SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SÁNG TẠO
CHO HỌC SINH LỚP 11 TRONG DẠY HỌC LÀM VĂN NGHỊ
LUẬN VỀ THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM 1930 - 1945
Người thực hiện: Trịnh Thị Thanh Hải
Chức vụ: TTCM
SKKN thuộc lĩnh vực (môn) : Ngữ Văn
THANH HÓA NĂM 2019
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG SKKN
STT
Viết tắt
Viết đầy đủ
1.
THPT
Trung học phổ thông
2.
NLST
Năng lực sáng tạo
3.
THCS
Trung học cơ sở
4.
SGK
Sách giáo khoa
5.
GV
Giáo viên
6.
NXB
Nhà xuất bản
7.
HS
Học sinh
8.
PPDH
Phương pháp dạy học
9.
KNS
Kĩ năng sống
10.
NLVH
Nghị luận văn học
11.
PTNLST
Phát triển năng lực sáng tạo
12.
ĐC
Đối chứng
13.
TN
Thực nghiệm
14.
PTNL
Phát triển năng lực
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài:
1.1. Luật Giáo dục (điều 28) yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của HS; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm
vui, hứng thú học tập cho HS” [4, tr.13]. Như vậy đổi mới PPDH là trọng tâm
của đổi mới giáo dục và PTNL người học là một phương diện quan trọng của
đổi mới PPDH. Nó phải được diễn ra một cách đồng bộ, trên tất cả các lĩnh vực,
các môn học.
1.2. Trong chương trình giáo dục, môn Ngữ văn giữ vị trí, vai trò vô cùng
quan trọng. Đó là môn học bắt buộc đối với HS từ Tiểu học với tên gọi Tiếng
2
Việt, đến hết bậc THPT. Mục đích môn học là cung cấp cho HS những kiến thức
cơ bản về ngôn ngữ tiếng Việt và văn học Việt Nam cũng như các giá trị văn học
nổi tiếng trên thế giới, góp phần hình thành những phẩm chất, năng lực cần thiết
cho con người. Tuy vậy, trong quá trình triển khai thực tế, việc dạy và học Ngữ
văn vẫn có những bất cập khiến nhiều HS không hứng thú với môn học. Môn
Ngữ văn cần phải đáp ứng yêu cầu đổi mới chung “dạy học phải phát huy được
tính tích cực chủ động sáng tạo của HS”. Vì vậy, nếu các giờ đọc - hiểu có tầm
quan trọng đặc biệt đối với việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm và năng lực thẩm
mĩ cho HS, khơi gợi được nhiều hứng thú của GV và HS trong hoạt động dạy
cũng như hoạt động học, thì các giờ làm văn không những đánh giá cao vai trò
chủ thể tạo lập văn bản của người học, mà còn giúp người học biết vận dụng
sáng tạo những kiến thức đã học được vào GQVĐ trong thực tiễn cuộc sống, từ
đó tạo nên tâm lí chủ động, sáng tạo và thích ứng với sự thay đổi của hoàn cảnh
sống, giúp con người sống tốt hơn, tích cực hơn.
Trên thực tế, kết quả dạy học Làm văn vẫn chưa đáp ứng được sự mong
đợi, trong đó dễ thấy nhất là sự hạn chế về năng lực cảm thụ, sự yếu kém về kĩ
năng thực hành tạo lập văn bản NLVH ở HS. Những năm gần đây, các đề thi
được xây dựng đổi mới theo kiểu cấu trúc đề bao gồm kiến thức đọc - hiểu, đòi
hỏi HS khả năng nắm bắt tổng thể từ đơn vị kiến thức nhỏ nhất trong văn bản;
câu hỏi NLVH được ra theo hướng mở - chỉ nêu đề tài hoặc vấn đề cần bàn luận
trong bài làm văn, không giới hạn việc vận dụng các phương thức biểu đạt hoặc
các thao tác tư duy lập luận để viết bài, khuyến khích HS PTNLST, suy nghĩ
nhiều chiều trước một vấn đề. Thực trạng HS học tập một cách thụ động, rập
khuôn theo những điều GVgiảng dạy và cung cấp kiến thức vẫn còn rất phổ
biến.
1.3. Thơ hiện đại Việt Nam (1930 - 1945) đạt nhiều thành tựu nổi bật không
chỉ về mặt nội dung mà còn cả về thi pháp nghệ thuật, là dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự chuyển mình của văn học dân tộc mang tính chất hiện đại. Dạy học
làm văn và PTNLST của HS trong nghị luận về một tác phẩm thơ hiện đại là một
nội dung quan trọng trong dạy học Ngữ văn THPT, nhất là với HS lớp 11. Vì thế
chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp phát triển năng lực sáng tạo cho
học sinh lớp 11 trong dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam
1930 - 1945” nhằm đóng góp vào việc đổi mới phân môn Làm văn, góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả quá trình dạy học Ngữ văn ở trường THPT.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
- Làm sáng rõ khả năng phát triển NLSTcho HS lớp 11 trong dạy học làm
văn nghị luận về thơ hiện đại 1930 - 1945.
- Đóng góp vào việc nâng cao chất lượng dạy học làm văn NLVH về thơ
hiện đại 1930 - 1945 trong chương trình Ngữ văn 11,PTNLST cho HS trong tạo
lập văn bản NLVH về thơ hiện đại1930 -1945 ở trường THPT.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
3
- Tổng hợp các tiền đề lí luận về đổi mới PPDH phân môn Làm văn, về khái
niệm, đặc điểm, những biểu hiện của NLSTvà PTNLST trong làm văn NLVH về
thơ hiện đại 1930 - 1945 cho HS THPT.
- Khảo sát và đánh giá thực tiễn dạy học làm văn NLVH trong việc PTNLST
cho HS ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp dạy học NLVH về thơ hiện đại 1930 - 1945
nhằm PTNLST cho HS.
- TN sư phạm để đánh giá tính khả thi của những đề xuất khoa học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu
Cách thức tổ chức dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945 nhằm PTNLST cho HS.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong chương trình SGK hiện hành, các bài học về thơ hiện đại 1930 - 1945
chỉ tập trung ở lớp 11, nên trong khả năng và điều kiện cho phép, ở SKKN này,
chúng tôi chỉ giới hạn trong việc làm sáng tỏ vai trò quan trọng của NLST và đưa
ra một số biện pháp PTNLST cho HS trong quá trình làm văn NLVH về thơ hiện
đại 1930 - 1945 ở SGK Ngữ văn lớp 11, Chương trình chuẩn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và thực hiện được những nhiệm vụ mà luận văn đặt
ra, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: chúng tôi tiến hành tập hợp, phân tích,
tổng hợp tư liệu về vấn đề NLST, việc PTNLST cho HS, các vấn đề về PPDH
làm văn nghị luận và thành tựu nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại giai
đoạn 1930 - 1945.
- Phương pháp khảo sát điều tra: Được sử dụng khi tìm hiểu thực trạng
PTNLST của HS trong bài làm văn NLVH thông qua hệ thống các bài làm văn
cụ thể của HS, cách chấm bài, ra đề văn của GV.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Được dùng sau khi tiến hành khảo sát
để đánh giá kết quả điều tra từ đó tìm ra nguyên nhân của sự yếu kém trong việc
PTNLST của HS.
- Phương pháp lịch sử: Sử dụng khi tiến hành tổng hợp tư liệu về lịch sử
nghiên cứu vấn đề.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Được sử dụng để xem xét, xác
nhận, kiểm tra tính đúng đắn và tính khả thi của các biện pháp dạy học
4
5
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.
