Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

CHẾ ĐỊNH ÁN TREO THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIÊT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI GIAN QUA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.92 KB, 58 trang )

ĐẠI
NGUYÊN
ĐẠIHỌC
HỌC THÁI
THÁI NGUYÊN

TRƯỜNGĐẠI
ĐẠIHỌC
HỌC KHOA
HỌC
TRƯỜNG
KHOA
HỌC

BÁO CÁO TỔNG KẾT

ĐỀ TÀI NGHIÊN BÁO
CỨUCÁO
KHOA
HỌC
TỔNG
KẾT CỦA SINH VIÊN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

TÊN ĐỀ TÀI
CHẾ ĐỊNH ÁN TREO THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIÊT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
TỈNH THÁI NGUYÊN THỜI GIAN QUA

Sinh viên thực hiện:


Đặng Thị Ngọc
Hoàng Văn Tấn

Lớp, khoa:

LuậtA K11-Khoa luật và quản lí xã hội

Ngành học:

Luật

Người hướng dẫn:

Th.S.Nguyễn Thị Thu Phương


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU............................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................................1
2. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu................................................................................1
3. Phạm vi nghiên cứu:..................................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................................2
4.1 Phương pháp luận.................................................................................................2
4.2. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................2
5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu....................................................................................2
6. Kết cấu của đề tài.......................................................................................................3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN TREO....................................................4
1.1 Khái niệm, ý nghĩa của án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam............................4
1.1.1 Khái niệm..........................................................................................................4
1.1.2. Ý nghĩa của án treo...........................................................................................5

1.2 Lịch sử hình thành và sự phát triển của chế định án treo trong luật hình sự Việt
Nam............................................................................................................................... 6
1.2.1 Chế định án treo từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi có BLHS năm
1985............................................................................................................................ 7
1.2.2. Chế định án treo trong BLHS năm 1985...........................................................8
1.2.3 Chế định án treo trong BLHS năm 1999............................................................9
1.2.4. Chế định án treo trong BLHS sửa đổi năm 2015............................................10
1.3 Quy định của Luật hình sự một số nước trên thế giới về án treo............................11
1.4 Chế định án treo trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999.................................14
1.4.1. Quy định của Bộ luật hình sự về án treo.........................................................14
1.4.2 Bất cập trong quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về án treo....................25
CHƯƠNG II................................................................................................................29
THỰC TIỄN ÁP DỤNG ÁN TREO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN.........29


2.1. Khái quát tình hình tội phạm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên................................29
2.2. Những kết quả đạt được trong việc áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên........................................................................................................................ 30
2.3. Những hạn chế trong quá trình áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2011 – 2015:........................................................................................................35
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc.......................................................39
2.4.1. Nguyên nhân từ phía quy định pháp luật........................................................39
2.4.2. Nguyên nhân từ phía người áp dụng...............................................................40
2.4.3. Nguyên nhân từ phía người phạm tội.............................................................42
CHƯƠNG III............................................................................................................... 43
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH ÁN TREO VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA VIỆC ÁP DUNG ÁN TREO TẠI TỈNH THÁI NGUYÊN.................................43
3.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế định án treo...............................................43
3.1.1. Về mức hình phạt tù:......................................................................................43
3.1.2. Về nhân thân người phạm tội:.........................................................................43

3.1.3. Vấn đề Tòa án xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù:..............44
3.1.4. Về quy định việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo:............................44
3.1.5. Về công tác xét giảm thời gian thử thách cho người bị án treo:......................44
3.1.6. Vấn đề giám sát, giáo dục người được hưởng án treo.....................................45
3.2. Các biện pháp khác...............................................................................................45
3.2.1. Tăng cường năng lực, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng:.........45
3.2.2. Tăng cường công tác hướng dẫn, phổ biến pháp luật về án treo.....................47
3.3.3. Tăng cường công tác giám sát, giáo dục người được hưởng án treo...............48
KẾT LUẬN.................................................................................................................49
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................51


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.2.1: Bảng thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên về số bị cáo
đã đưa ra xét xử, số bị cáo có hình phạt tù từ ba năm trở xuống và số bị cáo được
hưởng án treo từ năm 2011 – 2015......................................................................29
Bảng 2.2.2: Số bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai
đoạn 2011 - 2015.................................................................................................31


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
BLHS
HĐTP
HĐXX
BLHS
LHSVN
TAND
TANDTC
TTGN

TTTN
UBND
HTND

: Bộ luật hình sự
: Hội đồng thẩm phán
: Hội đồng xét xử
: Bộ luật hình sự
: Luật hình sự Việt Nam
: Tòa án nhân dân
: Tòa án nhân dân tối cao
: Tình tiết giảm nhẹ
: Tình tiết tăng nặng
: Ủy ban nhân dân
: Hội thẩm nhân dân


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thái Nguyên thời gian qua.
- SV thực hiện: Đặng Thị Ngọc
Mã số SV: DTZ 1353801010032
Hoàng Văn Tấn
Mã số SV: DTZ 1353801010012
- Lớp: Luật k11 A
Khoa: Luật và quản lý xã hội
Năm thứ:3
Số năm đào tạo: 4 năm

