Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Truyện ngắn của Nam Cao và Ohenry trong cái nhìn đối sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.99 KB, 94 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THÚY

TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY
TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ THÚY

TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY
TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 822.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HỌC
VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM


Người hướng dẫn khoa học:

TS. HOÀNG THỊ THẬP
PGS.TS. CAO THỊ HẢO

THÁI NGUYÊN - 2019
2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học trong luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Hoàng Thị Thập và
PGS.TS. Cao Thị Hảo - những người đã tận tình hướng dẫn, động viên và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ Khoa Ngữ văn, các cán bộ Khoa
Sau đại học, trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em
trong quá trình học tập.

Tôi vô cùng cảm ơn sự quan tâm và ủng hộ của gia đình, bạn bè. Đó chính là
nguồn động viên tinh thần rất lớn để tôi theo đuổi và hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên ngày 05 tháng 7 năm 2019
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Thúy

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................... ii
MỤC LỤC ..........................................................................................................iii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 9
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn .......................................................... 10
7. Cấu trúc luận văn ........................................................................................... 10
Chương 1. CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP CỦA
NAM CAO VÀ O’HENRY ................................................................... 11
1.1.

Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry ............................ 11


1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao .................................................. 11
1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry ................................................... 15
1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà
văn ........................................................................................................... 18
1.2.

Quan niệm sáng tác của Nam Cao và O’Henry ...................................... 20

1.3.

Sự nghiệp văn chương của Nam Cao và O’Henry .................................. 25

1.4.

Đôi nét về khái niệm truyện ngắn và lý thuyết văn học so sánh ............. 31

1.4.1. Khái niệm truyện ngắn ............................................................................ 31
1.4.2. Về văn học so sánh .................................................................................. 31
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 31
Chương 2. NỘI DUNG TRUYỆN NGẮN NAM CAO VÀ O’HENRY
TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH .......................................................... 33
2.1.

Hệ thống đề tài trong truyện ngắn Nam Cao và O’Henry....................... 33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





2.1.1. Các đề tài chính trong truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ............... 33
2.1.2. Đề tài tương đồng: đề tài người trí thức .................................................. 36
2.1.3. Những đề tài khác biệt ............................................................................. 40
2.2.

Hệ thống chủ đề trong truyện ngắn của Nam Cao .................................. 44

2.2.1. Những chủ đề có nét tương đồng ............................................................ 44
2.2.2. Những chủ đề khác biệt ........................................................................... 56
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................. 60
Chương 3. NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM CAO VÀ
O’HENRY TRONG CÁI NHÌN ĐỐI SÁNH ...................................... 61
3.1.

Nghệ thuật xây dựng cốt truyện của Nam Cao và O’Henry ................... 61

3.1.1. Sự tương đồng trong xây dựng cốt truyện ............................................... 61
3.1.2. Những điểm khác biệt trong xây dựng cốt truyện ................................... 65
3.2.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao và O’Henry ...................... 76

3.2.1. Miêu tả ngoại hình nhân vật .................................................................... 76
3.2.2. Miêu tả hành động của nhân vật .............................................................. 79
3.2.3. Miêu tả nội tâm nhân vật ......................................................................... 81
Tiểu kết chương 3 .............................................................................................. 83
KẾT LUẬN....................................................................................................... 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nam Cao (1915-1951) tên thật là Trần Hữu Tri. Ông là một trong những
nhà văn lớn của thế kỷ XX được nhiều người nghiên cứu. Nam Cao không chỉ được
đánh giá là một nhà văn hiện thực kiệt xuất có tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà ông
còn là một nhà văn có quan điểm về nghệ thuật tiến bộ và nhất quán. Trong các nhà
văn Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút bậc thầy về nghệ thuật viết truyện ngắn.
O’Henry (1862-1910) tên thật là William Sydney Porter, là một nhà văn nổi
tiếng người Mỹ. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ông được mệnh danh là “cây đại
thụ” của nền văn học Mỹ. Cùng với nhà văn Anton Chekhov (Nga) và Guyde
Maupassant (Pháp), O’Henry được coi là một trong ba bậc thầy về nghệ thuật
truyện ngắn thế giới. Truyện ngắn của ông đều là những tác phẩm có giá trị và để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Tên ông được đặt cho “Giải thưởng Kỷ
niệm O’Henry” - giải thưởng hàng năm của văn học Mỹ - nhằm tôn vinh những
tác giả có truyện ngắn xuất sắc.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nam Cao chỉ gói gọn trong 15 năm (1936- 1951)
nhưng ông đã để lại khối lượng tác phẩm khá lớn (gần 60 truyện, chủ yếu là truyện
ngắn). Cho tới nay, ông vẫn là hiện tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu phê
bình và bạn đọc. Tác phẩm của ông vẫn khiến người đọc “nghĩ tiếp”, khơi sâu vào
những “địa tầng” mới để kiếm tìm những “vỉa vàng” lấp lánh.
Với vốn sống phong phú, trong một thời gian ngắn O’Henry cũng đã sáng tác
được một khối lượng tác phẩm khá đồ sộ (gần 400 truyện ngắn và một số bài thơ).
Kết cấu truyện chặt chẽ, cốt truyện được xếp vào hàng mẫu mực nhất của truyện
ngắn (thế kỷ XX) đã đưa tên tuổi ông vang xa trên toàn thế giới. Truyện ngắn của
O’Henry không chỉ tái hiện xã hội Mỹ đầu thế kỷ XX mà còn thể hiện cái nhìn nhân
văn và lạc quan về con người, cuộc sống. Trải qua thời gian, truyện ngắn của ông

vẫn hấp dẫn độc giả trên toàn thế giới với những ý nghĩa mới mẻ. Vì vậy nghiên
cứu về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của ông vẫn rất cần thiết.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