Cơ sở lí luận
Tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm tinh thần của người nghệ sĩ, qua đó,
họ phát biểu ý kiến bày tỏ thái độ trước cuộc sống bằng những hình tượng nghệ
thuật gợi cảm. Có thể nêu khái niệm về NLVH: là loại văn trong đó người viết
(người nói) đưa ra những lí lẽ, dẫn chứng về một vấn đề văn học, tác phẩm, tác
giả, trào lưu, xu hướng, giai đoạn, thời đại, hiện tượng văn học hay những vấn đề
về bản chất, quy luật, chức năng và nhiệm vụ của văn học; những ý kiến, nhận
định văn học và những kiến thức văn học nói chung, thông qua cách thức bàn
luận để thuyết phục được người nghe. Để thuyết phục được ý kiến phải đúng và
thái độ phải đúng.Có thể gọi ý kiến là lí còn thái độ là tình.Có khi ý kiến đúng mà
thái độ không đúng thì cũng kém giá trị và tác dụng.Có ý kiến đúng và thái độ
đúng rồi lại phải có cách nghị luận hợp lí nữa.
Dạy làm văn NLVH trong nhà trường thực chất là dạy HS xây dựng một thể
văn là một văn bản nghị luận về các vấn đề văn học thông thường có thể gặp
trong cuộc sống hàng ngày, dạy HS các thao tác làm văn NLVH, cách để HS thể
hiện chính kiến, quan điểm trước một vấn đề văn học cụ thể. Đây một công việc,
một yêu cầu trọng yếu trong nhà trường phổ thông. Điều này trước hết xuất phát
từ đặc điểm tâm sinh lí của HS ở bậc THPT, ở lứa tuổi này các em đã bắt đầu
hình thành nhân sinh quan, có quan niệm, thiên kiến chủ quan của mình trước
mọi vấn đề trong cuộc sống, tư duy lô-gic cũng đã phát triển đến một mức độ
nhất định. “Sự phát triển của tư duy trừu tượng trong những năm đó diễn ra
một cách đặc biệt mạnh mẽ và đôi lúc át hẳn cảm xúc và cách nhìn hình tượng
của HS… dẫn HS đến chỗ lí giải được cấu tứ của tác giả và nội dung tư tưởng,
nghệ thuật của tác phẩm một cách sâu sắc hơn” [13, tr.77]. Trên đường làm văn
NLVH, HS phải gắn liền hai mặt của vận động tư duy và ngôn ngữ; một mặt suy
nghĩ để tìm kiếm cho bài văn của mình các ý tưởng đúng đắn, phong phú, mặt
khác phải lựa chọn ngôn ngữ diễn đạt, làm cho bài văn không những có ý tưởng
dồi dào mà còn có lời văn trong sáng, mạch lạc, có sức thuyết phục, thể hiện
được tình, ý của người viết.
Làm văn NLVH không chỉ rèn luyện cho HS kĩ năng ngôn ngữ và cảm thụ
văn chương, mà mục tiêu cao hơn còn xây dựng cho HS phương pháp, tư tưởng
đúng đắn để hình thành thế giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ.Vì vậy
văn NLVH gắn liến với HS THPT là điều dễ hiểu.
Kiểu bài NLVH chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng, bài văn NLVH sẽ là
chỗ dựa quan trọng để đánh giá năng lực văn học của HS trong nhà trường phổ
thông. Điều này thể hiện trước hết ở sự phân bố chương trình: số giờ học và thực
hành về kiểu bài văn NLVH nhiều hơn hẳn so với các giờ làm văn kiểu loại
khác. Hơn nữa kiểu bài văn NLVH luôn xuất hiện trong các bài kiểm tra, các kì
thi. Các kì thi được coi là quan trọng đối với HS như kì thi tuyển sinh THPT, thi
HS giỏi và đặc biệt là ở kì thi THPT quốc gia, câu hỏi NLVH luôn chiếm một
6
mức điểm tương đối cao, quyết định đến chất lượng quá trình học tập của HS.
2.Thực trạng ra đề làm văn NLXH ở một số trường THPT hiện nay
Để phục vụ cho việc nghiên cứu việc PTNLST cho HS trong dạy học làm
văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, chúng tôi đã đi
tìm hiểu thực tế dạy và học làm văn NLVH về thơ hiện đại trong nhà trường qua
việc khảo sát nhanh một số tiết dạy, hỏi ý kiến GV và HS. Vì điều kiện giới hạn
nên chúng tôi chỉ chọn khảo sát một số lớp trong các trường THPT thuộc phạm
vi thị xã Bỉm Sơn và Hà Trung với các trường THPT Bỉm Sơn, THPT Lê Hồng
Phong, THPT Hoàng Lệ Kha.
Sau khi khảo sát và tìm hiểu, chúng tôi rút ra nhận xét rằng:
Về ưu điểm: Các giờ dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam
1930- 1945 trong thời gian gần đây đã có rất nhiều đổi mới về nội dung và
PPDH, bám sát mục tiêu cần đạt với chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ, tư tưởng,
phát triển năng lực người học; GV bước đầu tích cực sử dụng các phương pháp
và kĩ thuật dạy học hiện đại; HS say mê, hứng thú học tập; các đề kiểm tra đánh
giá về tác phẩm có tính chất gợi mở, khai thác.
Về hạn chế: Ở nhà trường phổ thông, thơ hiện đại là một trong những mảng
thơ hay, lại gần gũi về tư tưởng, mới mẻ trong thi pháp. Vì vậy để tiếp cận dòng
thơ này, nhìn chung GV, HS có hứng thú đặc biệt. Bên cạnh dòng thơ mới với sự
đổi mới của thi tứ, đem lại những quan niệm thẩm mĩ mới về cái chân - thiện mĩ, thơ hiện đại Việt Nam còn được đánh dấu bởi những thành tựu cơ bản của
thơ cách mạng. Tuy nhiên, việc dạy học các tác phẩm thơ hiện đại ở trường
THPT hiện nay chưa đạt kết quả như mong muốn.Việc dạy học Thơ mới, ở mức
độ nhất định còn theo sở thích, cảm tính, chưa kể đến những HS theo khối khoa
học tự nhiên. Việc dạy thơ cách mạng cũng còn hạn chế, bởi số tiết dạy học thơ
hiện đại trong phân phối chương trình không nhiều, chỉ có 16 tiết đọc - hiểu
(chương trình cơ bản) và 23 tiết với chương trình tự chọn bám sát. Phần làm văn
thì chủ yếu đi sâu vào thực hành các thao tác lập luận, không dạy lí thuyết về
kiểu bài NLVH về thơ hiện đại. Thực hành làm văn NLVH chỉ có “Bài viết số
6” và một bài kiểm tra tổng hợp cuối học kì “Bài viết số 7”. Bởi theo cách soạn
lô-gic thống nhất của chương trình thì kiến thức cơ bản các em đã được học ở
lớp 9 THCS, lên lớp 12 mới học lại kiến thức nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Mặc dù được sự phê duyệt của ban chuyên môn, tổ chuyên môn chủ động chia
số tiết nhiều hơn so với phân phối chương trình chung của Bộ Giáo dục, song kể
cả những tiết học tự chọn cũng không đủ để kích thích HS sáng tạo nếu không
có phương pháp và kĩ thuật cụ thể, vì NLST là khả năng cao nhất trong một
nhiệm vụ giáo dục. Muốn PTNLST hiệu quả cần giáo dục HS nắm vững những
tri thức nền tảng cơ bản. Vậy làm thế nào để PTNLST của HS trong làm văn
nghị luận về thơ hiện đại 1930 - 1945 là việc cần được quan tâm của nhà trường
phổ thông hiện nay.