- Người hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị Thu Phương.
2. Mục tiêu đề tài:
- Đề tài tập trung nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống chế định án treo trong
Bộ luật hình sự Việt Nam.
- Phân tích, đánh giá số liệu thống kê việc áp dụng án treo cấp xét xử sơ thẩm trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên từ năm 2011 đến năm 2015. Xác định những kết quả, hạn chế
trong việc áp dụng chế định này, từ đó có những kiến nghị hoàn thiên chế định án treo
trong BLHS và việc áp dụng trên thực tiễn tại Thái Nguyên được hiệu quả hơn.
3. Tính mới và sáng tạo:
- Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu việc áp dụng chế định án treo trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên thời gian qua dưới hình thức một đề tài khoa học cấp trường . Đề tài góp phần
hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trên cả
nước nói chung và ở tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
4. Kết quả nghiên cứu:
- Đề tài đưa ra được khái niệm, bản chất pháp lý, ý nghĩa của án treo;
- Lịch sử phát triển của chế định án treo qua các giai đoạn;
- Nội dung chế định án treo theo Bộ luật hình sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện;
- Kết quả, hạn chế của việc áp dụng án treo tại tỉnh Thái Nguyên; những nguyên nhân
và kiên nghị hoàn thiện.
5. Đóng góp về mặt giáo dục và đào tạo, kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài:
- Đề tài góp phần hoàn thiện các quy định về án treo và là cơ sở cho việc nhận thức
đúng đắn chế định này trên thực tế.
-Là công trình khoa học tham khảo cho các bạn sinh viên, học viên trong chuyên
ngành Luật; các cán bộ làm công tác pháp luật, cụ thể trực tiếp là cán cơ quan tiến
hành tố tụng tại Thái Nguyên trong việc áp dụng và thi hành.
6. Công bố khoa học của SV từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ tên tạp chí
nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
Ngày


tháng

năm


SV chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
(kí, họ và tên)
Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của SV thực hiện đề
tài (phần này do người hướng dẫn ghi):

Ngày

Xác nhận của Trường
(kí tên và đóng dấu)

tháng

năm

Người hướng dẫn
(kí, họ và tên)


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm luôn là một trong những nhiệm vụ
trọng yếu của mỗi quôc gia. Ở nước ta Luật hình sự được coi là một trong những công
cụ sắc bén, hữu hiệu nhất để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Ngay từ khi có
Bộ luật hình sự đầu tiên năm 1985 , Nhà nước ta đã xác định cho được mục tiêu quan

trọng này.
Trên thực tế, việc truy cứu trách nhiệm hình sự, kết tội, xử phạt người phạm tội
và buộc họ phải chấp hành một phần hoặc toàn bộ hình phạt không phải luôn luôn là
biện pháp duy nhất để thực hiện nhiệm vụ của luật hình sự. Ngược lại, trong một số
trường hợp nhất định mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội có thể đạt được kết
quả tốt hơn thông qua biện pháp tác động khác không phải là hình phạt. Án treo là một
trong những chế định quan trọng của luật hình sự thể hiện rõ nét tính nhân đạo này,
đây là chế định pháp lí hình sự ra đời từ rất sớm, xuất hiện cùng với sự ra đời và phát
triển của luật hình sự Việt Nam và nó thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự, có tác
dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại công đồng với sự giúp
đỡ tích cực của xã hội.
Chế định án treo là biểu hiện cụ thể của nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan
hồng. Bên cạnh mặt ưu điểm của nó thì thực tiễn áp dụng chế định này đã bộc lộ
những điểm hạn chế nhất định về mặt lập pháp cũng như cách vận dụng. Điều này làm
giảm vai trò, ý nghĩa đích thực của án treo. Nguyên nhân xuất phát từ phía quy định
của pháp luật chưa rõ ràng, các văn bản hướng dẫn còn chưa thống nhất gây ra nhiều
cách hiểu và áp dụng khác nhau dẫn đến nhiều bản án treo không đúng pháp luật. Vì
vậy nhóm nghiên cứu lựa chọn đề tài: “ Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thái
Nguyên thời gian qua” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình.
2. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Về mặt lí luận: Nghiên cứu khái niệm, bản chất pháp lí, ý nghĩa của chế định án
treo và lịch sử phát triển của chế định này quy định trong bộ luật hình sự Việt Nam
Về mặt thực tiễn: Đề tài tập trung nghiên cứu có hệ thống việc áp dụng án treo
trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua. Trên cơ sở đó tìm ra những điểm
hạn chế, vướng mắc để kiến nghị nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng trên thực tiễn.
Mục đích nghiên cứu:
1