1.3. Văn học so sánh là tên gọi một phương pháp luận nghiên cứu văn học. Nó
không chỉ cho phép nghiên cứu so sánh các hiện tượng văn học ở các quốc gia khác
nhau theo quan hệ giao lưu, ảnh hưởng mà còn cho phép so sánh văn học theo quan
hệ tương đồng. Việc đặt truyện ngắn Nam Cao và O’Henry cạnh nhau trong thế đối
so sánh giúp ta có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về hai tác giả.
Hiện nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về truyện ngắn của hai tác giả Nam
Cao và O’Henry nhưng việc đặt chúng trong quan hệ so sánh để thấy ngòi bút đậm
chất nhân văn của hai tác giả thì chưa công trình nào thực hiện có hệ thống.
1.4. Tác phẩm của Nam Cao và O’Henry đã được đưa vào chương trình Ngữ
văn phổ thông và chuyên ngành văn ở các trường Đại học ở Việt Nam từ lâu. Ở bậc
Đại học, Nam Cao là tác giả được nghiên cứu khá kĩ càng. Ở bậc trung học phổ
thông có truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao; trong chương trình trung học cơ sở
có truyện ngắn Lão Hạc (Nam Cao) và Chiếc lá cuối cùng của O’Henry. Đây là
những tác phẩm có nhiều giá trị. Với đề tài này, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần vào
công việc giảng dạy, học tập tác phẩm của hai nhà Nam Cao và O’Henry ở Việt
Nam.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao và so sánh Nam Cao với các tác giả văn học
nước ngoài
2.1.1. Vấn đề nghiên cứu Nam Cao
Nam Cao là một tài năng, một hiện tượng lớn trong nền văn học hiện đại đầu
thế kỷ XX. Vì vậy, hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về ông (khoảng hơn

200 tài liệu). Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc nghiên cứu tác phẩm
Nam Cao vẫn chưa được chú ý. Ngoài lời “tựa” Đôi lứa xứng đôi của Lê Văn
Trương thì chưa có công trình nào nghiên cứu chính thức về Nam Cao. Phải từ sau
Cách mạng tháng 8-1945, Nam Cao mới được giới nghiên cứu văn học biết đến.
Người đầu tiên quan tâm đến tính sắc sảo trong sáng tác của Nam Cao là Nguyễn
Đình Thi trong bài Nam Cao ông viết vào những năm 50.
Sang đến những năm 1960 có thêm nhiều công trình khác về Nam Cao ra đời.
Mở đầu là hai bài viết: Đọc truyện ngắn Nam Cao, soi lại bước đường đi lên của nhà
văn hiện thực và Con người và cuộc sống trong tác phẩm Nam Cao của Huệ Chi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Phong Lê. Ở các bài viết này, hai nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều nhận định và đánh
giá khái quát về sự nghiệp sáng tác của Nam Cao.
Năm 1961, Phan Cư Đệ và Hà Minh Đức cũng có hai công trình nghiên cứu
về Nam Cao. Với cuốn Văn học Việt Nam 1930-1945, Phan Cư Đệ đã dành một bài
tìm hiểu về cuộc sống và sáng tác của Nam Cao. Hà Minh Đức trong công trình
Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc lại nhìn Nam Cao ở một góc độ khác. Ông cho
rằng, Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc bởi sáng tác của ông đã đạt tới trình
độ điển hình hóa cao trên nhiều phương diện nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu
tả tâm lý nhân vật.
Năm 1973, nhiều công trình nghiên cứu về Nam Cao tiếp tục được ra đời.
Trong đó có giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945 của Nguyễn Hoành
Khung. Trong chương Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh đến tài năng
của Nam Cao trong việc lấy chất liệu từ cuộc sống hàng ngày.
Trong cuốn sách Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974), nhà nghiên cứu Phan
Cư Đệ một lần nữa nhắc đến Nam Cao và có nhiều phát hiện mới, độc đáo về sáng
tác của nhà văn này. Theo ông, điểm đặc sắc trong các tác phẩm của Nam Cao chính
là ở nghệ thuật.

Năm 1982, Giáo sư Hà Minh Đức viết cuốn Nam Cao và đôi nét nghệ thuật
sáng tạo tâm lý. Trong đó, ông nhận định: “Dòng tâm lý trong tác phẩm của Nam
Cao vận động qua nhiều cảnh ngộ nhưng vẫn quanh quẩn tù túng không tìm được
lối thoát. Nó không được giao lưu với hành động nên có những phát triển ở bên
trong, ngày càng đi sâu vào nội tâm gần gũi với miêu tả tâm lý của Dostoievski và
Sekhov” [10, tr.73]. Như vậy, Hà Minh Đức đã chỉ ra một đặc điểm rất quan trọng
trong sáng tác của Nam Cao. Đó là sự ảnh hưởng của nghệ thuật xây dựng nhân vật
từ văn học châu Âu thế kỷ XIX.
Năm 2002, bài viết Nhớ Nam Cao và những bài học của ông của Nguyễn Đăng
Mạnh hoàn thành và in trong cuốn Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn. Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét về nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nam Cao
như sau: “Sức hấp dẫn của Nam Cao còn ở những trang phân tích tâm lý sắc sảo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




của ông. Nam Cao chú ý đến nhiều nội tâm ngoại hình nhân vật” [18, tr.183]. Đặc
biệt, khi đi sâu vào nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao, Nguyễn Đăng Mạnh còn
khẳng định:“Nam Cao có một lối kể rất biến hóa, cứ nhập thẳng vào đời sống bên
trong nhân vật mà dẫn dắt mạch tự sự theo dòng độc thoại nội tâm. Lối kể chuyện
theo quan điểm nhân vật như thế nào tạo ra ở nhiều tác phẩm của Nam Cao, một
thứ kết cấu bề ngoài có vẻ rất phóng túng, tùy tiện mà thực ra hết sức chặt chẽ như
không thể nào phá vỡ nốt” [18, tr.183].
Năm 1992, nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của Nam Cao, Viện Văn học cùng
Hội Văn học nghệ thuật Hà Nam tiến hành biên soạn cuốn Nghĩ tiếp về Nam Cao
do giáo sư Phong Lê làm chủ biên. Cuốn sách là tập hợp rất nhiều ý kiến, đánh giá
và tìm tòi khám phá mới về Nam Cao. Chúng tôi quan tâm đến những bài viết liên
quan đến quan đến nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao trong cuốn
sách này.

2.1.2. Vấn đề so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài
Nam Cao là một nhà văn lớn. Điều này đã được chứng minh qua việc nhà
nghiên cứu N.I. Niculin (Liên xô) trong ba cuốn từ điện đồ sộ: Từ điển bách khoa
văn học giản yếu, Đại từ điển bách khoa Liên Xô, Từ điển bách khoa văn học đều
đã dành một mục để viết về Nam Cao.
Ở Việt Nam, hướng tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh với tác giả văn học
nước ngoài đã được manh nha từ những năm 60. Hai nhà nghiên cứu đầu tiên đặt
Nam Cao bên cạnh Dostorevski, Sekhov - các nhà văn lớn trên thế giới - là Phan
Cư Đệ và Hà Minh Đức.
Sang thập 90, phương pháp tiếp cận Nam Cao từ góc độ so sánh được các nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm và nghiên cứu chuyên sâu hơn. Trong cuốn Nghĩ tiếp
về Nam Cao do Phong Lê chủ biên đã tập hợp và giới thiệu với bạn đọc ba bài viết
về Nam Cao từ góc độ so sánh của ba nhà nghiên cứu là Đào Tuấn Ảnh với Tsêkhov
và Nam Cao - một sáng tác hiện thực kiểu mới ;Trần Ngọc Dung với Gặp gỡ giữa
M.Gorki và Nam Cao; Phạm Tú Châu với Đôi điều so sánh giữa Chí Phèo và AQ .
Năm 2004, Viện Văn học tổ chức cuộc hội thảo nhân kỉ niệm 100 năm ngày
mất của A.Chekhov. Tại hội thảo này, có rất nhiều bài tham luận viết về cuộc sống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




