Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Nghiên cứu cơ quan điều tra cộng hòa pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.77 KB, 11 trang )

NGHIÊN CỨU CƠ QUAN ĐIỀU TRA CỦA CỘNG HÒA PHÁP
I.

Tổ chức hoạt động
Ở Pháp, có hai loại cảnh sát thực hiện nhiệm vụ duy trì luật pháp và trật tự tuy
nhiên không nên nhầm lẫn: cảnh sát tư pháp và cảnh sát hành chính. Cảnh sát tư
pháp chịu sự giám sát của các cơ quan tư pháp có chức năng giải quyết các loại
tội phạm: điều tra tội phạm và cố gắng đưa kẻ phạm tội ra trước pháp luật. Chỉ
những nhân viên cảnh sát tư pháp sẽ tiến hành điều tra những vụ án đơn gian
hoặc giai đoạn đầu của vụ án theo yêu cầu của Viện công tố hoặc điều tra theo
yêu cầu của Thẩm phán điều tra đối với những vụ án phức tạp, đòi hỏi phải
nghiên cứu chi tiết, cụ thể, đặc biệt là đối với những vụ án đặc biệt ngiêm trọng.
Cảnh sát hành chính chịu sự quản lý của Chính phủ. Cảnh sát hành chính có
chức năng phòng ngừa, ngăn chặn việc thực hiện hành vi phạm tội, đảm bảo duy
trì trật tự công cộng, hay nói cách khác, đây là lực lượng cảnh sát thực thi pháp
luật. Ở khía cạnh này, cảnh sát tư pháp có nội hàm giống cơ quan điều tra các
nước.
Có ba lực lượng thực hiện toàn bộ hoặc một số chức năng điều tra
-Cảnh sát quốc gia ( Police Nationale ), trước đây được gọi là Sûreté, là một
trong hai lực lượng cảnh sát quốc gia của Pháp. Cảnh sát quốc gia thuộc thẩm
quyền của Bộ Nội vụ và có khoảng 150.000 nhân viên với thẩm quyền ở các
thành phố và đô thị lớn. Lực lượng này đi liền với những đơn vị có chức năng
thụ lý điều tra vụ án hình sự, trong đó công việc hàng ngày chủ yếu gắn liền với
các Thẩm phán điều tra và Công tố viên. Cảnh sát quốc gia cũng có những đơn
vị chuyên môn gọi là cơ quan trung ương có chức năng điều tra trên toàn lãnh
thổ nước Pháp đối với các loại tội sau đây:
+ Tội phạm có tổ chức
+ Tội buôn bán người
+ Tội buôn bán, vận chuyển trái phép chất ma túy
+Tội phạm khủng bố
+Tội rửa tiền


+Tội phạm mạng
Tội buôn bán trái phép các giá trị nghệ thuật
Tội buôn bán trái phép các loại vũ khí và chất nổ
1


-

Các vụ việc vi phạm luật kinh doanh mang tính hình sự
Hiến binh quốc gia (Gendarmerie nationale) ra đời từ thế kỷ XIII. Hiến binh là
đơn vị có thẩm quyền chính ở các thị trấn nhỏ hơn và khu vực nông thôn, các
khu vực quân sự. Hiến binh quốc gia chịu sự quản lý của Bộ Quốc phòng nhưng
được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Nội vụ với khoảng 100 000 nhân viên. Lực
lượng cảnh sát hiến binh đi kèm với một đơn vị chuyên điều tra án hình sự, còn
gọi là đơn vị nghiên cứu mà công việc hàng ngày là gắn với Thẩm phán và Công
tố viên. Một số đơn vị của Hiến binh có chức năng giải quyết một số lĩnh vực
phạm tội và có quyền điều tra trên phạm vi toàn lãnh thổ nước Pháp ( Ví dụ: Cơ

-

quan trung ương về tội phạm môi trường và sức khỏe công cộng: OCLAESP)
Cơ quan Hải quan, một dịch vụ hải quan dân sự thường được biết đến như
Douane, thuộc Bộ Ngân sách, Kế toán công cộng, công chức với gần 20 000
nhân viên. Căn cứ vào Bộ luật Tố tụng Hình sự, ODJ có quyền hạn tương tự như
OPJ của cảnh sát hoặc hiến binh ở một số khu vực. Các nhân viên hải quan
muốn tham gia SNDJ phải có ít nhất hai năm phục vụ hiệu quả trong một đơn vị
loại A hoặc B của Cục Hải quan.
Từ năm 1941, Cảnh sát quốc gia có thẩm quyền hoạt động với các khu vực đô
thị lớn có dân số hơn 10 000 người, những khu vực còn lại thuộc thẩm quyền
của Hiến binh quốc gia. Ngoài ra, Cảnh sát quốc gia và Hiến binh quốc gia còn