2. Một số biện pháp phát triển năng lực sáng tạo cho học sinh lớp 11 trong
dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930- 1945
7
2.1. Định hướng tư duy sáng tạo cho HS khi tiếp nhận các văn bản thơ
hiện đại Việt Nam; giải mã kết hợp với liên tưởng, tưởng tượng; mở rộng, kết
nối, dự kiến các vấn đề có thể được chuyển hóa thành nội dung làm văn.
Đây là một biện pháp quan trọng PTNLST cho HS, được thực hiện ngay ở
khâu dạy đọc - hiểu văn bản thơ ở học kì 2 lớp 11. HS thực hiện các bài đọc
-hiểuThơ mới: “Vội vàng” - Xuân Diệu, “Tràng giang” - Huy Cận, “Đây thôn
Vĩ Dạ” - Hàn Mặc Tử;các bài thơ cách mạng:“Chiều tối”- Hồ Chí Minh, “Từ
ấy”- Tố Hữu và một số bài đọc thêm. Qua các bài học, HS có khả năng phát hiện
những sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh thơ, thấy những đóng góp mới mẻ của các
nhà thơ vào tiến trình văn học dân tộc, từ đó tìm ra giá trị bài học cuộc sống
được rút ra từ các văn bản thơ hiện đại.
Cần phải định hướng tư duy sáng tạo khi tiếp nhận các văn bản thơ hiện đại.
Nhận diện là mức độ HS biết xác định được một số thông tin ban đầu về tác giả,
tác phẩm, hình ảnh, từ ngữ của tác phẩm, nhớ được vấn đề đặt ra nằm ở tác
phẩm nào, huy động những kiến thức đọc - hiểu về văn bản, thể hiện suy nghĩ
riêng, nêu câu hỏi để tìm hiểu vấn đề nghị luận, kết nối vốn tri thức cá nhân với
các tài liệu liên quan để hiểu cặn kẽ vấn đề, thậm chí có thể đưa ra những cách
hiểu mới phù hợp với hoàn cảnh của vấn đề. Sau đó người học dùng cách lập
luận thuyết phục chia sẻ quan điểm cá nhân thay thế các quan điểm đã cũ, không
phù hợp để đẩy tư duy đến mức cao hơn, có thể đánh giá và đánh giá lại vấn đề,
thấy giá trị của văn bản thơ hiện đại trong thời kì mới với khả năng làm chủ
quan điểm của bản thân. Từ đó thúc đẩy khả năng sáng tạo, xây dựng ý tưởng
mới, biết tạo ra và hoàn thiện sản phẩm mới dựa trên những ý tưởng khác nhau
như vận dụng âm nhạc, hội họa để tiếp nhận các văn bản thơ, thể hiện nét riêng
độc đáo về nội dung và hấp dẫn về hình thức của bài làm văn NLVH.
Mỗi tác phẩm phải có bố cục, kết cấu, tức là có phương thức mã hóa ý
nghĩa riêng.Tác phẩm bắt đầu từ đâu, kết thúc ở đâu đều có ý nghĩa. Chẳng hạn,
trong bài “Vội vàng”, Xuân Diệu lựa chọn cho mình thể thơ tự do mới mẻ, dễ
bộc lộ cảm hứng và xúc cảm, không bị gò bó bởi câu chữ, niêm luật; sử dụng đa
dạng các thủ pháp nghệ thuật như điệp từ, điệp ngữ, từ láy, tạo kiểu vắt dòng đặc
biệt của Thơ mới, sử dụng đa dạng các kiểu câu ngắn, dài, câu cảm thán… cũng
là các cách mã hóa. Bốn câu thơ đầu của bài thơ, nhà thơ dùng thể thơ năm chữ,
kiểu câu khẳng định, điệp từ ngữ“tôi muốn”, điệp cấu trúc câu, dùng từ mệnh
lệnh, động từ “tắt nắng”, “buộc gió” khẳng định khát vọng ngông cuồng muốn
đoạt quyền tạo hóa, muốn xoay chuyển lại quy luật của tự nhiên, thể hiện một
cái tôi táo bạo, mãnh liệt: muốn ngăn thời gian, chặn sự già nua, tàn tạ để giữ
mãi hương sắc cho cuộc đời.
Liên tưởng là hoạt động tâm lí của con người, từ việc này mà nghĩ đến việc
kia, từ người này mà nghĩ đến người khác. Cơ sở của liên tưởng là mối quan hệ
giữa các sự vật hiện tượng trong đời sống.Trong NLVH về bài thơ, liên tưởng có
mục đích nhằm làm nổi bật thực chất một hiện tượng, nhận ra một ý nghĩa nào
đó. Có thể vận dụng các loại liên tưởng: liên tưởng tương cận, liên tưởng tương
đồng, liên tưởng đối sánh, trái ngược, liên tưởng nhân quả… Yêu cầu liên tưởng
8
phải hợp lí, tự nhiên và phải mới mẻ. Chẳng hạn, muốn PTNLST của HS trong
đọc - hiểu “Vội vàng”, phải phát huy khả năng liên tưởng của các em trong việc
khám phá văn bản với hiện thực lịch sử giai đoạn 1930 - 1945, các xu hướng,
khuynh hướng lí tưởng thanh niên đương thời, liên tưởng đồng đại, lịch đại để
hiểu vấn đề Xuân Diệu đề cập trong tác phẩm. Trong chín câu thơ viết về vẻ đẹp
thiên đường nơi trần thế, HS cần giải mã ngôn ngữ hình ảnh thiên nhiên: “ong”,
“bướm”, “hoa”, “lá”, “yến anh”, “bình minh”... đang ở vào thời kì sung mãn
nhất, sức sống căng đầy nhất (“tuần tháng mật”của ong bướm, “hoa của đồng
nội xanh rì”...). Chúng hiện hữu có đôi, có lứa, có tình, như mời, như gọi, như
xoắn xuýt tạo nên cảm giác sung sướng, ngây ngất, đắm say.Các biện pháp nghệ
thuật điệp ngữ, liệt kê, so sánh làm cho thiên nhiên tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn
sức xuân, sắc xuân, hương xuân và tình xuân. Cảnh vật vừa gần gũi, thân quen,
vừa quyến rũ, đầy tình tứ. Tất cả thế giới trần thế được nhìn qua lăng kính của
tình yêu, qua cặp mắt xanh non của tuổi trẻ. Đó là cái nhìn lấy con người làm
chuẩn mực cho thiên nhiên, quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân
(“hàng mi”, “tháng giêng ngon”). Cách nhìn rất Xuân Diệu, tươi mới, viên
mãn, tròn đầy, sáng tạo so với vẻ đẹp thẩm mĩ chuẩn mực truyền thống. “Tháng
giêng” - thời điểm khởi đầu của mùa xuân. Cái đẹp nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi,
mới mẻ, hồng hào, mơn mởn. “Tháng giêng” - “cặp môi gần” là cách tác giả
vật chất hoá (cầm, nắm, sờ thấy được) một khái niệm trừu tượng (thứ chỉ có thể
cảm nhận - thời gian).“Ngon”, “gần” là cách tác giả truyền cảm giác cho người
đọc bằng các tính từ. HS sáng tạo theo trí tưởng tượng và cảm nhận của bản
thân, vẽ lên hình ảnh thiên đường nơi mặt đất, thấy được tình yêu thiên nhiên,
cuộc đời của Xuân Diệu.
