nhanh chóng. Ngày 7 tháng 4 âm lịch
năm 1516 vua Tương Dực bị Trịnh Duy

Sản giết.
- Tóm tắt nội dung tác phẩm ?
b. Tóm tắt nội dung tác phẩm: SGK.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt (GV dùng máy chiếu trình chiếu sơ
bằng sơ đồ.
đò tòm tắt vở kịch – Hình 1)
3. Đoạn trích: "Vĩnh biệt Cửu
- Nêu vị trí đoạn trích ?
Trùng Đài".
- Đoạn trích thuộc hồi V, hồi cuối
cùng của vở kịch.
Đọc hiểu chi tiết
II. Đọc hiểu văn bản.
GV hướng dẫn và phân vai cho HS đọc
1. Những mâu thuẫn, xung đột cơ
đoạn trích.
bản của vở kịch
Tiết 2
Vở kịch có hai mâu thuẫn chính:
- Vở kịch có những mâu thuẫn cơ bản a. Mâu thuẫn thứ nhất: Giữa bọn
nào?
tham quan, bạo chúa với người dân
- Phân tích nguyên nhân và cách giải lao động.
quyết mâu thuẫn?
- Nguyên nhân: Bọn tham quan, bạo
chúa sống xa hoa, không chăm lo đến
quyền lợi chính đáng của nhân dân để
nhân dân phải sống cuộc sống cơ cực,
lầm than (mâu thuẫn càng trở nên
căng thẳng khi Lê Tương Dực cho

xây Cửu Trùng Đài)
- Giải quyết mâu thuẫn: Quân phiến
loạn do Trịnh Duy Sản cầm đau đã
nổi dậy giết chết bạo chúa Lê Tương
Dực và đốt Cửu Trùng Đài.
b. Mâu thuẫn thứ hai: Nghệ thuật và
thực tế cuộc sống.
- Nguyên nhân: Để thực hiện lí tưởng
của mình Vũ Như Tô đã rơi vào tình
trạng đi ngược lại với quyền lợi trực
tiếp của nhân dân.
- Giải quyết mâu thuẫn: Mâu thuẫn
này dẫn tới bi kịch của Vũ Như Tô
10


- Em có nhận xét gì về cách giải quyết
hai mâu thuẫn này?
Tích hợp: GV sử dụng máy chiếu giới
thiệu trích đoạn kịch
- Vũ Như Tô là con người có tính cách
như thế nào?

- Em có nhận xét gì về khát vọng, hoài
bão của Vũ Như Tô?

(Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài bị
đốt).
- Nhận xét: mâu thuẫn này không
được giải quyết một cách dứt khoát.

2. Nhân vật Vũ Như Tô.
- Là một kiến trúc sư tài ba “nghìn
năm có một”, là hiện thân cho niềm
khao khát, say mê sáng tạo cái đẹp.
- Là một nghệ sĩ chân chính, có nhân
cách cao đẹp, hoài bão lớn lao và lí
tưởng nghệ thuật cao cả.
- Là một nhân vật bi kịch
Xây Cửu Trùng
Thực tế
Đài
- Tô điểm đất - Hao hụt ngân
nước
khố
- Một tòa đài - Hao tốn nhân tài,
hoa lệ, kì công vật lực, nhiều mất
muôn thuở
mất, hi sinh
- Thách những - Nhân dân lầm
công trình trước than, oán hận
sau, tranh tinh - Cuộc sống li
xảo với hóa hương
công.
 Cái đẹp xa hoa,
 Cái đẹp siêu cái giá phải trả
đẳng, cao cả.
Như vậy, sai lầm của Vũ Như Tô là
lợi dụng quyền lực của bạo chúa để
thực hiện khát vọng nghệ thuật của
mình.

* Tâm trạng của Vũ Như Tô khi có
phiến loạn
- Khi nghe Đan Thiềm báo tin: Không
bỏ trốn, tin vào việc làm quang minh
chính đại của mình. Kiên quyết sống,
chết với Cửu Trùng Đài.