-

chịu trách nhiệm về các khu vực cụ thể như sau:
Cảnh sát quốc gia xử lý và lấy lời khai người nước ngoài ( cảnh sát biên giới )
Hiến binh quốc gia xử lý tất cả các vấn đề liên quan đến quân đội, cảnh sát trên
biển, an ninh sân bay và an ninh của các tòa nhà công cộng.
Dịch vụ hải quan tư pháp quốc gia là một dịch vụ được giao nhiệm vụ của cảnh
sát tư pháp . Dịch vụ hải quan tư pháp quốc gia được trao quyền để thực hiện
các cuộc điều tra tư pháp (hải quan, kinh tế hoặc tài chính) trên toàn lãnh
thổ. Mục đích nhằm ghi lại hành vi phạm tội, tìm kiếm thủ phạm và thu thập
chứng cứ.
Nhân viên hải quan có thẩm quyền tìm kiếm và chứng minh:

1.

Các tội phạm theo Luật Hải quan;
2


2.

Các tội phạm liên quan đến thuế gián tiếp, lừa đảo VAT, và trộm cắp sản vật văn

3.

hóa;
Các tội phạm liên quan đến việc bảo vệ lợi ích tài chính của Liên minh Châu

4.


Âu;
Các tội phạm quy định tại các điều từ L.2339-1 đến L.2339-11 và L.2339-11 của

5.
6.

Bộ luật Quốc phòng;
Các tội phạm quy định tại các điều từ 324-1 đến 324-9 Bộ luật Hình sự;
Các tội phạm quy định tại các điều từ 716-9 đến 716-11 của Bộ luật Sở hữu trí

7.

tuệ;
Các tội liên quan đến các tội quy định tại các khoản từ 1 đến 6;
Tuy nhiên, theo các quy định tại khoản II, họ không có thẩm quyền hành động
trong các vụ án buôn bán ma túy.
Trong đó, các tội phạm thường được SNDJ xử lý là:

-

Buôn lậu hàng hóa bị đánh thuế nặng (thuốc lá)
Tội phạm gian lận thuế VAT;
Năm 2015, SNDJ đã điều tra 75 trường hợp gian lận thuế VAT đại diện cho một
thương tích đối với Kho bạc Pháp gần 368 triệu euro.
- tội phạm liên quan đến trộm cắp tài sản văn hóa;
Đầu năm 2016, SNDJ đã đóng trang web của một thương gia điện tử, trong đó
nhiều đối tượng khảo cổ từ thời tiền sử, cổ đại và trung cổ đã được bán bất hợp
pháp trong khu vực PACA.


-

sự lưu thông bất thường của hàng hóa bị đánh thuế nặng;
giam giữ trái phép hàng cấm (hàng giả, vũ khí);
Vào tháng 6 năm 2016, một cuộc khảo sát của SNDJ đã cho phép tháo dỡ một
mạng lưới hàng giả và thu giữ gần 100.000 mặt hàng giả, chủ yếu là nhãn của
các nhãn hiệu thời trang. Trong năm 2015, Hải quan đã thu giữ 8,8 triệu mặt
hàng giả và 1.158 vũ khí (+ 40% so với năm 2014).
3


II.