Tưởng tượng là hoạt động tâm lí nhằm tái tạo, biến đổi các biểu tượng trong
trí nhớ và sáng tạo ra hình tượng mới; khả năng hình thành các hình ảnh, cảm
giác, khái niệm trong tâm trí khi không nhận thức đối tượng đó thông qua thị
giác, thính giác hoặc các giác quan khác. Tưởng tượng thể hiện ý nghĩa của kinh
nghiệm và tri thức, là cơ sở cho việc nhận thức thế giới.Tưởng tượng đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình học tập. Tưởng tượng bao gồm: Tưởng tượng
tái tạo ,tưởng tượng sáng tạo.Trong dạy học “Vội vàng”, GV có thể PTNLST
của HS bằng cách kích thích trong trí tưởng tượng của các em về bức tranh thiên
nhiên tràn đầy hương sắc của cuộc sống trần thế trong thơ Xuân Diệu để từ đó
các em có thể sáng tạo nghệ thuật như vẽ tranh, ngâm thơ, hay cảm nhận triết lí
nhân sinh của Xuân Diệu từ đó xây dựng những luận lí sống cho bản thân, thích
ứng với thực tế cuộc sống.
Liên tưởng và tưởng tượng chắp cánh cho tư duy con người khỏi lệ thuộc
vào sự việc trước mắt, mở rộng tầm nhìn, đi vào chỗ sâu thẳm, bí ẩn của thế giới
và con người, tạo ra những sản phẩm mới, những hình tượng nghệ thuật không
lặp lại. Bản thân tác phẩm “Vội vàng” đã là sự sáng tạo, bằng việc giải mã, liên
tưởng, tưởng tượng, HS có thể tiếp tục sáng tạo những cái mới, gắn bó với thực
tiễn cuộc sống, nằm ngoài những điều mà tác giả mong đợi.
Như vậy, từ tư duy sáng tạo trong đọc - hiểu văn bản thơ trữ tình, GV có
9
thể kết nối tổng hợp để dự kiến các vấn đề làm văn sao cho có thể phát huy được
NLST của người học hiệu quả nhất.
2.2. Ra đề mở kích thích sự sáng tạo của HS
2.2.1. Khả năng sử dụng đề mở nhằm PTNLST cho HS khi dạy học làm
văn nghị luận về tác phẩm thơ
Ra đề hợp lí là sao cho vừa giúp HS có hướng viết, cách viết nhưng vẫn
không làm mất đi yêu cầu sáng tạo. Khi kiểm tra, đánh giá, thi cử, đề văn
thường theo định hướng: bên cạnh các câu hỏi phát huy khả năng đọc hiểu văn
bản, còn có câu hỏi yêu cầu viết NLVH. Đề văn không những được sử dụng
trong việc tổ chức dạy học thực hành làm văn mà còn là yếu tố then chốt trong
việc kiểm tra - đánh giá. Cả hai khâu này có vai trò và sự ảnh hưởng rất lớn đến
việc PTNLST của HS.
Những năm gần đây, nhiều GV đã chú ý đổi mới cách ra đề theo hướng
“mở”. Trong cuốn “Hệ thống đề mở Ngữ văn 10”, tác giả Đỗ Ngọc Thống, từ
phương diện hình thức cũng nêu quan niệm về đề mở như sau: “Đề mở là loại
đề chỉ nêu vấn đề cần bàn luận trong bài nghị luận hoặc chỉ nêu đề tài để viết
văn tự sự, miêu tả… không nêu mệnh lệnh gì về thao tác lập luận như kiểu: hãy
chứng minh, hãy giải thích, hãy phân tích” [54, tr.8]. Đây là dạng đề văn không
còn đặt ra yêu cầu về nội dung một cách cụ thể mà chỉ là những gợi mở, định
hướng.
Các dạng đề NLVH về thơ hiện đại rất đa dạng: cảm nhận vẻ đẹp một bài
thơ, một đoạn thơ; tìm hiểu giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm văn học;
mạch cảm xúc lô-gic của tâm trạng nhân vật trữ tình, chi tiết nghệ thuật, làm
sáng tỏ một ý kiến bàn về văn học
Để PTNLST trong làm văn nghị luận về thơ hiện đại, GV phải khuyến
khích HS dám tìm tòi, khám phá để đưa ra những quan điểm, ý tưởng mới, cách
giải quyết mới. Tuy nhiên với HS, việc yêu cầu các em tìm tòi, khám phá ra một
điều gì đó mới mẻ hoàn toàn là một điều không hề đơn giản. Vì thế trong nội
dung làm văn, việc ra đề văn trong nhà trường cần hướng đến mục tiêu PTNLST
ở mức cải biến, sáng tạo bộ phận như trong cách cảm nhận sáng tạo các từ ngữ,
hình ảnh mà tác giả đã sử dụng; phát hiện ý nghĩa tác phẩm không theo một lối
mòn có sẵn. Thậm chí, để PTNLST, GV cũng cần xây dựng các đề văn theo
hướng yêu cầu HS sử dụng khả năng tưởng tưởng, liên tưởng vào quá trình làm
văn. Chẳng hạn, khi cảm nhận đoạn thơ:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
…………………………………….
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
(Trích “Vội vàng” - Xuân Diệu)
10
Một HS đã liên tưởng rất sáng tạo: “Khổ thơ đã gợi trong tôi dáng đứng của
một chàng thanh niên trước không gian thiên nhiên rộng lớn tràn đầy hương sắc.
Anh ta đang dang rộng đôi tay, với một tư thế ngạo nghễ, mở lòng mình chiếm
lĩnh, ôm trọn tất cả sự sống…”. Đó là sự liên tưởng thú vị từ hình thức và ý
nghĩa nội dung khổ thơ gợi ra trong tâm trí người đọc.
Đề văn có thể yêu cầu HS tưởng tượng ở mức độ khác nhau từ thấp đến
cao.Tưởng tượng ở mức độ thấp là khả năng tưởng tượng dựa trên những sự
kiện, nhân vật, hình ảnh đã có, những gợi ý cho trước. Chẳng hạn như các đề
văn sau:
- Cảm nhận của em về tâm trạng nhân vật người thanh niên trong bài thơ
“Từ ấy” của Tố Hữu. Hãy so sánh với cảm xúc bản thân từng trải qua khi được
gia nhập đội ngũ Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh?
- Cảm nhận về nỗi niềm của các nhà thơ mới qua hai bài thơ “Tràng giang”
của Huy Cận và “Vội vàng”của Xuân Diệu?
Tưởng tượng ở mức độ cao là khả năng tưởng tượng lại một câu chuyện hay
một sự việc hoàn chỉnh đáp ứng được những yêu cầu về nội dung ý nghĩa hay
nhân vật cụ thể. Chẳng hạn như đề văn sau:
- Hãy tưởng tượng đối thoại cùng với Xuân Diệu về quan niệm sống của ông
trong bài “Vội vàng”?
- Vì sao Hàn Mặc Tử khi ở trại phong Quy Hòa nhận được bức bưu ảnh của
người bạn gái cũ lại có thể sáng tạo nên “Đây thôn Vĩ Dạ” - một trong số những
bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới?
Như vậy, việc ra đề theo hướng mở là bước đầu tiên trong việc PTNLST của
HS trong dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại.
2.2.2. Các kiểu đề làm văn nghị luận về thơ hiện đạiViệt Nam giai đoạn
1930 - 1945 có thể PTNLST cho HS
2.2.2.1. Kiểu bài 1: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ
Đây là kiểu đề truyền thống phổ biến trong việc kiểm tra đánh giá đối
với những đơn vị kiến thức của thơ hiện đại.