Đề tài nghiên cứu một cách hệ thống chế định án treo trong BLHS ; thực tiễn
áp dụng chế định này trên địa bàn Tỉnh Thái Nguyên trong thời gian qua. Từ đó đánh
giá những mặt tích cực và hạn chế trong quy định của pháp luật cùng như thực tiễn áp
dụng tại Thái Nguyên để rút ra những góp ý, kiến nghị hoàn thiện.
3. Phạm vi nghiên cứu:
-Về thời gian: Đề tài nghiên cứu chế định án treo trong BLHS 1999 và việc áp
dụng chế định này từ năm 2010 đến 2015.
- Về không gian: Địa bàn nghiên cứu tại tỉnh Thái Nguyên thông qua thực tiễn
xét xử sơ thẩm trong vòng 5 năm.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở kết hợp các phương pháp luận và phương pháp
nghiên cứu sau:
4.1 Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mac vvà chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật,
các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Công trình sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp hân
tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử…nhằm làm sáng tỏ nội dung cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu
Đề tài “ Án treo và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Thái Nguyên thời gian qua” có ý
nghĩa cả về mặt lí luận và thực tiễn.
Về mặt lí luận: Đề tài đã nghiên cứu một cách có hệ thống nội dung các vấn đề
của án treo trong BLHSVN, qua đó góp phần nâng cao nhận thức, tạo tiền đề cho việc
xây dựng và hoàn thiện về chế định này.
Về mặt thực tiễn: Nhìn nhận về việc áp dụng án treo trên địa bàn Tỉnh Thái
Nguyên và góp phần đem lại cách hiểu đúng đắn về chế định án treo, từ đó giúp cho
việc áp dụng một cách chính xác, khách quan, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả của
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.


2


6. Kết cấu của đề tài
Chương I: Khái quát chung về án treo.
Chương II: Thực tiễn áp dụng các quy định về án treo trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
Chương III: Một số kiến nghị hoàn thiện chế định án treo và việc áp dung
án treo tại Thái Nguyên .

3


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ÁN TREO
1.1 Khái niệm, ý nghĩa của án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam.
1.1.1 Khái niệm
Tội phạm và hình phạt là hai khái niệm thuộc chuyên ngành luật hình sự có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm đòi
hỏi phải chịu hình phạt tương ứng với hành vi đó. Tội phạm càng nguy hiểm thì hình
phạt càng nghiêm khắc. Mục đích của hình phạt đối người phạm tội là giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, do người phạm tội đáp ứng được những điều kiện luật định nên Nhà nước
không bắt họ phải chấp hành hình phạt mà bằng việc áp dụng biện pháp tác động khác
vẫn đạt được mục đích của hình phạt. Một trong những biện pháp tác động đó là việc
áp dụng án treo.
Chế định án treo được hình thành ngay từ những ngày đầu thành lập nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa. Sau đó được cụ thể hóa tại Điều 44 BLHS năm 1985 đến
BLHS năm1999 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999 thì án treo
được quy định tại Điều 60. Bộ luật hình sự Việt Nam không đưa ra khái niệm án treo
là gì? Nên trong thực tế đã có những ý kiến khác nhau về án treo. Theo tác giả Đinh

Văn Quế thì “án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp
dụng đối với người bị phạt không quá 3 năm tù, căn cứ vào nhân thân của người
phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình
phạt tù”. Theo GSTSKH. Lê Văn Cảm thì:“án treo là biện pháp miễn chấp hành hình
phạt tù có kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với người bị coi là có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ và những điều kiện do PLHS quy
định”. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội thì “ án treo
được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện… án treo thể hiện
tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyễn khích người bị kết án tu
dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như gia đình
đống thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp
hành hình phạt tù đã tuyên”.
Bằng những cách diễn đạt khác nhau nhưng khái niệm về án treo đều giải thích
theo như sự hướng dẫn, giải thích của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại Nghị
quyết số 01/1990/NQ-HĐTP ngày 18/10/1990 hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44
4


BLHS năm 1985; Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/01/2013 hướng dẫn áp
dụng Điều 60 BLHS năm 1999 về án treo do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao ban hành.
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: “ án treo là biện pháp không buộc người bị
kết án phải chấp hành hình phạt tù ở trại giam khi người đó đáp ứng được những điều
kiện luật định. Họ được tự cải tạo, giáo dục ở môi trường xã hội trong một thời gian
thử thách (TGTT) nhất định với sự giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức xã hội và
gia đình nhằm khuyến khích người bị kết án tự giác cải tạo để trở thành người có ích
cho xã hội”.
1.1.2. Ý nghĩa của án treo
Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được áp dụng
đối với người bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội

và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần thiết phải cách ly họ ra khỏi đời sống xã
hội, thì Toà án cho hưởng án treo và ấn định một thời gian thử thách từ một năm đến
năm năm.
Việc Tòa án áp dụng cho người bị kết án được hưởng án treo một cách tích cực,
đúng mục đích thì sẽ đem lại những hiệu quả tích cực cho Nhà nước, bản thân người
phạm tội và những người xung quanh. Ngược lại, nếu áp dụng chế định án treo một
cách tùy tiện, không có cơ sở pháp luật thì chế định án treo mất đi ý nghĩa của nó,
không góp phần vào đấu tranh phòng chống tội phạm, không khuyến khích và tạo điều
kiện cho người phạm tội hòa nhập vào cuộc sống và sẽ làm mất đi ý nghĩa trừng trị và
giáo dục người phạm tội.
Về phía Nhà nước: Trong BLHS Việt Nam, án treo là một chế định thể hiện tính
nhân đạo xã hội chủ nghĩa, mang tính giáo dục cao, thể hiện tính khoan hồng của pháp
luật đối với người phạm tội, góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm một cách tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Áp dụng chế định án
treo một cách đúng đắn sẽ góp phần thể hiện tính nhân văn, khoan hồng của pháp luật,
tạo điều kiện cho người bị kết án hòa nhập cuộc sống, sớm trở thành người có ích cho
xã hội. Đối với kinh tế của Nhà nước không phải tốn khoản kinh phí cho việc giam
giữ, điều tra, xét xử người phạm tội và người phạm tội được ở địa phương sẽ có khả
năng lao động để tạo ra của cải vật chất. Nhà nước sẽ không phải giải quyết một số