Chức năng
Điều 14 Bộ luật tố tụng hình sự Pháp: “ Cảnh sát tư pháp có nhiệm vụ khám phá
các hành vi vi phạm pháp luật, thu thập chứng cứ của những vi phạm này và xác
định vi phạm, trừ khi và cho đến khi đã tiến hành một cuộc điều tra tư pháp.
Khi đã tiến hành điều tra tư pháp thì phải thực hiện các trách nhiệm được các cơ
quan điều tra tư pháp giao và tuân theo mệnh lệnh của họ.”
Các sỹ quan, công chức và nhân viên cảnh sát tư pháp thực hiện nhiệm vụ cảnh
sát tư pháp dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm.
Trong phạm vi thẩm quyền của mỗi Tòa phúc thẩm, cảnh sát tư pháp chịu sự
giám sát của Viện công tố bên cạnh Tòa phúc thẩm và sự kiểm tra của Tòa điều
tra theo quy định tại Điều 224 và các điều tiếp theo.
Nhưng điều quan trọng là các Ðiều tra viên cho dù thuộc lực lượng Cảnh sát hay
Hiến binh, thì khi tiến hành điều tra sơ bộ để tìm kiếm người phạm tội, xác định
những dấu hiệu của tội phạm đều đặt dưới sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện công
tố bên cạnh Toà sơ thẩm. Sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện công tố đối với các
Ðiều tra viên chỉ trong lĩnh vực pháp lý, còn trong lĩnh vực hành chính giữ gìn
trật tự công cộng thì lực lượng cảnh sát không chịu sự điều hành, chỉ huy của

Viện công tố. Người tố giác có quyền gửi đơn hoặc trình báo sỹ quan Cảnh sát
tư pháp nhưng sau khi chấp nhận phải chuyển tố giác đó đến Viện công tố để
xem xét, xử lý. Điều 19 của BLTTHS quy định: "Sỹ quan Cảnh sát tư pháp phải
thông báo ngay cho Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm những trọng
tội khinh tội và tội vi cảnh mà họ đã biết. Sau khi kết thúc công việc, họ phải gửi
thẳng cho Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm bản chính và bản sao
có chứng thực của tất cả các biên bản mà họ đã lập cũng như những văn bản và
tài liệu liên quan. Những đồ vật kê biên thuộc quyền xem xét của Viện trưởng
Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm. Ðiều 40 của BLTTHS quy định: "Viện
trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm nhận tố giác đánh giá và quyết định
việc xử lý. Mỗi nhà chức trách, mỗi viên chức công quyền hoặc mỗi công chức
4


trong khi thực hiện nhiệm vụ, nếu biết có một trọng tội hoặc khinh tội xảy ra,
phải thông báo ngay cho Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm và
chuyển cho Viện công tố tất cả các thông tin, các biện bản và văn bản có liên
quan.
Chức danh tư pháp

III.

Cảnh sát tư pháp bao gồm:
1.
2.
3.

Sỹ quan cảnh sát tư pháp
Nhân viên cảnh sát tư pháp và trợ lý nhân viên cảnh sát tư pháp
Công chức và viên chức được pháp luật giao một số chức năng của cảnh sát tư

pháp
Quyền hạn của sỹ quan cảnh sát tư pháp và nhân viên cảnh sát tư pháp chỉ có thể
thực hiện trong trường hợp cần thiết và theo quyết định của Công tố viên trưởng
phụ trách của khu vực họ. Các đặc quyền này tạm thời bị đình chỉ khi họ tham
gia vào lực lượng bảo vệ trật tự công cộng (ví dụ kiểm soát bạo động). Chức
danh cảnh sát viên của cảnh sát tư pháp có thể bị Tòa án thu hồi nếu viên chức
đó hành xử theo cách không thích hợp. Các Công tố viên có thẩm quyền đánh
giá sỹ quan cảnh sát tư pháp, và những đánh giá này được xem xét trong các

1.
1.
2.

chương trình đề bạt cụ thể.
Sỹ quan cảnh sát tư pháp
Những người sau đây có địa vị của sỹ quan cảnh sát tư pháp ( Điều 16)
Các thị trưởng và phó thị trưởng
Các sỹ quan quân cảnh, quân nhân quân cảnh đã phục vụ ít nhất 4 năm trong
ngành, được Bộ trưởng tư pháp và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định bổ

3.

nhiệm sau khi nhận được ý kiến đồng ý của một uy ban
Tổng thanh tra, Phó Cục trưởng cảnh sát, Kiểm tra viên trưởng, Cảnh sát trưởng,
công chức được bổ nhiệm vào ngạch chỉ huy nhóm cảnh sát quốc gia, công chức
được đào tạo bổ nhiệm chỉ huy nhóm cảnh sát quốc gia mà đã từng phục vụ ở vị
trí này, được Bộ trưởng tư pháp và Bộ trưởng nội vụ quyết định bổ nhiệm sau

4.


khi nhận được ý kiến chấp thuận của một ủy ban
Công chức viên được chỉ định vào nhóm điều lệnh và kiểm tra của cảnh sát quốc
gia đã phục vụ ít nhất ba năm trong cơ quan này, có tên gọi theo quyết định của
Bộ trưởng Tư pháp và Nội vụ sau khi nhận được ý kiến đồng ý của một ủy ban.
5