và sự nghiệp của nhà văn Nga vĩ đại này. Trong đó có bài viết so sánh A.Chekhov
và Nam Cao rất sâu sắc của Phong Lê: A.Sekhov và Nam Cao nhìn từ hai nền văn
học. Với bài viết này, tác giả Phong Lê đã tìm ra những nét giống và khác nhau
trong sáng tác của Nam Cao và A.Chekhov. Từ việc so sánh đó, nhà nghiên cứu
khẳng định sự tương đồng giữa Nam Cao và A.Sekhov thể hiện ở “vai trò và sứ
mệnh ở mỗi người đối với lịch sử dân tộc” và “ở lối tư duy nghệ thuật độc đáo đào
sâu vào đời sống tâm lý và hướng vào cuộc sống nhỏ nhặt thường ngày” [16,
tr.203].

Ngoài ra, ở trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên có một số luận văn Thạc sĩ
so sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Đó là luận văn của Phạm Thị Thu:
“So sánh nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Nam Cao (Việt Nam) và Runkê
Akutagawa (Nhật Bản)”, luận văn của Lương Thị Lan “Một số vấn đề thi pháp
truyện ngắn Nam Cao” (so sánh với thi pháp truyện ngắn A.Sekhov).
Nhìn chung, những công trình chuyên biệt nghiên cứu về Nam Cao rất phong
phú và đa dạng, với hàng trăm tài liệu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài, chúng
tôi muốn tập trung khai thác các tài liệu liên quan đến truyện ngắn của Nam Cao và so
sánh Nam Cao với tác giả văn học nước ngoài. Trên cơ sở đó, chúng tôi hi vọng sẽ
khám phá những điều còn ẩn giấu trong truyện ngắn Nam Cao, đồng thời so sánh với
truyện ngắn của O’Henry để thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt.
2.2. Vấn đề nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry
2.2.1. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn của O’Henry ở nước ngoài
Các tác phẩm của O’Henry ra đời đã hơn một thế kỷ nhưng đến nay vẫn
còn nguyên giá trị. Từ đó đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các
tác phẩm của ông. Đánh từ khóa O’Henry trên Google, trong 2 giây ta có
15.600.000 kết quả. Có thể nói, O’Henry đã chinh phục hàng triệu độc giả cũng
như nhiều nhà phê bình văn học thế giới. Trong các tài liệu mà chúng tôi tìm được,
có một số bài viết và công trình đáng chú ý như: O’Henry, con người và tác phẩm
(O’Henry, the man and his work, 1949) của Eugence Hudsonlong, Bút danh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry: A biography of William
Sidney porter, 1957) của Gerald Langford....
Cuốn O’Henry, con người và tác phẩm (O’Henry,the man and his work, 1949)
của Eugene Hudsonlong là một cuốn tiểu sử về O’Henry khá đầy đủ vào thời đó.

Eugene Hudsonlong đã giới thiệu cặn kẽ về O’Henry và các sáng tác của ông. Từ
đó, Eugene Hudsonlong đưa ra một cái nhìn tổng quan về tác phẩm của O’Henry,
đồng thời cung cấp bối cảnh lịch sử giúp độc giả đọc các câu chuyện và thơ của
O’Henry dễ dàng hơn. Theo nghiên cứu của Eugence Hudsonlong, O’Henry đã từng
viết thơ nhưng ông nổi tiếng, thành công với truyện ngắn. Cuốn sách này là một bức
tranh sinh động về cuộc đời của O’Henry và bước đầu có những nhận định chính
xác về tư tưởng, nhân cách của nhà văn này.
Cuốn Bút danh O’Henry: Tiểu sử của William Sidney Porter (Alias O’Henry:
A biography of William Sidney porter, 1957) của Gerald Langford đã đi sâu tìm hiểu
sự nghiệp của nhà văn O’Henry và quá trình trưởng thành của ông. Cuốn sách tập
trung vào 2 giai đoạn trong cuộc đời của O’Henry là thời gian ông ở Texas và thời
trong tù ở New York. Cuốn sách cũng viết về những thất bại của ông khi còn trẻ, về
việc ông đối mặt với thử thách trong cuộc sống, về vấn đề O’Henry có thật sự có tội
trong vụ biển thủ Ngân hàng Austin. Qua đó, Gerald Langford cũng cung cấp thông
tin, bối cảnh xã hội thời O’Henry.
Trong cuốn Truyện của O’Henry (Story by O’Henry, 1962), nhà nghiên cứu
Mildred H.Larson đã trình bày các nghiên cứu của mình về truyện ngắn của
O’Henry. Ông đánh giá cao cách kết thúc truyện bất ngờ thường có trong truyện
ngắn của O’Henry: “...trong mạch văn lai láng ông triển khai những câu chuyện
một cách khéo léo và phong phú, khiến độc giả không thể bỏ lửng cốt truyện mà
phải đọc từ đầu đến cuối với một ngạc nhiên’’ [22, tr.76].
2.2. Tình hình nghiên cứu về truyện ngắn của O’Henry ở Việt Nam
O’Henry là nhà văn Mỹ sớm được nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt là ở miền
Nam Việt Nam (từ những năm 1940). Tuy nhiên với thời gian hạn hẹp, chúng tôi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