5


chính sách xã hội kèm theo như: việc chăm sóc con chưa thành niên của người phạm
tội, giải quyết việc làm khi người phạm tội chấp hành án xong.
Về phía người phạm tội: Việc được hưởng án treo tạo điều kiện cho người phạm
tội hoàn lương, tự thay đổi bản thân và khắc phục, sửa chữa những lỗi lầm nhất thời
mà mình đã gây ra. Người bị kết án nhận thức được chính sách khoan hồng của Nhà
nước qua đó bản thân có ý thức tuân thủ các quy định của pháp luật, đường lối và
chính sách của Đảng và các quy định tại địa phương nơi giám sát, giáo dục người bị

kết án. Họ có thể làm ăn kinh tế để nuôi sống bản thân, gia đình và góp phần phát triển
cho toàn xã hội và thông qua đây họ nhận được sự động viên, giúp đỡ, tha thứ từ phía
mọi người xung quanh và giúp họ cảm tỉnh và nhận thức được hậu quả mình phải gánh
chịu nếu bản thân còn phạm tội mới.
Về phía những người xung quanh: Án treo thể hiện sự bao dung cao qúy của
người Việt Nam, sẵn sàng dang rộng tay giúp đỡ người có lầm lỗi để hướng họ trở
thành người lương thiện và có ích cho xã hội. Đây là một bản án giúp cảnh tỉnh, nhắc
nhở người bị kết án và cảnh giác đối với những nguời xung quanh, lấy bài học đó để
cố gắng kìm chế những bản năng xấu trong con người khi có điều kiện phạm tội, lấy
tấm gương của người bị kết án để làm gương cho những người có tâm lí không vững
vàng thấy trước được hậu quả nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội
phạm. Đồng thời án treo có mục đích giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho bản
thân họ, động viên, khuyến khích đông đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia
vào cuộc đấu tranh ngăn ngừa và chống tội phạm.
1.2 Lịch sử hình thành và sự phát triển của chế định án treo trong luật hình sự
Việt Nam
Xuất phát từ đường lối và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là
“trừng trị kết hợp với khoan hồng”, cùng với nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa,
chế định án treo đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự nước ta ngay từ những ngày
đầu đất nước giành được độc lập. Tuy nhiên, trong một thời kỳ dài với những khó khăn
cả về mặt khách quan lẫn chủ quan chúng ta chưa có một Bộ luật Hình sự hoàn chỉnh.
Án treo cũng như các chế định khác của luật hình sự được quy định chủ yếu trong các
văn bản pháp luật hình sự riêng lẻ, không có giá trị pháp lý cao, chủ yếu là các văn bản
hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao và vì lẽ đó mà án treo được hiểu khác nhau về
bản chất của mình. Đến khi BLHS ra đời thì án treo lại được hiểu theo một nghĩa khác
6


về mặt bản chất so với trước đây.Tìm hiểu quá trình hình thành và hoàn thiện chế định
này là một việc làm quan trọng để từ đó hoàn thiện hơn nữa và trở thành chế định pháp

luật thực sự khoa học và đúng đắn.
1.2.1 Chế định án treo từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi có BLHS năm
1985
Trước khi có BLHS án treo được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật
hình sự riêng lẻ, không có giá trị pháp lý cao, chủ yếu là các văn bản hướng dẫn của
Tòa án nhân dân tối cao. Những quy định về án treo đầu tiên được quy định trong Sắc
lệnh số 21/SL của Chủ tịch chính phủ lâm thời ngày 14/12/1946 về tổ chức Tòa án
quân sự. Theo Sắc lệnh này thì án treo được xác định là biện pháp miễn chấp hành
hình phạt tù có điều kiện và áp dụng với người có tội. Quy định trong Sắc lệnh này
việc tội nhân không bị tòa án quân sự xét xử về một tội khác phạm phải trong thời gian
thử thách thì bản án đã tuyên hủy đi, coi như không có. Tuy nhiên, việc điều luật ấn
định một mức thời gian thử thách cố định là 5 năm, đôi khi đã không khuyến khích
người bị kết án tích cực cải tạo. Tiếp theo vào năm 1956, Sắc lệnh số 267/SL ngày
15/6/1956 có nói về án treo. Tại Điều 12 của Sắc lệnh quy định như sau: “Đối với kẻ
phạm tội… bị phạt không quá 02 năm tù, thì trong những trường hợp rất đặc biệt, do
Thủ tướng Chính phủ quy định, tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo”. Qua thực tế
việc áp dụng những quy định này đã gặp không ít khó khăn. Theo Sắc lệnh số 21 ngày
14/12/1946 và Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 thì người được hưởng án treo phải
là người có lý do đáng được khoan hồng hoặc là những trường hợp đặc biệt. Vậy thì để
hiểu được những lý do nào là lý do đáng được khoan hồng, trường hợp nào là trường
hợp đặc biệt thì lại không có một văn bản nào đề cấp tới mà phụ thuộc vào hoàn toàn
vào ý chí chủ quan của người thẩm phán. Trong Thông tư 2308/NCPL ngày
01/12/1961 cũng đề ra phương hướng cụ thể trong việc áp dụng án treo “án treo là
một biện pháp hoãn thụ hình có điều kiện” áp dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội
nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không thực cần thiết phải bắt thi hành ngay án
phạt tù. Theo bản hướng dẫn về trình tự phúc thẩm hình sự (kèm theo Thông tư số 19TATC ngày 02/10/1974 của Tòa án nhân dân tối cao) và trong bản tổng kết công tác
ngành tòa án năm 1976 lại hướng dẫn về án treo: “án treo phải được xem là hình thức
xử lý nhẹ hơn án tù giam”. Như vậy, chuyển án tù treo sang án tù giam dù thời hạn
ngắn hơn cũng là tăng nặng hình phạt, ngược lại chuyển tù giam sang án tù treo dù
7