Thành phần của ủy ban quy định tại các khoản từ 2 đến 4 được quyết định bằng
một lệnh ban hành dựa trên báo cáo của Bộ trưởng tư pháp và các Bộ trưởng
liên quan
Công chức đề cập tại các khoản từ 2 đến 4 nói trên không thực hiện các nhiệm
vụ được giao trên cương vị cảnh sát tư pháp, cũng như không nhân danh trên vị
trí này, trừ khi họ được bổ nhiệm vào một vị trí nhất định để thực hiện công việc
này và tuân theo một quyết định giao việc riêng rẽ của Công tố viên bên cạnh
Tòa phúc thẩm. Việc thực hiện các nhiệm vụ được giao này bị tạm hoãn trong
thời gian họ tham gia vào một đơn vị hoạt động giữ gìn trật tự xã hội. Nếu họ
được điều động sang một cơ quan ngoài phạm vi thẩm quyền của Tòa phúc thẩm
thi Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Tòa phúc thẩm nơi cơ quan mới đóng trụ
sở ra quyết định giao quyền thực hiện nhiệm vụ cảnh sát tư pháp.
Tuy nhiên, công chức đề câp trong khoản 4 nói trên có thể không nhận được sự
công nhận trừ khi họ gia nhập hoặc một cơ quan hoặc một nhóm cơ quan quy
định tại điều 15-1 và có tên trong một danh sách được ấn đinh bởi một quyết
định của Bộ tư pháp và Bộ Nội vụ, hoặc gia nhập một nhóm được đề cập trong
quy định tương tự.
Sỹ quan cảnh sát tư pháp thực thi quyền hạn quy định tại Điều 14, nhận đơn
khiếu nại và tố cáo, tiến hành điều tra sơ bộ theo quy định tại Điều 75-78.
Sỹ quan cảnh sát tư pháp phải thông báo ngay cho Viện trưởng Viện công tố bên
cạnh Tòa sơ thẩm những tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng và tội vi cảnh mà họ
2.
a.


phát hiện được.
Nhân viên cảnh sát tư pháp và trợ lý nhân viên cảnh sát tư pháp
Nhân viên cảnh sát tư pháp
Những người sau đây giữ cương vị nhân viên cảnh sát tư pháp:

1.
2.

Hiến binh không giữ cương vị sỹ quan cảnh sát tư pháp
Công chức được chỉ định giám sát và chỉ huy cảnh sát quốc gia không giữ cương
vị sỹ quan cảnh sát tư pháp, cũng như các thực tập sinh thuộc cùng một đơn vị

3.

và trung úy cảnh sát tập sự;
Công chức được chỉ định đến cơ quan thực thi và giám sát của cảnh sát quốc gia
không giữ cương vị sỹ quan cảnh sát tư pháp, theo các quy định liên quan đến
khoản 4 và 5 dưới đây;
6


4.

Nhân viên cảnh sát tư pháp đến từ các cựu đơn vị của các hạ sỹ quan và nhân
viên cảnh sát của cảnh sát quốc gia được chỉ định thực tập sinh trước ngày 31
tháng 12 năm 1985, khi có ít nhất 2 năm phục vụ với cương vị là nhân viên cảnh
sát đủ tiêu chuẩn và đã qua các kỳ thi kiểm tra kỹ thuật theo các điều kiện ấn
định bằng một Nghị định của Chính phủ, hoặc khi họ có các bằng cấp chuyên


5.

môn cho phép thăng tiến lên cấp cao hơn;
Nhân viên cảnh sát đến từ các cựu đơn vị, các điều tra viên cảnh sát được chỉ
định là thực tập sinh trước ngày 1 tháng 3 năm 1979, khi họ có ít nhất 2 năm
phục vụ với cương vị một nhân viên cảnh sát đủ tiêu chuẩn và khi họ tuân thoe
các điều kiện chuyên môn quy định tại luật số 78-788 ngày 28 tháng 7 năm 1978
sửa đổi tố tụng hình sự liên quan đến cảnh sát tư pháp và bồi thẩm đoàn tòa đại
hình, hoặc khi vượt qua được các bài kiểm tra kỹ thuật theo các điều kiện ấn
định bởi một Nghị định của Chính phủ, hoặc khi họ có chứng chỉ chuyên môn,
cho phép thăng tiến lên cấp cao hơn.
Tuy nhiên, công chức đề cập tại khoản 1 đến 5 nói trên có thể không thực hiện
một cách hợp pháp các thẩm quyền có được với cương vị nhân viên cảnh sát tư
pháp hoặc đảm nhân cương vị như vậy trừ khi họ được đặt vào vị trí liên quan
đến việc thực hiện. Việc thực hiện các thẩm quyền này bị tạm hoãn trong thời
gian họ tham gia, như là một đơn vị được thành lập, hoạt động nhằm duy trì trật