GV sử dụng đề mở thông thường là:
- Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên và cuộc sống trong bài thơ
“Chiều tối” của Hồ Chí Minh?
Để kích thích được khả năng sáng tạo của HS, GV có thể nêu những yêu
cầu trong các đề như:
- Chọn một khổ thơ trích trong bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, viết bài cảm
nhận suy ngẫm về mối liên hệ giữa vấn đề diễn ra trong cuộc đời em với nội
dung đoạn trích. Em có đồng ý với quan điểm của tác giả trong bài thơ không và
lí giải tại sao quan niệm đó lại quan trọng với em?
11
- Hãy viết một bài văn giải thích, làm sáng tỏ và giúp người đọc tìm thấy ý
nghĩa mới của một tác phẩm thơ hiện đại.
- Chọn một hoặc nhiều bài thơ (thơ hiện đại hoặc thơ mới) và viết bài văn
phân tích ý nghĩa của chúng.
2.2.2.2. Kiểu bài 2: Nghị luận về một ý kiến bàn về văn học
Ý kiến bàn về văn học có thể là những nhận xét về tác giả (phong cách
nghệ thuật, cá tính sáng tạo, con người, quan niệm sống), tác phẩm (hoàn cảnh
sáng tác, nội dung, nghệ thuật), trào lưu văn học, thời đại lịch sử… Các đề
truyển thống thường là nêu các vấn đề về phong cách nghệ thuật, đặc điểm hồn
thơ:
- Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã khẳng định “Xuân Diệu mới
nhất trong các nhà thơ mới”. Qua “Vội vàng”, em có suy nghĩ như thế nào về
điều đó?
- Nhận xét về hồn thơ Xuân Diệu, Hoài Thanh viết “Người luôn say đắm
tình yêu, say đắm cảnh đời, sống vội vàng, cuống quýt, khi vui cũng như khi
buồn, người đều nồng nàn, tha thiết”. Anh/chị hãy bình luận ý kiến trên qua bài
thơ “Vội vàng”?
Trên cơ sở các kiểu đề truyền thống, để PTNLSTcho HS lớp 11 khi NLVH
về thơ hiện đại, GV xây dựng các đề với nội dung trình bày quan điểm cá nhân,
sáng tạo không áp dụng nói theo những cái có sẵn như sau:
- “Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với
cha ông.Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt” (Trích “Một thời
đại trong thi ca” - Hoài Thanh). Qua các bài thơ mới như “Vội vàng” - Xuân
Diệu, “Tràng giang” - Huy Cận, “Đây thôn Vĩ Dạ” - Hàn Mặc Tử, “Tương tư”
- Nguyễn Bính, anh/chị hãy trình bày quan điểm của mình về ý kiến trên. Hãy
chia sẻ một giải pháp mà anh/chị đã thực hiện để góp phần giữ gìn sự trong sáng
của tiếng Việt.
2.2.2.3: Kiểu bài 3: Nghị luận so sánh
Thường đối với HS đây là kiểu đề khó, bởi để giải quyết thấu đáo vấn đề,
HS phải hiểu kĩ, không chỉ kiến thức đọc - hiểu của hai vấn đề trong nội dung
yêu cầu đề bài mà còn phải biết vận dụng lập luận so sánh, sự sáng tạo trong
diễn đạt, để làm nổi bật sự giống và khác nhau của vấn đề so sánh. GV có thể sử
dụng các kiểu đề:
- Viết một bài NLVH so sánh và đối chiếu hai bài thơ. Bài viết cần tập trung
vào các phương diện chính của bài thơ như chủ đề, phong cách, sự lựa chọn từ
ngữ; để giúp bạn đọc thấy được sự sâu sắc trong các bài thơ ấy (phạm vi có thể
là: “Vội vàng” - “Tràng giang”; “Chiều tối” - “Từ ấy”; “Vội vàng” - “Từ
ấy”…)
2.2.2.4. Kiểu bài 4: Nghị luận về một vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học
Vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học thường là vấn đề khái quát nhất sau
12
khi học xong tác phẩm văn chương. Bởi “văn học là hiện thực cuộc sống”
(M.Gorki), nên với một tác phẩm giá trị thì ý nghĩa xã hội của nó càng rộng lớn,
càng sâu sắc. Để làm nổi bật được vấn đề này hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng
sáng tạo của HS. Trong “Vội vàng”, Xuân Diệu đặt ra bài học cuộc sống một
cách sâu sắc từ quan niệm thời gian đời người, cái nhìn tích cực trước hiện thực
cuộc sống giai đoạn 1930 - 1945, quan niệm về cách ứng xử như thế nào trước
thời gian cuộc đời, vấn đề quan niệm thẩm mĩ mới mẻ… HS có thể vận dụng
vốn hiểu biết, sáng tạo của mình để GQVĐ hiệu quả mà không cần dựa vào ý
tưởng của bất cứ tài liệu tham khảo nào.
Đề bài mở thông thường GV vẫn sử dụng là:
Đề bài: Anh/ chị hãy phân tích đoạn thơ dưới đây để làm nổi bật quan niệm
về thời gian của Xuân Diệu? Anh/ chị có suy nghĩ gì về quan niệm ấy?
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
……………………………………
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
(Trích “Vội vàng” - Xuân Diệu)
Ở dạng đề mở kích thích khả năng PTNLST cho HS tối ưu hơn, có thể lựa
chọn các đề bài:
- Chọn một tư tưởng sâu sắc mà bạn đã bắt gặp khi học bài thơ “Vội
vàng”của tác giả Xuân Diệu. Viết bài văn thuyết phục người khác ủng hộ cho tư
tưởng đó. Bàn về nội dung văn học nhưng cần bảo đảm đã liên hệ với một vấn
đề của hiện thực cuộc sống hôm nay.
Để làm kiểu bài này, HS cần phát hiện được vấn đề nghị luận ở dạng khái
quát nhất và định hướng đi, phạm vi của bài viết. Sau đó hướng vào hai nội dung
lớn:
- Phần một: Phân tích, giới thiệu và nêu vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn
học.
+ Nếu đề văn nêu sẵn vấn đề rút ra từ một tác phẩm đã học thì phân tích qua
vấn đề ấy đã được thể hiện như thế nào trong tác phẩm.
+ Nếu đề nêu một văn bản chưa học, không cho sẵn vấn đề thì cần đọc hiểu,
phân tích để rút ra vấn đề và ý nghĩa của vấn đề trước khi vào phần hai.
- Phần hai (trọng tâm): Nghị luận về vấn đề rút ra từ tác phẩm văn học. Khi
đã có vấn đề (đề tài, chủ đề) cần bàn bạc rồi, thì mới bắt đầu viết bài nghị luận,
nêu lên suy nghĩ của bản thân mình về vấn đề ấy.Tùy kiểu bài (nghị luận về vấn
đề xã hội hay vấn đề văn học) mà xác định các bước làm bài cho phù hợp.
Sau khi làm rõ trọng tâm ở phần thân bài, phần kết bài có nhiệm vụ tổng
kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải quyết ở thân bài, góp phần tạo
tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn.