thời hạn dài hơn vẫn là giảm nhẹ hình phạt quan điểm này thể hiện sự nhận thức không
đúng đắn và đầy đủ về án treo, mới chỉ thấy được hình thức bề ngoài mà chưa thấy
được bản chất bên trong và hậu quả pháp lý thực sự của án treo.
Từ những quy định về án treo quy định trong những văn bản pháp luật khác
nhau trong thời kì đầu lập quốc cho ta thấy chế định chỉ mang tính định hướng, khởi
đầu, nội dung vẫn còn chung chung chưa thống nhất và có nhiều cách nhìn nhận. Xem
xét quy định tại Điều 10 Sắc lệnh số 21 ngày 14/12/1946 thì có thể thấy nhiều sự cứng
nhắc: Như về thời gian thử thách là 5 năm đôi khi không khuyến khích được người bị
kết án tự giác cải tạo, tội nhân có thể được hưởng án treo không phụ thuộc vào tội
mình phạm là tội gì, mức phạt là bao nhiêu mà lí do để Tòa án cho hưởng án treo phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của Tòa và khi được hưởng án treo thì không có sự giám sát,
giáo dục từ phía gia đình và chính quyền địa phương nên việc theo dõi ý thức tự cải
tạo của người được hưởng án treo không hiệu quả. Vì vậy tình trạng người được
hưởng án treo phạm tội mới, coi thường pháp luật và không tuân theo sự giáo dục, cải
tạo vẫn diễn ra nhiều. Đây là những điểm hạn chế và được bổ sung sau khi được pháp
điển hóa chính thức trong BLHS.
1.2.2. Chế định án treo trong BLHS năm 1985
BLHS Việt Nam được Quốc Hội thông qua ngày 27/6/1985, có hiệu lực kể từ
ngày 1/1/1986 đã đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình lập pháp của Việt Nam,
đây là việc pháp điển hóa lần thứ nhất về chính sách hình sự của nước ta.Việc ban
hành bộ luật hình sự năm 1985 đã góp phần rất lớn trong đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi trong việc quản lí xã hội bằng pháp luật, là
bước đầu cho tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong đó chế định về án treo được quy định cụ thể tại Điều 44 của bộ luật. Theo đó
điều kiện để người phạm tội được hưởng án treo quy định trong điều 44 Bộ luật hình
sự năm 1985 gồm bốn điều kiện là: Bị cáo bị phạt tù không quá 5 năm; Có thân nhân
tốt; Có nhiều tình tiết giàm nhẹ ; Nếu tòa án xét không cần phải bất chấp hành hình
phạt tù. Điều luật này đã quy định khá rõ ràng và cụ thể về khi nào một người được

hưởng án treo, để một người được hưởng án treo thì cần phải đáp ứng được cả bốn
điều kiện trên chứ không phải là “lí do đáng được khoan hồng” quy định như trước
đây. Quy định trong sắc lệnh số 21/SL ngày 14/12/1946 về án treo thì việc cho hưởng
án treo hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Tòa án và có thể áp dụng với bất
8