-

tự xã hội.
Nhiệm vụ của nhân viên cảnh sát tư pháp:
Trợ giúp sỹ quan cảnh sát tư pháp thực hiện trách nhiệm của mình
Chứng minh có sự tồn tại của các tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng hoặc tội vi

-

cảnh và tạp hợp các hồ sơ chính thức liên quan đến chúng;
Tiếp nhận dưới hình thức các bản ghi chính thức các lời khai được gửi đến bởi
bất kì người nào có trách nhiệm cung cấp đầu mối, chứng cứ, và các thông tin
liên quan đến các thủ phạm và đồng bọn của những tội phạm này.

Nhân viên cảnh sát tư pháp không có khả năng quyết định biện pháp giam giữ

b.
1.

của cảnh sát.
Trợ lý nhân viên cảnh sát tư pháp
Những người sau đây là trợ lý nhân viên cảnh sát tư pháp:
Công chức thuộc các lực lượng cơ động của cảnh sát quốc gia không đáp ứng đủ
các điều kiện tại điều 20;
7


2.
3.
4.
5.
-

Tình nguyện viên phục vụ với cương vị nhân viên quân đội trong Hiến binh;
Trợ lý sỹ quan an ninh được đề cập tại điều 36 luật số 95-73 ngày 21 tháng 1
năm 1995 có định hướng liên quan đến an ninh;
Nhân viên lực lượng tuần tra khu vực Paris;
Nhân viên cảnh sát trưởng.
Nhiệm vụ của họ là:
Trợ giúp sỹ quan cảnh sát tư pháp thực hiện nhiệm vụ;
Báo cáo cấp trên bất kỳ tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng hoặc tội vi cảnh biết
được.
Chứng minh có sự tồn tại các vi phạm pháp luật hình sự, phù hợp với mệnh lệnh
của cấp trên, và thu thập thông tin nhằm xác định thủ phạm của các tội phạm

này, tất cả nhưng điều này nằm trong khuôn khổ và theo các nghi thức quy định

3.
a.

bởi các luật đặc biệt hoặc tổ chức chuyên ngành.
Viên chức và công chức đảm nhận một số chức năng của cảnh sát tư pháp
Kỹ sư, trưởng hạt và nhân viên kỹ thuật thủy- lâm và nhân viên bảo nông
Kỹ sư, trưởng hạt và nhân viên kỹ thuật thủy- lâm và nhân viên bảo nông lập
biên bản xác nhận những tội ít nghiêm trọng và tội vi cảnh xâm phạm đến các cơ

b.

sở lâm nghiệp hoặc cơ sở nông nghiệp.
Công chức và viên chức cơ quan Nhà nước và công sở tự quản
Công chức và viên chức các cơ quan Nhà nước và công sở tự quản được pháp
luật giao cho một số quyền hạn cảnh sát tư pháp, thực thi những quyền hạn này

IV.
-

trong phạm vi quy định của các đạo luật đó.
Nhiệm vụ, quyền hạn
Sỹ quan cảnh sát tư pháp có thể tiến hành hoặc giám sát việc lấy các mẫu ngẫu
nhiên từ bất kỳ ai có thể cung cấp thông tin về tội phạm liên quan, hoặc từ bất kì
ai có lý do hợp lý để nghi ngờ là người này đã thực hiện hoặc nỗ lực thực hiện
một tội phạm, nhằm tiến hành các thí nghiệm khoa học kỹ thuật so sánh chúng