Thảo luận nhóm
- Nhóm 1: Khi cuộc nổi loạn nổ ra, Đan
Thiềm hoảng hốt báo tin cho Vũ Như Tô,
ông đã có suy nghĩ, lời nói, hành động
như thế nào?
- Nhóm 2: Đến khi bị bắt, thái độ của Vũ
Như Tô như thế nào?
- Nhóm 3: Khi Cửu Trùng Đài bị cháy, - Khi bị bắt: tin tưởng và hi vọng sẽ
tâm trạng của Vũ Như Tô như thế nào?
thuyết phục được An Hòa Hầu tiếp
tục xây Cửu Trùng Đài.
- Khi Cửu Trùng Đài bị đốt: vỡ mộng,

11


- Nhóm 4: Qua bi kịch của Vũ Như Tô,
tác giả đã đặt ra vấn đề gì về người nghệ
sĩ, nghệ thuật và xã hội?

Tiết 3
- Trong lời tựa, Nguyễn Huy Tưởng viết:
“Cầm bút chẳng qua là cùng một bệnh

với Đan Thiềm”. Dựa vào đoạn trích lí
giải “bệnh Đan Thiềm” là gì?
- Tích hợp: Từ nhân vật Đan Thiềm gợi
em liên tưởng đến một nhân vật văn học
nào đã học? (HS: nhân vật viên quản
ngục (biệt nhỡn liên tài) trong tác phẩm
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân)
- Nêu những đặc sắc về nghệ thuật của
vở kịch?

đau khổ, tuyệt vọng
=> Vũ Như Tô là nghệ sĩ có tài, có
tâm, có đam mê và khát khao sáng tạo
nhưng xa rời thực tế nên phải trả giá
đắt bằng cả sinh mệnh và công trình
nghệ thuật đầy tâm huyết sáng tạo của
mình.
Qua Vũ Như Tô, Nguyễn Huy
Tưởng đặt ra vấn đề về mối quan hệ
giữa người nghệ sĩ với hoạt động
sáng tạo nghệ thuật và thực tế đời
sống của nhân dân.
3. Nhân vật Đan Thiểm
- Là người đam mê cái tài, nhưng
không phải cái tài nói chung mà là cái
tài siêu việt, siêu đẳng. Vì đam mê cái
tài nên bà không quản ngại thi phi,
sẵn sàng đánh đổi cả tính mạng để
bảo vệ cái tài.
- Không mơ mộng mà tỉnh táo, thức

thời, hiểu đời, hiểu người.
- Vỡ mộng, vĩnh biệt Vũ Như Tô,
vĩnh biệt giấc mộng lớn trong máu và
nước mắt
4. Nghệ thuật
- Ngôn ngữ tập trung phát triển cao,
hành động dồn dập đầy kịch tính.
- Tính cách, tâm trạng nhân vật bộc lộ
rõ nét qua ngôn ngữ, hành động.
- Các lớp kịch được chuyển tự nhiên,
linh hoạt liền mạch.
III. Tổng kết
HS hoàn thiện phiếu học tập

Hoạt động 3: Luyện tập
GV phát phiếu học tập
Vẽ sơ đồ tư duy tái hiện hệ thống nhân
vật và mối quan hệ giữa các nhân vật
trong văn bản
Hoạt động 4- Vận dụng
– Vở kịch kết thúc như thế nào?
Các nhóm chuẩn bị bài tập và bốc
– Thông điệp của văn bản là gì?
thăm trả lời
– Suy nghĩ của em về lời đề từ của tác
phẩm?
– Thông điệp được gửi gắm trong văn