kì mức phạt nào. Theo quy định tại Điều 44, án treo chỉ áp dụng cho trường hợp phạt
tù không quá 5 năm như vậy đã thể hiện sự chặt chẽ hơn khi áp dụng. Trong thời gian
được hưởng án treo người phạm tội phải chịu khoảng thời gian thử thách(TGTT) từ 1
năm đến 5 năm chứ không phải bắt buộc là 5 năm như trong sắc lệnh 21/SL trước đó.
Ngoài ra điều luật cũng quy định rõ ràng về việc giao người bị án treo cho các cơ
quan, tổ chức để theo dõi, giáo dục và những hình phạt bổ sung có liên quan, nếu
người phạm tội chấp hành được một nửa thời gian và có nhiều tiến bộ thì sẽ được rút
ngắn TGTT đồng thời cũng quy định hậu quả của người bị án treo mà phạm tội mới
trong TGTT.
Trong quá trình thực thi chế định án treo quy định tại Điều 44 BLHS năm 1985
đã có một số văn bản hướng dẫn như nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của
HĐTP tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về việc áp dụng điều 44/BLHS năm 1985 có
khảng định án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện.
1.2.3 Chế định án treo trong BLHS năm 1999
Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đã kế thừa và phát huy BLHS năm 1985 được
Quốc Hội thông qua ngày 21/12/1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2000. Cùng
với sự thay đổi của bộ luật thì chế định án treo cũng được thay đổi từ Điều 44 BLHS
năm 1985 sang Điều 60 BLHS năm 1999. Nội dung của chế định án treo vẫn có những
nội dung cơ bản như: Quy định về mức phạt tù, về TGTT, về ĐKTT, các hình phạt bổ
sung, rút ngắn TGTT và hậu quả của việc phạm tội mới trong TGTT. Tuy nhiên theo
quy định tại Điều 60 BLHS năm 1999 thì mang tính thắt chặt hơn đối với người được
hưởng án treo, việc thay đổi này để phù hợp với tình hình thực tiễn cũng như thể hiện
sự nghiêm khắc hơn đối với người phạm tội. Cụ thể tại khoản 1 về mức hình phạt tù

xét hưởng án treo thể hiện sự nghiêm khắc hơn là không quá 3 năm tù, trong khi đó
BLHS năm 1985 quy định là không quá 5 năm. Ngoài ra cũng có một số bổ sung mới
như tại khoản 2 thêm nội dung “trong thời gian thử thách” và việc giao người được
hưởng án treo cho cả chính quyền địa phương, gia đình người đó giám sát, giáo dục đã
mở rộng sự theo dõi quản lí đối với người được hưởng án treo và tạo được sự hiệu quả
trong việc tự cải tạo, tu dưỡng của bản thân vì gia đình và chính quyền địa phương là
nơi sinh hoạt hàng ngày của người bị án treo. Việc thi hành chế định án treo trong thời
gian này cũng có một số văn bản hướng dẫn như: Nghi quyết số 01/2007/NQ-HĐTP
ngày 2/10/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành
9


bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hiệu chấp hành hình phạt; Nghị định số
61/2000/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 30/10/2000 về việc thi hành hình phạt tù cho
hưởng án treo; Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 6/1/2013 hướng dẫn áp dụng
Điều 60 của BLHS về án treo. Có thể thấy rằng chế định án treo trong BLHS năm
1999 quy định nghiêm khắc, rõ ràng hơn so với những quy định về án treo trước đó.
Tuy nhiên theo quy luật khách quan thì mọi sự việc, hiện tượng luôn vận động
và thay đổi không ngừng do đó các quy định về án treo ngày càng phải thay đổi cho
phù hợp và đáp ứng được đầy đủ các đòi hỏi của xã hội trong thời kì đổi mới. Hiến
pháp năm 2013 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kì họp thứ 6 thông qua ngày 28/11/2013 ra đời đánh dấu nhiều sự thay đổi mới.
Do đó các bộ luật cũng phải thay đổi để cho phù hợp với Hiến pháp và tình hình thực
tế hiện nay. Việc tiếp tục phải hoàn thiện BLHS nói chung và chế định án treo nói
riêng vẫn đang là những yêu cầu quan trọng và cấp thiết đặt ra cho cơ quan lập pháp.
1.2.4. Chế định án treo trong BLHS sửa đổi năm 2015
Bộ luật hình sự (sửa đổi) được thông qua tại kì họp thứ 10, Quốc Hội khóa XIII
chế định án treo được quy định tại Điều 65.Về bản chất pháp lý thì án treo vẫn là biện
pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Xem xét về điều kiện để cho người
được hưởng án treo vẫn kế thừa như BLHS năm 1999 như về mức phạt tù vẫn là

không quá 3 năm; về TGTT và ĐKTT; sự theo dõi, giám sát người được hưởng án
treo; các hình phạt bổ sung có thể áp dụng; hậu quả của việc phạm tội mới trong thời
gian thử thách. Tuy nhiên Điều 65 bổ sung những quy định mang tính nghiêm khắc
hơn nữa. Cụ thể tại khoản 1 Điều 65 thì ngoài việc quy định mức phạt tù được hưởng
án treo thì còn quy định thêm việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử
thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Điểm này thể hiện người được
hưởng án treo ngoài việc tự tu dưỡng, cải tạo bản thân thì bắt buộc phải thực hiện các
nghĩa vụ quy định. Ngoài ra, tại khoản 5 quy định thêm trong thời gian thử thách, nếu
người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án
hình sự 2 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình
phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Đây là điểm bất lợi cho người bị án treo khi
cố ý không thực hiện nghĩa vụ của mình và hậu quả của việc này cũng gần tương tự
khi người bị án treo phạm tội mới trong TGTT chỉ khác là việc Tòa án có thể cho phụ
thuộc tình hình thực tế và ý chí chủ quan của Tòa án. Có thể thấy chế định án treo quy
10