chỉ có thể bao quát được một số tài liệu xuất hiện trong vòng 20 năm gần đây. Chúng
tôi điểm qua một số công trình đáng chú ý như sau:
Trong cuốn Hành trình văn học Mỹ (1966), phần viết về nhà văn O’Henry,
tác giả Nguyễn Đức Đàn đã chỉ ra rằng: “Ông tìm kiếm không mệt mỏi những cái
bất ngờ và kì lại. Cốt truyện không bao giờ diễn biến một cách logic và phần cuối
bao giờ cũng có một sự kiện đột ngột” [8, tr.86].
Năm 2004, trong cuốn Tác gia văn học Mỹ thế kỷ XVIII-XX của Lê Đình Cúc,
ông đã dành một mục viết về O’Henry. Bài viết có tiêu đề “Tên cảnh sát và bản
thánh ca của văn học Mỹ”. Trong đó Lê Đình Cúc đã nhận xét: “Và còn gì của
O’Henry để lại cho thế hệ mai sau ngoài chất liệu hiện thực cuộc sống, ngoài một
chủ nghĩa nhân đạo bao la, ngoài một tấm lòng nhân hậu đối với thế giới bình dân
chính là ngòi bút châm biếm hài hước của mình” [7, tr.439].
Năm 2009, Nguyễn Hồng Dũng có bài Truyện ngắn của O’Henry đăng trên
Tạp chí Sông Hương (số 183, 2009). Nguyễn Hồng Dũng đã viết về O’Henry: “Ông
hiểu rõ tâm lí những người cùng thời, và đề tài trong truyện của ông được lấy từ
chính đời sống của họ. Ông đưa đến cho họ hai điều: tiếng cười và sự cảm động.
Những truyện ngắn của ông thường hóm hỉnh cười rất độ lượng và ẩn cuối tiếng
cười gợi lên sự vị tha, nhân ái” [tapchisonghuong.com] [23].
Ngô Vĩnh Viễn trong lời giới thiệu tập Chiếc lá cuối cùng (2014, NXB Văn
học) đã chỉ ra điểm hấp dẫn nhất trong truyện O’Henry là: “Niềm tin của ông vào
con người, vào cuộc sống, cái nhìn vui vẻ, yêu đời trước những thăng trầm của một
số con người, đặc biệt là những người nghèo khổ, bất hạnh”. Dịch giả Ngô Vĩnh
Viễn ngợi ca: “O’Henry không có cái thâm trầm sâu xa về mặt tư tưởng, không có
tầm rộng lớn về mặt khái quát, điển hình hoặc tính sắc biến trong phê phán xã hội
đương thời như 2 văn hào Nga và Pháp (Sêkhôp và Ghi Đơ Môpat xăng) nhưng tên
tuổi và tác phẩm của ông vẫn tồn tại mãi trong sự yêu thích và mến chuộng của
người đọc khắp nơi trên thế giới, vì niềm tin của ông vào con người và cuộc sống,
vì cái nhìn vui vẻ và yêu đời của ông những thăng trầm của số phận con người” [21,
tr.5].


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc cũng có nhiều công trình nghiên cứu về nhà văn
O’Henry. Trong cuốn Giáo trình văn học phương Tây (2012, NXB Đại học Sư
phạm), ông đã nhận định về O’Henry: “Đứng về phía thân phận cơ hàn, O’Henry tỏ
rõ tấm lòng yêu thương những người cùng cảnh ngộ. Tuy nhiên không phải vì thế
mà ông không chỉ ra những hạn chế những yếu kém trong tư duy và hành động của
những người thuộc lớp dưới này. Nhưng do phải sáng tác nhanh để đáp ứng nhu cầu
của độc giả, nên ở O’Henry ta thấy nhiều môtip truyện lặp lại điều này cũng sẽ gây
nhàm chán” [3, tr.163].
Qua việc tìm hiểu các công trình trên, chúng tôi rút ta kết luận như sau: Ở nước
ngoài cũng như ở Việt Nam có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp
cũng như truyện ngắn của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry. Các công trình kể trên
đã có những phân tích kĩ lưỡng, những khái quá khách quan, đánh giá đúng thành công
và đóng góp của hai nhà văn. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình chuyên
biệt nào so sánh hai nhà văn này. Đây chính là vấn đề chúng tôi quan tâm và triển khai
đề tài. Những công trình này sẽ là tài liệu quý báu để phục vụ cho quá trình nghiên cứu
thực hiện đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này chúng tôi hướng đến khám phá và lý giải về truyện ngắn của
Nam Cao và O’Henry trên trên cơ sở so sánh; khẳng định thêm những đóng góp của
Nam Cao và O’Henry ở thể loại truyện ngắn trong hai nền văn học Việt Nam và
Mỹ; từ đó, khẳng định vị trí của truyện ngắn Nam Cao trong dòng chảy của văn học
thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định ba nhiệm vụ chính của

đề tài như sau:
- Khảo cứu tình hình lịch sử xã hội, văn hóa Việt Nam, Mỹ nửa sau thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX; nghiên cứu sự tác động của yếu tố đó đến truyện ngắn của hai
nhà văn Nam Cao và O’Henry.
- Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện
nội dung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




- Khảo cứu, so sánh truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry ở phương diện
nghệ thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry
trong cái nhìn đối sánh là nội dung, nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và
O’Henry trong sự so sánh tương đồng và khác biệt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài Truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối
sánh chúng tôi sẽ tập trung khảo cứu vào các tập truyện ngắn có giá trị và được giới
nghiên cứu đánh giá cao của Nam Cao và O’Henry:
Với Nam Cao chúng tôi tập trung khảo sát các truyện ngắn ở 2 tập:
- Nam Cao - truyện ngắn chọn lọc của Nhà xuất bản Văn học (2012).
- Tuyển tập Nam Cao (tập 1,tập 2) Nhà xuất bản Văn học (1999), do Hà Minh
Đức biên soạn.
Còn O’Henry với khối lượng tác phẩm đồ sộ nhưng chúng tôi tập trung vào
nghiên cứu các truyện ngắn trong 2 tập truyện:
- O’Henry Truyện ngắn chọn lọc (NXB văn học, 2009) do Mạnh Chương dịch,
gồm 35 truyện ngắn.

- Chiếc lá cuối cùng (Tập truyện, NXB Văn hóa, 2017) do Ngô Vĩnh Viễn,
Mạnh Chương, Trần Thanh Phương, Nguyễn Việt Long và Ngọc Khánh dịch; gồm
29 truyện ngắn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề đặt ra, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp văn học so sánh: Với tư cách là phương pháp luận, văn học
so sánh giúp chúng tôi nghiên cứu, nhìn nhận tác phẩm trong cái nhìn tương quan
để tìm ra điểm tương đồng và khác biệt từ đó đánh giá tác phẩm một cách chính
xác, khách quan.
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Phương pháp này giúp người nghiên
cứu giải quyết các yêu cầu của đề tài theo hướng đã được xác định bởi đối tượng
nghiên cứu: truyện ngắn Nam Cao và O’Henry.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