13
2.3. Rèn luyện cách viết sáng tạo khi triển khai bài văn nghị luận về thơ
hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945
2.3.1. Rèn cho HS viết sáng tạo trong việc lựa chọn cách tiếp cận vấn đề
nghị luận
- Tiếp cận theo hướng giải quyết vấn đề: Muốn viết sáng tạo cần phải đi
cùng với tình huống. Nghĩa là, sáng tạo luôn gắn với tình huống, vấn đề cụ thể
do người khác đặt ra hay do chủ thể tự phát hiện. Dù do ai phát hiện đi nữa thì
vấn đề cũng phải gây ra sự khó khăn, lúng túng cho người thực hiện bởi sự mới
mẻ, khác lạ với hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân. Cũng vì thế, một đề văn
muốn đánh thức khát vọng sáng tạo của HS trước hết phải là một tình huống có
vấn đề, một nhiệm vụ chưa từng được giải quyết trước đó.
GV có thể định hướng các vấn đề cơ bản để HS dễ dàng tiếp cận các bài thơ
hiện đại:
- “Đây thôn Vĩ Dạ”(Hàn Mặc Tử): Một bức tranh quê hương gợi nhiều cảm
xúc, một tấm lòng yêu đời tha thiết; hay là bài thơ về tình yêu - tình quê… Hay
là một cảm nhận nào khác?
- “Vội vàng” (Xuân Diệu): Một quan niệm sống vội vàng, tích cực hay sống
gấp, tiêu cực?
Viết sáng tạo nghĩa là phải ưu tiên cho việc thực hành vận dụng, gắn các nội
dung học tập với việc trải nghiệm của HS; đặt người học vào các tình huống của
thực tiễn đời sống, yêu cầu phát biểu suy nghĩ và đề xuất các giải pháp hành
động.
- Trong khi viết, dám thể hiện cách tiếp nhận riêng, chấp nhận mạo hiểm: Làm
văn, với đặc trưng là tính thực hành - tổng hợp cao giúp HS có khả năng lựa chọn,
vận dụng một cách sáng tạo nhiều tri thức và kĩ năng khác nhau để tạo nên một
bài văn hoàn chỉnh. Khả năng sáng tạo càng cao bao nhiêu thì bài văn càng hấp
dẫn, lôi cuốn bấy nhiêu bởi vì nó chứa đựng những cách biểu đạt sáng tạo, những
ý tưởng mới mẻ, những cách tiếp cận, lí giải vấn đề độc đáo của người viết.
2.3.2. Đa dạng hóa về hình thức làm văn nghị luận về thơ hiện đại
- Chọn những hình thức triển khai bài viết sáng tạo độc đáo: Cách triển khai
bài viết sáng tạo vẫn phải đảm bảo nguyên tắc về các kĩ năng xây dựng đoạn và
liên kết đoạn.
Ví dụ: Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Cái mới trước
hết khi ông thể hiện sự khẳng định cái tôi cá nhân bên cạnh cái Ta chung cổ điển.
Cái mới còn ở chỗ Xuân Diệu nhìn thời gian theo dòng chảy tuyến tính, gắn liền
với tuổi trẻ và tình yêu một đi không trở lại, khác với quan niệm thời gian tuần
hoàn của thơ trung đại. Ông cảm nhận cái đẹp ngay trên mặt đất mà không phải
thoát lên chốn Thiên Thai.Ông thu chuẩn mực cái đẹp thẩm mĩ ở trung tâm là
con con người. Đặc biệt, Xuân Diệu đề cao quan niệm sống tích cực, cần nắm
bắt thời gian để sống có ích, có ý nghĩa.(Bài viết của HS về Cái mới trong “Vội
vàng”).
14
- Sáng tạo trong việc lựa chọn cách thể hiện mới cho bài viết: Rèn luyện kĩ
năng sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt trong quá trình làm văn NLVH
về thơ hiện đại sẽ góp phần trang bị những tri thức và kĩ năng cần thiết cho việc
viết văn sáng tạo, để bài văn vừa đáp ứng được yêu cầu của thể loại vừa thể hiện
được sự mới mẻ, độc đáo trong cách biểu đạt nội dung. Trong văn NLVH về thơ
hiện đại cần kết hợp phương thức biểu đạt nghị luận với các phương thức miêu
tả, biểu cảm, tự sự và thuyết minh.
2.4. Sáng tạo trong đánh giá bài làm văn nghị luận của HS
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo
dục.Công việc này thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo
dục và sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theovới yêu cầu
cao hơn, chất lượng mới hơn trong bậc thang giáo dục.Đánh giá kết quả học tập
là quá trình thu thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu
học tập của HS, về những nguyên nhân và tác động của tình hình đó đến HS, tạo
cơ sở cho những quyết định sư phạm của GV và nhà trường sau này đến bản
thân HS để các emcó phương hướng học tập ngày càng đạt kết quả tiến bộ hơn.
3. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng
nghiệp và nhà trường.
Với đề tài này chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm để
- Đánh giá được hiệu quả và tính khả thi của việc vận dụng PPDH thơ hiện
đại theo định hướng PTNL và PTNLST choHS.
- Kiểm tra được kết quả học tập của HS qua việc dạy học làm văn nghị luận
về thơ hiện đại nhằm PTNLST cho HS lớp 11.
Đối tượng thực nghiệm: học sinh lớp 11 gồm 4 lớp: hai lớp thực nghiệm và
hai lớp đối chứng.
Địa bàn thực nghiệm: Trường THPT Bỉm Sơn- thị xã Bỉm Sơn- Thanh Hóa
Dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại 1930 - 1945 nhằm PTNLST cho
HS lớp 11.
Nội dung dạy học là “Bài viết số 6 -NLVH”, bám sát văn bản “Vội vàng”,
“Tràng giang”, “Đây thôn Vĩ Dạ”, “Chiều tối”, “Từ ấy”trong SGK ban cơ bản
của NXBGD (Phan Trọng Luận chủ biên) bởi theo khảo sát chung, đại đa số các
trường THPT đều triển khai thực hiện dạy và học theo bộ sách này. Thời lượng
dạy học “Bài viết số 6 - NLVH”thực hiện theo phân phối chương trình chung
của Trường
Kết quả thu được căn cứ vào sản phẩm trong quá trình tổ chức dạy học, sự
hứng thú của HS khi tham gia giờ học, bài kiểm tra đánh giá nhanh cuối mỗi giờ
học và đặc biệt thể hiện trong kết quả ra đề kiểm tra định kì mà tổ, nhóm chuyên
môn đã triển khai.
Bảng đánh giá kết quả của các lớp tham gia
15
Lớp
Sĩ số Thời gian
thực hiện
Sản phẩm Sự hứng
sáng tạo
thú
Kết quả học tập
TN 11B2 42
17/04/201
9
4
38/42
15HS>8 8>22HS>6,
5
TN 11B4 42
19/04/201
9
5
40/42
18HS>8 8>21HS>6,
5
ĐC 11B1 44
12/04/201
9
0
15/44
5HS>8
8>12HS>6,
5
ĐC 11B7 40
14/04/201
9
0
12/40
4HS>8
8>10HS>6,
5
Quá trình thực hiện thực nghiệm cũng còn những hạn chế nhất định nhưng
nhìn chung mục tiêuvà kết quả bài học đạt hiệu quả; HS hoạt động tích cực, sôi
nổi, có hứng thú; nhiều năng lực của HS được khám phá, bộc lộ và hứa hẹn sẽ
phát triển. Vẫn biết rằng, để PTNLST của HS cần một quá trình dài nhưng thiết
nghĩ sự triển khai trong mỗi một đơn vị bài học như vậy cũng là điều cần thiết.
Đây sẽ là một đề xuất có tính khả thi, có thể đạt hiệu quả tốt khi áp dụng triển
khai với nhiều đơn vị kiến thức khác nhau trong chương trình môn Ngữ văn
THPT.