định trong BLHS sủa đổi đã thể hiện sự nghiêm khắc hơn của Nhà nước đối với người
bị án treo nhằm đạt được đúng mục đích của án treo đó là khuyến khích người bị kết
án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của xã hội cũng như
gia điình đồng thời cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong TGTT thì buộc phải chấp
hành hình phạt tù đã tuyên.
Như vậy, chế định án treo đã ra đời từ rất sớm ngay cả khi Việt Nam chưa có
BLHS. Sau này án treo được ghi nhận cụ thể trong BLHS năm 1985, BLHS năm 1999
và BLHS (sửa đổi) năm 2015 theo hướng ngày càng chặt chẽ, hoàn thiện hơn cho phù
hợp với sự phát triển của xã hội và công cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm. Đây là một chế định thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự, qua chế
định án treo nhà nước thể hiện rõ thái độ khoan hồng đối với người phạm tội lần đầu,
tội phạm đã thực hiện là ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nơi làm việc, cư trú rõ
ràng. Những người này chưa tới mức phải cách lý ra khỏi xã hội và xét thấy họ có khả

năng tự cải tạo tại cộng đồng, góp phần cho người phạm tội tự sửa chữa lỗi lầm,tự
hoàn lương và làm lại từ đầu trở thành người có ích cho xã hội, đóng góp cho sự
nghiệp phát triển của đất nước. Tuy nhiên việc áp dụng cho người được hưởng án treo
cũng như về ĐKTT và TGTT vẫn chưa thống nhất nhiều khi còn tùy tiện. Vì vậy ngoài
những quy định rõ ràng, chặt chẽ trong BLHS thì cũng cần sự áp dụng và thi hành
đúng đắn, nghiêm minh từ phía các cơ quan Tòa án và người bị án treo.
1.3 Quy định của Luật hình sự một số nước trên thế giới về án treo.
* Án treo trong luật hình sự của Cộng hòa liên bang Đức:
Cả Đức và Việt Nam đều có quy định về án treo trong BLHS. Trong đó, quy
định rất rõ về căn cứ, điều kiện cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách…
Những quy định về án treo của cả hai nước có những điểm giống nhau nhưng cũng có
những điểm khác biệt.
Căn cứ cho hưởng án treo:
Mức hình phạt tù: Điều 56 BLHS Đức quy định “Người bị phạt tù không quá
một năm, trường hợp đặc biệt có thể hình phạt tù không quá hai năm”. Nhân thân
người phạm tội: Trong căn cứ cho hưởng án treo cả hai BLHS đều quy định phải xem
xét đến nhân thân người phạm tội khi quyết định cho họ được hưởng án treo hay
không. Điều 56 BLHS Đức còn quy định: nếu thấy người bị kết án đã bị cảnh cáo và
tương lai không phạm tội mới dù không bị tù thì xem xét cho họ được hưởng án treo.
Quy định này đòi hỏi Thẩm phán phải cân nhắc các tình tiết của vụ án, người phạm tội
11


để đưa ra dự báo trong tương lai người phạm tội không phạm tội mới thì mới có thể
cho hưởng án treo. Thẩm phán cân nhắc tình tiết này phải có thái độ công tâm, khách
quan, toàn diện để đưa ra quyết định chính xác. Ngoài ra, theo quy định của BLHS
Đức thì Thẩm phán phải cân nhắc rất nhiều tình tiết để cho bị cáo được hưởng án treo
như: Cuộc sống trước đây của họ, hoàn cảnh phạm tội, thái độ sau khi phạm tội, quan
hệ xã hội và tác dụng chờ đợi ở người được hưởng án treo. Đây là những quy định mà
BLHS Việt Nam không có.

Thời gian thử thách của án treo:
Về thời gian thử thách của án treo giữa BLHS Đức và BLHS Việt Nam quy
định khác nhau. Theo khoản 1, Điều 60 BLHS Việt Nam quy định: “ Thời gian thử
thách từ một đến năm năm” thì Điều 56a. Bộ luật Hình sự Đức quy định “Toà án
quyết định thời gian thử thách của án treo là không quá năm năm và không dưới hai
năm”. Như vậy, với mức thời gian thử thách tối thiểu nhiều hơn một năm có thể thấy
BLHS Đức quy định chặt chẽ hơn BLHS Việt Nam. BLHS Đức quy định bắt đầu tính
thời gian thử thách của án treo được quy định ngay trong BLHS “Thời gian thử thách
bắt đầu từ khi bản án cho hưởng án treo có hiệu lực”. Còn trong BLHS Việt Nam
không quy định thời gian bắt đầu tính thời gian thử thách của án treo, mà được hướng
dẫn bằng các văn bản dưới luật nên đã gây ra khó khăn trong quá trình áp dụng. Theo
Nghị quyết 60 ngày 06/11/2013 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng điều 60 của
BLHS về án treo có quy định “Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày
tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo”.
Vấn đề giám sát, giáo dục: Điều 56d BLHS Đức quy định rất rõ ràng: Nếu
người được hưởng án treo chưa đủ 27 tuổi và hình phạt của họ là trên 9 tháng thì Toà
án có thể cử người trợ giúp trong thời gian thử thách.
Điều kiện thử thách và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách
của án treo: Điều 56f BLHS Đức quy định rất rộng các căn cứ khi vi phạm nghĩa vụ
thực hiện trong thời gian được hưởng án treo sẽ bị tước bỏ án treo là: 1- Trong thời
gian thử thách phạm tội mới; 2- Không nghe lời người giúp đỡ, không tuân thủ các chỉ
thị và có nguy cơ phạm tội mới; 3- Không thanh toán các khoản phạt. Như vậy, BLHS
Đức quy định rộng hơn BLHS Việt Nam, những căn cứ này rất linh hoạt và đe doạ
người phạm tội bất cứ lúc nào cũng có thể bị tước bỏ án treo. Về hậu quả pháp lý của
việc vi phạm thời gian thử thách của án treo BLHS Đức không quy định tổng hợp hình
phạt đối với người được hưởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách.
Án treo cho trường hợp đang chấp hành hình phạt:
12