-


với các dấu vết hoặc đầu mối có được vì mục đích điều tra. (Điều 55)
Tịch biên giấy tờ, tài liệu, dữ liệu điện tử hoặc các đồ vật khác thuộc sở hữu của
những người có vẻ liên quan đến tội nghiêm trọng hoặc sở hữu những giấy tờ,
thông tin hoặc đồ vật gắn liền với tội phạm, sỹ quan cảnh sát tư pháp đến nơi ở
của những người này để khám xét. Sỹ quan cảnh sát tư pháp chỉ tịch biên các đồ
vật cần thiết cho việc xác định sự thật của vụ án khi được sự đồng ý của Viện
trưởng Viện công tố bên cạnh tòa sơ thẩm.
8


-

Thực hiện việc khám xét và thu giữ tại các địa điểm khác nhau ( Điều 56, 57, 59,
76, 96, 706-28, 706-73). Cơ quan Cảnh sát có thể tiến hành khám xét và kê biên
nhưng được thực hiện một cách khác nhau tuỳ theo đó là trường hợp quả tang
hay không quả tang. Nói chung, Cảnh sát chỉ sử dụng các quyền cưỡng chế
trong trường hợp giả định là một tội phạm quả tang. Khi không phải là một tội
phạm quả tang thì cần phải điều tra xác minh và được gọi là điều tra sơ bộ, đối
lập với điều tra tội phạm quả tang. Trong điều tra sơ bộ, Cảnh sát chỉ có thể
khám xét và kê biên khi có sự đồng ý bằng văn bản của chủ nhân ở nơi bị khám
xét. Còn đối với tội phạm quả tang thì Cảnh sát không cần phải có sự đồng ý của
người ở nơi bị khám xét, nhưng phải có mặt họ khi tiến hành khám xét; nếu họ
khước từ thì phải chỉ định người đại diện cho mình; nếu họ không muốn làm
điều đó thì Cảnh sát phải chỉ định hai người chứng kiến việc khám xét. Trong
một số trường hợp đặc biệt, việc khám xét phải giữ bí mật nghề nghiệp. Việc
khám xét văn phòng luật sư hoặc nơi cư trú của người này chỉ có thể do thẩm
phán hoặc công tố viên tiến hành với sự có mặt của chủ nhiệm Đoàn luật sư
hoặc đại diên của người này. Khám xét trụ sở của cơ quan báo chí hoặc phát
thanh, truyền hình chỉ có thẩm phán hoặc công tố viên ra lệnh khám xét, nhưng
phải đảm bảo việc điều tra không vi phạm quyền tự do thực hiện nghề nghiệp

của phóng viên và không gây trở ngại hoặc trì hoãn việc truyền thông mà không

-

có lý do chính đáng.
Lệnh cho chuyên gia: Nếu cần tiến hành ngay lập tức các công việc xác nhận
hoặc xét nghiệm kỹ thuật hoặc khoa học, sỹ quan cảnh sát tư pháp có thể yêu

-

cầu bất cứ người nào có đủ khả năng thực hiện công việc này. (Điều 60)
Triệu tập và xét hỏi: Sỹ quan cảnh sát tư pháp có thể triệu tập và xét hỏi bất kỳ
ai chắc chắn sẽ cung cấp thông tin liên quan đến tội hoặc đồ vật và tài liệu bị

-

tịch biên. ( Điều 62)
Bắt và tạm giữ: Khi có lý do xác đáng nghi ngờ là họ đã thực hiện hoặc tìm cách
thực hiện một tội phạm. Tức là, tạm giữ có thể được thực hiện một trong hai
trường hợp: phạm tội quả tang và phạm tội không quả tang trường hợp cho
phép suy đoán họ đã có hành vi hoặc chuẩn bị phạm tội. Ðây là một quyền quan
trọng của Cảnh sát nhưng chỉ có sỹ quan Cảnh sát tư pháp mới có quyền ra lệnh
9


tạm giữ. Khi bắt đầu việc bắt và tạm giữ, sỹ quan cảnh sát tư pháp thông báo cho
công tố viên trưởng cấp quận. Sỹ quan cảnh sát là người duy nhất có quyền
quyết định việc tạm giữ. Để tiến hành tạm giữ người nào đó cần phải căn cứ vào
những dấu hiệu tội phạm, nếu không có những dấu hiệu liên quan thì chỉ có thể
mời họ đến lấy lời khai. Biện pháp tạm giữ bị hạn chế về mặt thời gian. Về

nguyên tắc, thời hạn tạm giữ là 24 giờ, có thể gia hạn thêm một lần 24 giờ nếu
Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm cho phép.Nhưng cũng có một số
ngoại lệ; là đối với tội phạm, về ma tuý hoặc tội khủng bố thì thời hạn gia hạn
-