- Phương pháp nghiên cứu xã hội học: Phương pháp này giúp người nghiên
cứu xem xét vấn đề trong sự thống nhất các khía cạnh ở “ngoài” và “trong” văn bản
tác phẩm một cách khoa học, lịch sử cụ thể. Nghiên cứu văn bản tác phẩm, hình
thức cũng như nội dung, trong mối quan hệ tương tác với các vấn đề lịch sử xã hội
giúp chúng tôi đánh giá toàn diện hơn giá trị thẩm mĩ trong truyện ngắn của Nam
Cao và O’Henry.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các thao tác cơ bản trong nghiên cứu: khảo
sát, thống kê - phân loại, phân tích - tổng hợp, so sánh,…
6. Dự kiến những đóng góp của luận văn
Đây là luận văn đầu tiên đề cập đến việc so sánh truyện ngắn của hai nhà văn
Nam Cao và O’Henry để đánh giá, khẳng định nhà văn Nam Cao trong dòng chảy
của văn học thế giới. Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
học và dạy học, nghiên cứu các tác phẩm của hai nhà văn Nam Cao và O’Henry nói

riêng, học và dạy văn học hiện đại nói chung.
7. Cấu trúc luận văn
Luận văn của chúng tôi ngoài phần Mở đầu và Kết luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cuộc đời, quan niệm sáng tác, sự nghiệp của Nam Cao và O’Henry.
Chương 2: Nội dung truyện ngắn Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn đối sánh.
Chương 3: Nghệ thuật truyện ngắn của Nam Cao và O’Henry trong cái nhìn
đối sánh.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Chương 1
CUỘC ĐỜI, QUAN NIỆM SÁNG TÁC, SỰ NGHIỆP
CỦA NAM CAO VÀ O’HENRY
1.1. Thời đại và cuộc đời hai nhà văn Nam Cao, O’Henry
1.1.1. Thời đại và cuộc đời nhà văn Nam Cao
Lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu và nửa đầu thế kỉ XX là thời kì nhân
dân Việt Nam chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Năm 1958, thực dân Pháp nổ
súng xâm lược nước ta. Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, nhân dân ta đã tiến
hành đấu tranh quyết liệt chống lại quân thù. Mặc dù vậy, giai cấp phong kiến Việt
Nam đã dần thỏa hiệp, đầu hàng thực dân Pháp nên các cuộc đấu tranh nổ ra của
nhân dân đều bị thất bại.
Với việc kí kết hiệp ước Harmand (1883-1884), triều đình nhà Nguyễn chính
thức công nhận sự đô hộ của Pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Sang đầu thế kỷ XX khi
bình định thành công nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng bắt tay ngay vào công
cuộc khai thác thuộc địa.
Về chính trị: Thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị trực tiếp ở Đông
Dương dùng bộ máy quân sự, cảnh sát, nhà tù thủ tiêu mọi quyền dân chủ, đàn áp

khủng bố mọi sự chống đối, dùng chính sách “chia để trị” chia nước ta thành ba
kỳ với ba chế độ thống trị khác nhau. Chúng duy trì triều đình phong kiến nhà
Nguyễn và giai cấp địa chủ làm công cụ tay sai để áp bức về chính trị và bóc lột
về kinh tế. Nhân dân ta mất nước, trở thành nô lệ, bị đàn áp bóc lột, cuộc sống vô
cùng cực khổ.
Về kinh tế: Thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa Đông Dương lần
thứ nhất (1897-1918), khai thác thuộc địa lần hai (1919-1929), trong đó lấy Việt
Nam làm trọng điểm. Tư bản Pháp bỏ vồn nhiều nhất vào nông nghiệp (lập đồn cao
su, cà phê, chè…) và ngành khai mỏ (chủ yếu là than, sắt, thiếc, vàng…) để thu lợi
nhuận nhiều và nhanh. Pháp xây dựng ngành giao thông vận tải đường bộ, đường
sắt, phát triển cơ sở công nghiệp chế biến, độc quyền ngoại thương, Ngân hàng
Đông Dương của Pháp độc quyền tài chính đặt ra hàng trăm thứ thuế tàn ác nhất là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




thuế thân, thi hành rộng rãi chính sách cho vay nặng lãi. Kết quả nền kinh tế nước
ta có sự phát triển mức độ nào đó theo hướng tư bản chủ nghĩa nhưng là nền kinh
tế thuộc địa, phụ thuộc vào Pháp.
Cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, văn hóa nước ta trong giai đoạn
này cũng có những biến đổi sâu sắc. Đó là xung đột giữa cái “cũ” và cái “mới”.
Pháp thực hiện chính sách nô dịch văn hóa, xóa bỏ hệ thống giáo dục phong kiến
thay bằng chế độ giáo dục thực dân hạn chế. Chúng mở nhà tù, trại giam nhiều hơn
trường học, khuyến khích các hoạt động mê tín, các tệ nạn cờ bạc, rượu chè, hạn
chế in sách báo, gây tâm lý tự ti dân tộc. Kết quả hơn 90% dân ta bị mù chữ, bị bưng
bít mọi thông tin tiến bộ từ bên ngoài. Xã hội Việt Nam có những thay đổi rõ nét từ
xã hội phong kiến thành xã hội nửa phong kiến. Lúc này trong xã hội Việt Nam nổi
lên 2 mẫu thuẫn cơ bản đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp còn gọi là mâu thuẫn dân tộc. Mẫu thuẫn thứ hai là mối mâu thuẫn của

nhân dân Việt Nam, mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến còn gọi là mâu
thuẫn giai cấp. Hai mâu thuẫn này tồn tại song song và đặt ra yêu cầu phải giải quyết
lúc bấy giờ.
Giữa một thời kì xã hội nửa thuộc địa, nửa phong kiến tối tăm và ngột ngạt
ấy, Nam Cao đã ra đời. Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ngày 29/10/1917 tại
làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân) tỉnh Hà Nam.
Làng Đại Hoàng nơi ông sống thời bấy giờ giống như một bức tranh thu nhỏ của xã
hội Việt Nam lúc bấy giờ. Đó là một ngôi làng xa phủ, xa huyện, chính vì vậy quan
lại, cường hào trong làng có cơ hội hoành hành. Tại ngôi làng của ông, thường xảy
ra các vụ kiện tụng nhau giữa bọn quyền thế, giàu có vì vậy không ít người dân phải
li hương. Những sự việc có thực đã diễn ra ở vùng quê tối tăm này đều được Nam
Cao ghi lại trong những trang sách của mình với dấu ấn nặng nề…
Ông sống trọn nửa đầu thế kỉ XX. Cuộc đời ông gắn với một giai đoạn lịch
sử đau thương của dân tộc. Những biến động xã hội, văn hóa và thân phận con người
trong thời kỳ này được ông cảm nhận, phản ánh hết sức sinh động trong toàn bộ
sáng tác của mình.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Nam Cao sinh trưởng trong một gia đình nghèo, đời sống gặp rất nhiều khó
khăn. Trong gia đình, chỉ có Nam Cao được đi học. Cái đói, cái nghèo, bệnh tật đeo
đuổi và giày vò ông ngay từ khi còn nhỏ. Sau khi thi trượt Thành chung, Nam Cao
rời bỏ làng quê nghèo khổ vào Sài Gòn kiếm sống theo một người cậu làm may.
Rời quê, Nam Cao ấp ủ nhiều dự định, nhiều mơ ước. Ông mơ ước được sang Pháp
để mở rộng tầm biểu biết, nhưng cuối cùng bệnh tật lại trả ông về với quê hương.
Về Sài Gòn, Nam Cao tiếp tục ôn lại và thi đậu Thành chung. Ông định xin làm
công chức nhưng rồi bệnh tật nên không được chấp nhận. Nam Cao lên Hà Nội dạy