16
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Trong chiến lược giáo dục PTNL người học thì PTNLST rất quan trọng
trong các lĩnh vực tự nhiên. Đối với môn Ngữ văn, đây là mục đích dạy học hiệu
quả trong việc tạo ra sự gắn kết môn học với các lĩnh vực nghệ thuật, âm nhạc,
hội họa, tạo hứng thú và sự chủ động của người học. Phát huy khả năng sáng
tạo, HS tìm được nội dung trọng điểm trong bài học, giá trị cơ bản nhất với cuộc
sống - điều mà Xuân Diệu trong nhiều cuộc nói chuyện vẫn nhấn mạnh. Học văn
không phải tầm chương trích cú và chỉ gói gọn trong sách vở mà phải phát huy
năng lực của người học, khơi nguồn dòng sáng tạo bất tận của con người mới
đáp ứng được yêu cầu thời đại ngày nay.
Dựa trên cơ sở chung là quan điểm dạy học tích cực, với chiến lược dạy
học tổng thể theo định hướng PTNL cho HS, SKKN đã thêm một tiêu chí đánh
giá trong giáo dục về sự PTNLST của HS. Bằng việc xây dựng các tiêu chí và
chỉ số sáng tạo trong bài làm văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn
1930 - 1945 trong môn Ngữ văn, áp dụng vào học sinh khối 11 - Trường THPT
Bỉm Sơn chúng tôi đã đi đến kết luận: Trong quá trình dạy học làm văn nghị
luận về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, HS có khả năng khai thác
tác phẩm văn chương sâu hơn, không chỉ qua nhận diện bề mặt ngôn từ, chuyển
hóa nội dung làm văn, lí giải sự độc đáo nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, mà
các em còn có những kiến giải sáng tạo áp dụng vào xử lí tình huống thực tiễn
đời sống, tự tin vào khả năng của chính mình, phát triển bản thân tốt hơn, đặc
biệt là phát huy được NLST của bản thân trong cảm thụ nghệ thuật và tích hợp
liên môn.
2. Kiến nghị:
- Trong chiến lược giáo dục tổng thể, nhất là thay đổi SGK trong những
năm tới, ngành giáo dục cần phải quan tâm tới vấn đề “PTNLST cho HS lớp 11
trong dạy học làm văn nghị luận về thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 19301945”để xây dựng cơ cấu nội dung chương trình hợp lí. Định hướng PPDH học
qua các nhóm bài học và xây dựng các biểu mẫu Rubrics đánh giá cụ thể, tránh
tình trạng học tủ của HS để các em biết vận dụng kiến thức văn học vào thực
tiễn đời sống.
- Với bộ môn Ngữ văn: cần áp dụng các biện pháp PTNLST không chỉ trong
đọc - hiểu và làm văn về các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam giai đoạn 1930 1945 mà còn thực hiện dạy học ở tất cả các tác phẩm trong chương trình THPT;
công tác kiểm tra đánh giá, xây dựng đề mở, nhất là hướng tới các kì thi THPT
Quốc gia nên được quan tâm
- Để đi vào thực thi cụ thể những đề xuất trên, đối với tổ bộ môn, cấp
trường, cần quan tâm nhân rộng đề tài ở tiết học Ngữ văn ở các lớp, các năm
học; đầu tư nhân lực, vật lực, kết hợp với các tổ chức Đoàn thanh niên, Chi đoàn
17
GV tạo nên những sân chơi bổ ích, phát huy NLST cho HS, học mà chơi, chơi
mà học hiệu quả, để văn học và nghệ thuật sáng tạo không tách rời nhau. Những
nhân tố có khả năng sáng tạo tốt cần được quan tâm và phát huy, tư vấn ngành
nghề phù hợp để có cơ hội đóng góp tài năng cho xã hội.
- Đối với cấp ngành, cần có kế hoạch xây dựng chương trình PTNLST hiệu
quả nhất; có những văn bản chỉ đạo không chỉ quan tâm tổ chức cuộc thi sáng
tạo khoa học kĩ thuật, mà có thêm các cuộc thi sáng tạo nghệ thuật từ các tác
phẩm văn học trong nhà trường. Từ đó sẽ thúc đẩy và phát huy NLST của HS,
nâng cao vị thế môn Ngữ văn trong mục tiêu giáo dục, không chỉ rèn luyện nhân
cách mà còn đào tạo tài năng.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 30 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình
tự viết , không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Trịnh Thị Thanh Hải
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Anderson, L. W. & Krathwohl, D. R (2001). Phân loại tư duy cho việc
dạy, học và đánh giá. New York: Longman.
[2]
Lê Anh (2017). Tháng 5 nhớ Bác - Nhật kí trong tù, Tuần Báo Văn Nghệ
TP HCM số 445.
[3]
Bernd Meier - Nguyễn Văn Cường (2016). Lí luận dạy học hiện đại - Cơ
sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
[4]
Bộ giáo dục và Đào tạo (2014). Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra
đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh Môn Ngữ văn cấp
[5]
THPT, Hà Nội.
Bộ giáo dục và Đào tạo, Dự án Việt Bỉ (2000). “Hỗ trợ học từ xa”. Dạy kỹ
năng tư duy, Xưởng in báo Người Hà Nội.
[6]
Nguyễn Lăng Bình, Đỗ Hương Trà, Nguyễn Phương Hồng, Cao Thị
Thặng (2010). Dạy và học tích cực - Một số phương pháp và kĩ thuật dạy
học. NXB ĐHSP Hà Nội.
[7]
Trần Thanh Bình (1986). Về một hướng gắn bó ngữ pháp với tập làm văn,
Tạp san Giáo dục cấp III, số 1.
[8]
Bloom B.S, (Ed.) (1956). Phân loại tư duy cho các mục tiêu giáo dục:
Phân loại các mục tiêu giáo dục: Quyển I, nhận thức về lĩnh vực. New
York: Longman.
[9]
Trần Văn Chung (2016). Năng lực sáng tạo và phát triển năng lực sáng
tạo cho HS trong dạy học làm văn ở nhà trường phổ thông,
.
[10]
Nguyễn Viết Chữ (2009). Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương
theo loại thể, NXB ĐHSP, Hà Nội.
[11]
[12]
Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn (2014), NXB Giáo dục.
Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể (2017), Hà Nội.
19
[13] Costa, A. L. (Ed.) (2000). Phát triển tư duy: sách tài nguyên cho việc Dạy
học tư duy. Alexandria, VA: ASCD
PHỤ LỤC
Giáo án: BÀI VIẾT SỐ 6 - NLVH
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
- Củng cố kiến thức về văn nghị luận văn học, đặc biệt là kiểu bài nghị luận về
một bài thơ, đoạn thơ.
2. Kĩ năng:
- Trình bày vấn đề một cách chặt chẽ, thuyết phục.
- Củng cố kiến thức và kĩ năng làm văn, đặc biệt là văn nghị luận văn học.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích đề và nêu cảm nhận của bản thân.
- Sử dụng các thao tác lập luận so sánh và phân tích, bác bỏ, bình luận.
- Tích hợp KNS: Nhận thức về mục đích, giá trị cuộc sống với mỗi cá
nhân.
3. Thái độ:
- HS có thái độ nghiêm túc khi viết bài, GV ra đề sát yêu cầu phù hợp với
đối tượng HS.
4. Định hướng phát triển năng lực:
- Năng lực giải quyết vấn đề: Xác định đúng yêu cầu đề bài, tìm giải pháp
hiệu quả nhất để giải quyết.