tạm giữ lần thứ nhất là 24 giờ, thời hạn gia hạn tạm giữ lần thứ hai là 48 giờ .
Kiểm tra căn cước: Sỹ quan cảnh sát tư pháp, nhân viên và trợ lý nhân viên cảnh
sát tư pháp quy định tại điều 20 và 21-1, thừa lệnh của sỹ quan cảnh sát tư pháp
có thể yêu cầu mọi người chứng minh căn cước của mình, bằng mọi cách nếu có
dấu hiệu cho phép suy đoán là:
+ đã phạm tội hoặc phạm tội chưa thành
+ chuẩn bị phạm tội nghiêm trọng hoặc ít nghiêm trọng
+ có thể cung cấp những tin tức giúp ích cho việc điều tra tội nghiêm trọng hay

-

tội ít nghiêm trọng
+ đối tượng đang có lệnh truy nã của cơ quan tư pháp (điều 78-2)
Sàng lọc các nhóm tội phạm: Thủ tục này liên quan đến các tội phạm quy định
tại các điều từ 706-773 và phải được sự đồng thuận của một công tố viên quận
hay thẩm phán điều tra. Quyết định này phải đề cập tới tội phạm chứng minh
cho việc dùng biện pháp này và danh tính của sỹ quan cảnh sát tư pháp có trách

-

nhiệm;
Nghe lén liên lạc điện thoại: Thẩm phán phụ trách tạm giam của tòa án cấp quận
có quyền, theo yêu cầu của công tố viên cấp quận, cho phép việc nghe lén, ghi
âm, sao chép phương tiện truyền thông tương xứng. Để áp dụng, công tố viên
cấp quận hoặc cảnh sát tư pháp do công tố viên cấp quận chỉ định có quyền hạn


-

của thẩm phán điều tra.
Nghe bất kỳ người nào trình bày thông tin cần thiết về vụ án mà không tham vấn
trước với công tố viên.
Công tố viên kiểm soát cảnh sát tư pháp theo ba cách: giám sát và kiểm tra việc
điều tra, phụ trách phối hợp hoạt động giữa các cơ quan và lựa chọn cơ quan nào
sẽ chịu trách nhiệm việc điều tra. Các công tố viên có đủ quyền của cảnh sát tư
10


pháp. Ngay cả nếu họ không sử dụng thẩm quyền này thường xuyên, họ có thể
quyết định với tư cách cá nhân việc tham gia hay không tham gia vào cuộc điều
tra.
Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm chỉ đạo hoạt động của sĩ quan
và nhân viên Cảnh sát tư pháp trong phạm vi địa hạt của mình. Viện trưởng Viện
Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm có quyền điều tra, truy tìm, lập biên bản, tiến
hành khám xét, đích thân xuống hiện trường. Tất nhiên, khi làm những việc đó,
Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm thường được các sĩ quan Cảnh
sát giúp đỡ. Trong trường hợp điều tra sơ bộ hoặc điều tra tội phạm quả tang, sĩ
quan Cảnh sát tư pháp phải giúp đỡ Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa sơ
thẩm khi tiến hành khám xét. Viện trưởng Viện Công tố bên cạnh Tòa sơ thẩm
còn là người chỉ đạo điều tra trong việc xác nhận người phạm tội và các dấu hiệu
tội phạm.
Công tố viên cấp quận phải gửi những chỉ đạo chung cho Điều tra viên nhằm
đảm bảo thẩm quyền giám sát có hiệu quả. Theo đó, Công tố viên giải thích
những lựa chọn và ưu tiên về chính sách xử lý đối với các vụ án hình sự. Công
tố viên cấp quận có thể ban hành các chỉ đạo hay yêu cầu trong vụ án cụ thể.
Ngoài ra, việc giám sát có nghĩa là mọi thông tin cần thiết phải được thể hiện

bằng văn bản và chuyển cho Công tố viên. Sỹ quan Cảnh sát tư pháp phải thông
báo ngay cho Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm những trọng tội
khinh tội và tội vi cảnh mà họ đã biết. Sau khi kết thúc công việc, họ phải gửi
thẳng cho Viện trưởng Viện công tố bên cạnh Toà sơ thẩm bản chính và bản sao
có chứng thực của tất cả các biên bản mà họ đã lập cũng như những văn bản và
tài liệu liên quan.

11



×