12



bản còn phù hợp với
Hoạt động 5- Mở rộng và bổ sung
HS viết bài thu hoạch ngắn khoảng 400
dến 600 bàn về một trong các vấn đề sau:
Sự gặp gỡ và những khám phá riêng về
hình tượng người nghệ sĩ của Nam Cao
và Nguyễn Huy Tưởng qua nhân vật Hộ
trong Đời thừa và nhân vật Vũ Như Tô
trong Vĩnh biệt cửu trùng đài – trích Vũ
Như Tô.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Tôi ứng dụng dạy thực nghiệm đề tài nghiên cứu khoa học tại trường THPT
Tĩnh Gia 1 tại 2 lớp là 11A8 và 11A9 . Ở lớp 11A8, tôi sử dụng phương pháp dạy
học bình thường, không vận dụng phương pháp tích hợp; lớp 11A9, tôi vận dụng
phương pháp tích hợp trong dạy bài “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài” của Nguyễn Huy
Tưởng.
Kết quả: Hơn 90% học sinh lớp 11A9 hứng thú, tích cực và bước đầu chủ
động trong việc tái hiện, đối chiếu các đơn vị kiến thức, liên hệ, mở rộng vấn đề,
gắn liền với thực tiễn đời sống. Giờ học sôi nổi. Giáo viên thực sự ở vị trí người
định hướng, học sinh ở vị trí chủ động lĩnh hội kiến thức, khắc phục tình trạng đọcchép, ghi nhớ kiến thức một cách thụ động của học sinh.
Kết quả kiểm tra cuối giờ học đạt hơn 80% điểm từ trung
bình trở lên.
TT
LỚP THỰC
ĐIỂM SỐ
NGHIỆM

Lớp


Số HS

9-10
SL %
0
0
1
0,2

7-8
5-6
<5
SL %
SL %
SL %
1
11A8
45
10 22,2 22 48,9 13 28,9
2
11A9
43
14 34,7 20 46, 8
18,6
5
Kết quả thực nghiệm cho thấy bước đầu việc vận dụng phương pháp tích hợp
đã mang lại hứng thú học tập cho học sinh, kích thích năng lực tự học, sáng tạo và
phần nào đã mang lại những kết quả nhất định. Điều này cho thấy tính khả thi của
đề tài, phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp giảng dạy, nhất là đối với bộ môn
Ngữ văn hiện nay.


13


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Cách đây trên 30 năm , Phạm Văn Đồng đã viết: “Ngày nay, sự hiểu biết của
con người luôn luôn đổi mới. Cho nên dù học trong nhà trường bao nhiêu chăng
nữa cũng chỉ là hạn chế. Thế thì cái gì là quan trọng? Cái quan trọng là rèn luyện
bộ óc, rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp học tập, phải tìm tòi phương
pháp vận dụng kiến thức, phải vận dụng tốt nhất bộ óc của minh…”. Những lời
phát biểu trên đặt ra nhiều suy nghĩ cho mỗi thầy cô giáo đang đứng trên bục giảng
về việc đổi mới cách dạy, cách học trong nhà trường hiện nay.
Vận dụng phương pháp dạy học tích hợp giúp học sinh học tập một cách
chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh tham gia xây dựng bài
một cách hào hứng. Phương pháp dạy học này còn phát triển được năng lực riêng
của từng học sinh không chỉ về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức mà còn giúp học sinh
chủ động tìm tòi, nghiên cứu nội dung và rèn luyện kĩ năng, vận dụng kiến thức
được học qua sách vở vào cuộc sống.
Đặc biệt, phương pháp tích hợp là một trong những phương pháp đáp ứng
được những đổi mới trong giáo dục nói chung và môn Văn nói riêng từ nội dung
đến những thay đổi trong kiểm tra đánh giá hiện nay.
Bước đầu cho phép kết luận: Đề tài có tính khả thi cao góp phần đổi mới
phương pháp dạy học Văn, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THPT.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan toàn bộ nội dung đề tài
trên là do bản thân tôi nghiên cứu và thực
hiện, không sao chép nội dung của bất kì ai

NGƯỜI VIẾT SKKN
Mai Thị Nga.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo, Chương trình Ngữ văn THPT, năm 2002
2. Nguyễn Viết Chữ, Phương pháp dạy học văn chương theo loại thể, NXB
Đại học Sư phạm Hà Nôi, 2006
3. Nguyễn Huy Thắng – Nguyễn Thị Hạnh, Nguyễn Huy Tưởng toàn tập,
NXB văn học Hà Nội, 1996
4. Nguyễn Thanh Hùng, Tích hợp trong dạy học Ngữ văn, Tạp chí Khoa học
giáo dục, số 6 – tháng 3 – năm 2006
5. Phan Trọng Luận, Phương pháp dạy học Văn, NXB Giáo dục, 2001
6. Phan Trọng Luận, Văn chương, bạn đọc sáng tạo, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2003

15



×