học ở một trường tư thục do người nhà mở. Cuộc sống của một anh giáo khổ trường
tư đã giúp Nam Cao hiểu sâu sắc hơn về thân phận của những người trí thức tiểu tư
sản nghèo trong xã hội cũ.
Khi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, ngôi trường bị đóng cửa. Nam
Cao phải sống chật vật bằng nghề viết văn, dạy thuê và cuối cùng không tồn tại ở
chốn thị thành này được Nam Cao phải về quê “ăn bám” vợ.
Năm 1943 Nam Cao ra nhập nhóm Văn hóa cứu quốc cùng một số nhà văn khác
như: Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Nguyên Hồng… Khi cơ sở văn
hoá cứu quốc và phong trào cách mạng ở Hà Nội bị khủng bố mạnh, Nam Cao trở về
quê và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương.
Năm 1945, Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân sau đó được
làm chủ tịch ủy ban khởi nghĩa xã. Ít lâu sau Nam Cao được điều lên Hà Nội rồi
công tác ở Hội Văn hóa cứu quốc.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Nam Cao theo đoàn quân tiến vào vùng Nam
Trung Bộ. Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến đồng
thời làm cán bộ thông tin tuyên truyền: viết tin, viết tài liệu, viết truyền đơn… Thời
gian này, Nam Cao vinh dự ra nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (1948). Vào tháng
11 năm 1951, khi tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở vùng địch hậu Liên
khu III. Nam Cao có ý định nhân dịp này ghé về quê mình, thu thập thêm tài liệu để
viết về một tác phẩm về quê hương trong cách mạng. Nhưng không may Nam Cao

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




đã ngã xuống gần bốt Hoàng Đan (Ninh Bình) khi tài năng đương độ chín và biết
bao dự định sáng tạo vẫn còn dang dở.
Cuộc đời của nhà văn Nam Cao mang nhiều nét tiêu biểu cho tầng lớp trí
thức tiểu tư sản nghèo trong xã hội cũ. Có hoài bão, có ước mơ, có lý tưởng nhưng

đều không thực hiện được. Cuộc sống của ông phải vật lộn với miếng cơm, manh
áo, trải qua nhiều lần thất nghiệp, ngược xuôi trong Nam, ngoài Bắc, nhưng cuộc
đời của Nam Cao đã sớm được soi sáng nhờ ánh sáng của Đảng và Cách mạng.
Chính điều này đã giúp ông thoát khỏi những bế tắc, và mang đến cuộc sống có ý
nghĩa cho ông.
Nói tới Nam Cao, chúng ta nhớ ngay đến một con người có tấm lòng sâu sắc,
có ý thức gắn bó thủy chung với nhân dân, với những người nghèo khổ, trước hết
đó là những người thân trong gia đình. Bề ngoài, Nam Cao có vẻ lạnh lùng ít nói,
nhưng đời sống nội tâm vô cùng phong phú. Ông luôn nghiêm khắc đấu tranh với
bản thân để thoát khỏi lối sống tầm thường nhỏ hẹp, vươn tới một cuộc sống cao
đẹp.
Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng đôn hậu, hiền hòa,
chan chứa tình thương, đặc biệt có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những
người nông dân nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt trong xã hội cũ với xã hội đương
thời. Ông cho rằng: Không có tình thương thì không xứng đáng gọi là người. Ông
không nỡ ăn bát cơm ngon dành cho riêng mình, Nam Cao muốn chia đều cho cả
nhà, vì vậy viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn đầy niềm xót
thương, cảm thông. Ông luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống vì thế dù
những chuyện rất thường ngày nhưng Nam Cao lại nêu lên được vấn đề xã hội lớn
lao, nhiều bài học triết lý sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao mang nặng tâm sự u uất, bi phẫn
của một trí thức. Họ là những người có ý thức về sự sống mà không được sống cho
ra người. Nam Cao là một nhà văn chân chính, có tấm lòng nhân hậu, chan chứa
yêu thương, có đời sống tinh thần phong phú. Những tác phẩm ông sáng tác đều
chứa tinh thần nhân đạo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





1.1.2. Thời đại và cuộc đời nhà văn O’Henry
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX thời kỳ nước Mỹ vừa trải qua nội chiến, tái
thiết đất nước, kinh tế, xã hội Mỹ đã bước vào thời kỳ khá phát triển và ổn định.
Tuy nhiên cũng chính từ đây đã nảy sinh ra những vấn đề xã hội của việc đô thị hóa
và công nghiệp hóa. Sự phân cách giàu - nghèo trở nên trầm trọng. Số triệu phú Mỹ
ngày càng nhiều cùng với tình trạng khốn khó của người lao động tăng nhanh. Sự
thành đạt, giàu sang song hành với đói khổ nghèo nàn trong xã hội. Đời sống xã hội
Mỹ vì thế cực kỳ phức tạp với bao điều tương phản: phồn vinh và cùng khổ, tự do
dân chủ và bất công bạo ngược.
Tình hình tư tưởng xã hội ở Mỹ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX khá phức
tạp. Có những học thuyết du nhập từ Châu Âu, thích ứng với điều kiện lịch sử xã
hội Mỹ, đã tồn tại và phát huy ảnh hưởng trong đời sống, chính trị, văn hóa Mỹ. Là
đất nước của tự do tôn giáo nên Mỹ có nhiều loại hình tín ngưỡng, giáo phái và nhà
thờ. Khó có thể mô tả lối sống hay đặc tính Mỹ điển hình. Người Mỹ được người
nước ngoài nhận thức qua cách cử xử ít nhiều sự mâu thuẫn: ít đặt nặng tầm quan
trọng của danh dự và phẩm giá; khiêm tốn trước lời khen và thích chế nhạo lỗi lầm
yếu kém của bản thân; tự hào kín đáo về những gì mình đạt được và phê phán những
sự việc chưa hoàn thiện…
Nhìn chung, đặc điểm lịch sử xã hội, truyền thống về quyền bình đẳng, tự
do, ảnh hưởng của các hệ thống tư tưởng và sự phát triển nhanh và mạnh của xã hội
công nghiệp - tiêu thụ cuối thế kỷ XIX đầu XX, đã làm nảy sinh trong tâm lý người
Mỹ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa lạc quan. O’Henry là một
trong những “đứa con” sinh ra trong thời đại đó.
O’Henry tên thật William Sydney Porter. Ông có nhiều bút danh như SH
Peters, Janmes L.Bliss, TB Dowd và Howard Clark. O’Henry sinh ngày 11 tháng 9
năm 1862 tại Greensboro, North Carlina. Cuộc đời ông có khá nhiều biến cố.
O’Henry sinh ra và lớn lên trong một gia đình không giàu có nhưng được ngưỡng
mộ vì Porter là dòng họ tri thức, có nhiều đóng góp nhân đạo cho xã hội. Cha
O’Henry là bác sỹ Algernon Sidney (1825-1888) nổi tiếng ở quận Guifox... Mẹ của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN





O’Henry là bà Mary Jane Virginia Swaim Porter (1833-1865), con gái của chủ bút
tờ báo Ái Quốc ở Grinsboro.
Khi lên 3 tuổi thì cơn khủng hoảng đen tối đã đổ xuống gia đình ông. Chiến
tranh đã khiến ông và người thân chịu nhiều mất mát. Mẹ ông mất sau khi sinh em
của ông được sáu tháng. Không lâu sau, đứa bé ấy cũng qua đời. Tinh thần của cha
ông suy sụp. Vài năm sau, cha ông nghiện rượu và qua đời. Đứa trẻ tội nghiệp
William lại phải chịu thêm mất mát về tình yêu thương và giáo dục của cha mẹ.
Khi còn nhỏ, Porter luôn thích đọc sách, ông đọc mọi thứ từ tác phẩm kinh điển
đến tiểu thuyết rẻ tiền hoặc bất cứ cuốn sách nào rơi vào tay mình. Chính vì vậy, ông
không bao giờ cảm thấy cô đơn kể cả khi một mình sống trong trang trại bao la rộng
lớn. Porter tốt nghiệp từ trường tiểu học của người cô ruột Evelina Maria Porter vào
năm 1876. Sau đó, ông theo học tại trường Trung học Lindsey Street.
Năm 1879, ông bắt đầu làm việc tại nhà thuốc của người chú ở Greensboro.
19 tuổi, Porter đã được cấp phép làm dược sĩ. Tại hiệu thuốc, ông cũng thể hiện tài
năng nghệ thuật thiên bẩm của mình bằng cách vẽ phác họa những người đến cửa
hàng và ông được mọi người ngưỡng mộ bởi kỹ năng vẽ của mình.
Năm 1882, O’Henry phát hiện mình có triệu chứng bị lao. Vào tháng 3 năm
đó ông cùng bác sĩ Jame K.Hall đến Texas, hi vọng rằng không khí đồng nội sẽ giúp
giảm bớt căn bệnh ngày càng trầm trọng của ông. Sau khi hồi phục, vào khoảng
năm 1884, ông chuyển đến Austin. Tại đó ông làm nhiều công việc khác nhau: từ
dược sĩ, đến phóng viên, ngân hàng, nhân viên địa chính, vẽ kỹ thuật và kiến trúc,
đầu bếp nhà hàng, nhân viên công ty địa ốc, nhân viên xưởng in, nhà báo… Ông
cũng bắt đầu viết văn và có những truyện ngắn đầu tay, các mẩu truyện cười đăng
trên các nhật báo, tuần báo miền Tây Nam. Ngoài ra O’Henry là một ca sĩ, nhạc sĩ
giỏi và rất thích đóng phim truyền hình.
Chuyện tình cảm riêng tư của O’Henry cũng có nhiều thăng trầm. Ông yêu

Athol Estes, một cô gái chỉ 17 tuổi, con một gia đình giàu có. Vào năm 1887,
O’Henry kết hôn với Athol. Athol đã luôn khuyến khích, ủng hộ chồng theo đuổi
sự nghiệp viết văn. Năm 1888, Athol sinh một con trai nhưng đứa trẻ đã chết ngay
sau đó vài giờ. Năm kế tiếp bà sinh cô con gái Margaret Worth Porter.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Người bạn cũ của O’Henry là Richard Hall đã giới thiệu ông một công việc.
Ông bắt đầu làm người soạn thảo, vẽ bản đồ khảo sát và ghi chép hiện trường tại
văn phòng Địa chính Texas (GLO) vào năm 1887 với mức lương 100 đôla một
tháng. Tiền lương đủ để nuôi sống gia đình nhưng ông vẫn tiếp tục viết bài cho các
tạp chí. Khi người bạn của ông thua cuộc bầu cử, Porter phải thôi việc vào đầu năm
1891. Cùng năm đó, Porter đã bắt đầu làm việc tại Ngân hàng nhưng do bất cẩn
trong việc giữ sổ sách hoặc có thể đã thật sự tham ô quỹ mà ông bị buộc tội tham ô
và chấm dứt công việc của mình.
O’Henrey yêu thích văn học cổ điển. Trong khi theo đuổi nhiều kế hoạch của
mình, O’Henry đã bắt đầu viết văn. Ông làm việc ở tuần báo của chính mình mang
tên The Rolling Stone nhưng nó đã thất bại vì không đủ chi phí để hoạt động. Tuy
nhiên, bài viết và bản vẽ của ông đã thu hút sự chú ý của biên tập viên tại tờ báo
Houston Post.
Trong thời gian sống ở Houston, ông bị bắt vì tội tham ô tại ngân hàng ở
Austin vì kểm toán viên liên bang kiểm tra ngân hàng đã tìm thấy sự thiếu hụt quỹ.
Cha vợ của O’Henry bảo lãnh ông ra khỏi nhà tù. Ông đã bị xét xử vào ngày 7 tháng
7 năm 1896. Một ngày trước đó, ông bất ngờ chạy trốn đến New Orleans và
Honduras (Trung Mỹ). Ở Honduras, ông đã viết tác phẩm Lũ cắp vặt và những ông
hoàng (Cabbages anh Kings), tác phẩm đầu tay chính thức của ông.
Lúc đó, Athol bị ốm nặng. Biết được tin vợ mình sắp qua đời, Porter quay
trở lại Austin và tháng 2 năm 1897 và tự thú trước tòa. Trong khi chờ đợi xét xử, bố