- Năng lực sáng tạo: cách hiểu và tiếp cận của mỗi cá nhân đối với những
vấn đề trong bài học, sáng tạo vào thực tiễn cuộc sống, xây dựng quan điểm
sống. Kết hợp cách hiểu môn Ngữ văn với các môn học khác như âm nhạc, mĩ
thuật, hội họa. Đề xuất ý kiến của bản thân và bảo vệ được ý kiến của mình.
- Năng lực tạo lập văn bản, sử dụng ngôn ngữ: biết cách lựa chọn từ ngữ
và diễn đạt để tạo lập văn bản đạt hiệu quả cao.
- Năng lực tự quản bản thân: hiểu và xây dựng ý thức trách nhiệm của mỗi
cá nhân trước cuộc sống, khẳng định và tin tưởng vào tài năng của mỗi con
người.
20
- Năng lực giao tiếp tiếng Việt: hiểu và vận dụng ngôn ngữ dân tộc trong
việc thể hiện những suy nghĩ của bản thân về tình yêu, quan niệm thời gian, tuổi
trẻ và cuộc sống.
- Năng lực thưởng thức văn học, cảm thụ thẩm mĩ: cái hay, cái đẹp của
ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ hiện đại.
II. HÌNH THỨC KIỂM TRA: Viết bài ở nhà
III. THIẾT LẬP MA TRẬN
Mức độ Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng
Vận
dụng
thấp
-Nắm được - Hiểu và phân - Viết
kiến thức cơ tích được tâm được
1. Làm
bản về tác
trạng nhân vật văn bản
văn
giả, tác
trữ tình.
nghị
phẩm và
luận văn
-Hiểu và phân
cảm xúc của
học.
tích được đặc
nhân vật trữ
sắc nghệ thuật -Trình
tình.
của tác phẩm. bày cảm
-Nhận thức
nhận của
-Hiểu và phân
đúng yêu
bản
tích được các
cầu nghị
thân.
giá trị của tác
luận văn
phẩm.
học.
Chủ đề
Tỉ lệ
20%=2đ
30%=3đ
40%=4đ
IV. BIÊN SOẠN CÂU HỎI THEO MA TRẬN
§Ò bµi : Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
21
Cộng
Vận dụng
Cao
- Rút ra bài học
cho bản thân.
- Có thể liên hệ
mở rộng đến
các tác phẩm
cùng đề tài.
- Từ những giá
trị của văn bản
có thể kiến tạo
và sáng tạo
những sản
phẩm có ích
cho bản thân.
10%=1đ
100%=10đ
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồngnội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
(“Vội vàng” - Xuân Diệu, SGK Ngữ văn 11, tập 2, tr.22)
V. XÂY DỰNG HƯỚNG DẪN CHẤM VÀ THANG ĐIỂM
Phần
Nội dung
1. Mở - Xuân Diệu là nghệ sĩ lớn, nhà văn hóa lớn có sức sáng tạo
mãnh liệt, bền bỉ và sự nghiệp văn học phong phú, được mệnh
bài:
danh là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
- Bài thơ là lòng ham sống mãnh liệt, là niềm khát khao giao
cảm với đời và quan niệm nhân sinh thẩm mĩ mới mẻ của Xuân
Diệu, được in trong tập “Thơ thơ” (1938)- tập thơ đầu tay thể
hiện đặc sắc của phong cách thơ Xuân Diệu trước cách
mạng tháng Tám.
- Giới thiệu đoạn thơ đầu (13 câu): Tình yêu tha thiết cuộc sống
trần thế
- Trích thơ
2.
* Bốn câu thơ đầu: Khát vọng kì lạ
Thân - Lối diễn đạt riêng: 5 chữ, kiểu câu khẳng định, điệp từ ngữ,
bài
điệp cấu trúc câu, dùng từ mệnh lệnh.
- Từ ngữ độc đáo:
+ động từ “tắt nắng”, “buộc gió”
+ điệp từ“tôi muốn”
=> Khát vọng ngông cuồng muốn đoạt quyền tạo hóa.
+ Mục đích: “màu đừng nhạt mất”, “hương đừng bay đi”
=>khát vọng xoay chuyển lại quy luật của tự nhiên.
=> Giữa cái ta cổ điển, cái tôi cá nhân của Xuân Diệu đặc biệt:
cái tôi táo bạo, mãnh liệt, muốn đoạt quyền tạo hoá, ngăn thời
22
Điểm
0.5
2.0
gian, chặn sự già nua, tàn tạ để giữ mãi hương sắc cho cuộc đời.
* Chín câu tiếp: Thiên đường nơi trần thế
- Hình ảnh thiên nhiên: ong, bướm, hoa, lá, yến anh, ánh bình
minh. Đang ở vào thời kì sung mãn nhất, sức sống căng đầy nhất
(“tuần tháng mật” của ong bướm, “hoa của đồng nội xanh
rì”...). Chúng hiện hữu có đôi, có lứa, có tình, như mời, như
gọi, như xoắn xuýt Cảm giác sung sướng, ngây ngất, đắm say.
- Nghệ thuật: Điệp ngữ, liệt kê, so sánh:
+ Tràn đầy sinh lực, ngồn ngộn sức xuân, sắc xuân, hương xuân
và tình xuân.
+ Vừa gần gũi, thân quen, vừa quyến rũ, đầy tình tứ.
+ Được nhìn qua lăng kính của tình yêu, qua cặp mắt xanh non
của tuổi trẻ. Đó là cái nhìn lấy con người làm chuẩn mực cho
thiên nhiên, quy chiếu thiên nhiên về vẻ đẹp của giai nhân (hàng
mi, tháng giêng ngon).
=> Cách nhìn rất Xuân Diệu, tươi mới, viên mãn, tròn đầy, sáng
tạo so với vẻ đẹp thẩm mĩ chuẩn mực truyền thống.
- “Tháng giêng” - thời điểm khởi đầu của mùa xuân. Cái đẹp
nằm ở sự bắt đầu, tinh khôi, mới mẻ, hồng hào, mơn mởn.
- “Tháng giêng”-“cặp môi gần”: vật chất hoá (cầm, nắm, sờ
thấy được) một khái niệm trừu tượng (thứ chỉ có thể cảm nhận thời gian).
- “Ngon”, “gần”: truyền cảm giác cho người đọc bằng các tính
từ.
=> Tình yêu thiên nhiên, cuộc đời.
=>Quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân Diệu.
- Nỗi lo âu của thi nhân
+ Dấu chấm gữa dòng: Ngưng lại mạch cảm xúc đang tuôn trào.
+ Đối lập: Sung sướng >< vội vàng => Phản ánh một tâm trạng
đầy mâu thuẫn: Vừa sung sướng, ngất ngây, vừa vội vàng thảng
thốt. Đang sống giữa mùa xuân mà đã tiếc xuân, hoài xuân vì
nhận ra tất cả chỉ thực sự thần tiên trong cái xuân thì của nó.
=> Cảm thức trong thơ Xuân Diệu thật tinh tế và tình yêu cao
độ của thi nhân.
* Nghệ thuật
- Sự thay đổi số chữ trong câu thơ.
- Sử dụng các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc câu, so sánh táo
bạo, mới mẻ.
- Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình
ảnh thơ.
- Sử dụng ngôn từ, nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng
nhiệt.
* Đánh giá chung
- Tình yêu thiết tha của thi sĩ với thiên đường nơi trần thế.
23
5.0
1.0
1,0
1.0
- Quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của Xuân
Diệu.
1.0
1.0
3. Kết - Khẳng định lại vấn đề.
bài:
- Rút ra bài học liên hệ.
Lưu ý: Hình thức trình bày khoa học, sáng tạo: 2,0đ
24
0,5