vợ của Porter một lần nữa gửi tiền bảo lãnh để ông có thể ở lại với Athol và con gái
Margaret. Porter bị buộc tội tham ô vào tháng 2 năm 1898 và bị kết án năm năm tù
giam tại Ohio Penitentiary. Vì O’Henry là một dược sĩ được cấp phép, ông đã được
đưa đến làm việc tại bênh viện của nhà tù.
Ở trong tù, ông đã bắt đầu viết truyện. Sau khi bị giam ba năm, O’Henry
được thả vào ngày 24 tháng 7 năm 1901 vì cải tạo tốt. O’Henry đoàn tụ với cô con
gái 11 tuổi Margaret. Sau khi ra tù, ông được mời ký hợp đồng với một tòa soạn và
ngày lập tức trở thành nhà văn được đón nhận nhanh nhất. Năm 1902, ông di chuyển
đến New York. Ở đó, ông đã viết truyện ngắn cho tuần báo New York World Sunday
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Magazine. Sau đó, O’Henry nghiện rượu nặng và đến 1908, sức khỏe của ông đã
xấu vì thế không thể viết tiếp được. Người vợ thứ hai đã bỏ ông. Ông qua đời vào
năm 1910 do xơ gan biến chứng của bênh tiểu đường cùng sự cô đơn, nghèo túng.
O’Henry là một nhà văn viết truyện tài năng và đã để lại cho chúng ta một di
sản phong phú là những câu chuyện tuyệt vời. Ông đã sống một cuộc đời rất phong
phú, phải nếm trải không ít những mất mát, đắng cay, tủi nhục: tuổi thơ không được
yêu thương, chăm sóc; thời thanh niên lang bạt, kiếm sống vất vả bằng nhiều nghề
khác nhau; khi trưởng thành phải chịu nỗi đau mất người thân và từng chịu cảnh tù
tội. Các biến cố trong cuộc đời đã đưa O’Henry ông đến với con đường văn chương
và chi phối đến những vấn đề ông phản ánh trong tác phẩm của mình. O’Henry là
một trong những người lao động khốn khổ của thời đại đó. Ông đã viết những trang
truyện ngắn về đời sống của những người thuộc tầng lớp mình với sự am hiểu sâu
sắc cùng tấm lòng nhân ái bao la.
O’Henry không phải là một nhà tư tưởng, cũng không chịu ảnh hưởng sâu
đậm của một triết thuyết cụ thể nào. Theo cách của riêng mình, O’Henry cũng như
nhiều tác giả Mỹ khác đã thể hiện tư tưởng trong tác phẩm. Ông bênh vực những

người nghèo khổ và đồng thời phê phán bất công xã hội, thủ đoạn bóc lột tàn bạo
của tầng lớp tư sản Mỹ. Nét đặc biệt là sự khôi hài với những biến tấu đa dạng:
hài hước vui nhộn, giễu cợt sâu cay, những trò lừa tinh tế…
1.1.3. Những điểm tương đồng và khác biệt về thời đại, cuộc đời của hai nhà văn
Nam Cao và O’Henry không chỉ sinh trưởng ở hai quốc gia với hai nền văn
hóa khác nhau mà còn có sự cách biệt thời đại. O’Henry sống chủ yếu ở nửa sau
của thế kỷ XIX, Nam Cao sống ở nửa đầu của thế kỷ XX. Xã hội Việt Nam nửa đầu
thế kỉ XX vẫn chưa phát triển đáng kể, nếu không muốn nói là vẫn rất lạc hậu. Trong
khi đó, nửa sau thế kỉ XIX, kinh tế xã hội Mỹ đã phát triển mạnh, đi trước kinh tế
xã hội Việt Nam rất nhiều. Điểm khác biệt nổi bật và xuyên suốt lịch sử Việt Nam
và Mỹ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX là sự khác biệt về thể chế. Với sự chi phối của
nhiều yếu tố khác nhau nên cùng một thời điểm lịch sử hai nước là hai con đường,
hai chế độ chính trị khác nhau…

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




Ở Việt Nam lúc này nhân dân đang phải chịu sự áp bức bóc lột tàn bạo của
thực dân Pháp. Vì thế trong những năm đầu thế kỉ XX, nước ta chính thức trở thành
nước nửa thuộc địa nửa phong kiến - một chế độ mà ở đó còn tồn tại đan xen cả
hình thái xã hội tư bản chủ nghĩa, ở đó có sự phát triển kinh tế tư bản, có giai cấp
tư sản, công nhân xã hội phong kiến, địa chủ vẫn còn nắm quyền (mặc dù đó chỉ là
hình thức).
Còn ở Mỹ, trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX nền kinh tế nước
Mĩ vươn lên đứng hàng đầu thế giới, trở thành nước tư bản chủ nghĩa Mỹ chủ trương
đi xâm chiếm và mở rộng lãnh thổ ở các nước thuộc địa.
Thời đại của hai nhà văn Nam Cao và O’ Henry tuy có khác nhau về thời
gian, có sự khác biệt về thể chế nhưng giữa Việt Nam và Mĩ vẫn có điểm tương

đồng nhất định. Điểm tương đồng dễ nhận thấy nhất là cuộc sống của tầng lớp nhân
dân lao động.
Mặc dù Mỹ đã trở thành nước tư bản phát triển từ thế kỉ XIX nhưng điều đó
không làm cho đời sống của nhân dân lao động nước Mỹ trở nên tốt đẹp hơn. Việc
đô thị hóa và công nghiệp hóa đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Sự phân cách giàu
nghèo trở nên trầm trọng. Số triệu phú Mỹ ngày càng nhiều cùng với tình trạng
khốn khó của người lao động tăng nhanh. Sự thành đạt giàu sang song hành với
đói khổ nghèo nàn trong xã hội. Thành phố New York cuối thế kỷ XIX đã trở
thành phố lớn, hiện đại nhưng dưới vẻ hào nhoáng vẫn có những khu phố nghèo,
đầy rẫy những người thất nghiệp, vô gia cư. Bản thân nhà văn O’Henry cũng từng
trải qua những năm tháng kiếm sống vất vả như hàng triệu người lao động nghèo
khác.
Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, dưới chế độ thực dân nửa phong
kiến, từ thành thị đến nông thôn, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ, bấp bênh.
Đặc biệt là tầng lớp lao động thị dân nghèo và nông dân. Sự lạc hậu và đói nghèo
là điểm nổi bật nhất trong đời sống của người Việt Nam trước Cách mạng tháng
Tám.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN




×