Quy định này cho phép Toà án có thể chuyển từ tù có thời hạn sang án treo khi
người đã chấp hành hình phạt tù được một thời gian nhất định.Tại Điều 57 BLHS Đức
quy định: Toà án cho người đang chấp hành án tù hưởng án treo khi: Người đã chấp
hành được 2/3 án tù (ít nhất là 2 tháng); sẽ không phạm tội mới dù được tự do thì Toà
án có thể cho hưởng án treo phần hình phạt còn lại khi họ chấp nhận việc thay thế này.
Khi quyết định cho hưởng án treo, Toà án phải xem xét nhân thân người phạm tội, quá
khứ của họ, các tình tiết của tội phạm, thái độ người phạm tội trong trại giam, hoàn
cảnh sống cũng như tác động đến tương lai của họ nếu áp dụng án treo. Đây cũng là
quy định thể hiện tính nhân đạo, sự khoan hồng của Nhà nước đối với những người
phạm tội khi họ đã biết ăn năn, hối hận, có thái độ cải tạo tốt và mong muốn hòa nhập
với xã hội.
Qua đây có thể thấy BLHS Đức rất chặt chẽ, cụ thể, tránh việc các thẩm phán
đưa các quyết định cho hưởng án treo không đúng pháp luật. Việt Nam cần học hỏi và
tiếp thu những tiến bộ trong các quy định của BLHS Đức.
* Án treo trong luật hình sự cuả nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa:
Án treo trong luật hình sự cuả nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1997
được quy định từ điều 72 đến điều 77. Theo điều 72 BLHS Trung Hoa án treo được
quy định như sau: “Khi xử phạt cải tạo lao động hoặc tù dưới ba năm, căn cứ vào
những tình tiết phạm tội và biểu hiện ăn năn hỗi lỗi của người phạm tội, có thể cho
người phạm tội hưởng án treo nếu xét thấy việc áp dụng án treo sẽ không nguy hiểm
cho xã hội”.
Thời gian thử thách đối với người bị phạt giam hình sự nhưng được hưởng án
treo là từ một tháng đến hai năm, đối với người bị phạt tù nhưng được hưởng án treo là
từ một năm đến năm năm. Thời gian thử thách được tính từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật. Vấn đề giám sát, giáo dục do cơ quan công an tiến hành với sự giúp đỡ của
tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc cư trú.
Điều kiện thử thách và hậu quả pháp lý của việc vi phạm điều kiện thử thách
của án treo: Theo điều 77 BLHS Trung Hoa: nếu trong thời gian thử thách người
được hưởng án treo phạm tội mới hoặc phát hiện trước đó có phạm tội khác nhưng
chưa bị xử lý, thì phải hủy bỏ án treo và đưa ra thi hành hình phạt chung cho cả hai tội

cũ và mới. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo vi phạm pháp luật,
quy chế hành chính hoặc quy chế về giám sát thì hủy bỏ án treo và bắt chấp hành hình
phạt đã tuyên. Nếu người được hưởng án treo không vi phạm những điều kiện thử

13


thách thì khi hết hạn thử thách thì sẽ không phải chấp hành hình phạt của tội cũ (điều
76). Theo điều 74 còn quy định: không áp dụng án treo đối với người tái phạm.
Như vậy, án treo theo luật hình sự Trung Quốc không phải là hình phạt mà là
biện pháp miễn chấp hành hình phạt có điều kiện – đây chính là bản chất của án treo.
Tuy nhiên, điều kiện để cho hưởng án treo là mang tính đặc thù của pháp luật hình sự
Trung Quốc.
* Án treo trong luật hình sự cuả Thụy Điển:
Luật hình sự Thụy Điển coi án treo là “ bản án có điều kiện” có thể được áp
dụng với “ một tội mà hình phạt tiền được coi là chưa thỏa đáng” ( Điều 1, chương
27). Theo Điều 3, chương 27 thì thời gian thử thách của án treo là hai năm, trong thời
gian này họ không được phạm tội mới và “ phạm nhân phải duy trì cuộc sống kỷ luật
và phải tự lập cuộc sống theo khả năng của mình” (Điều 4). Nếu vi phạm điều kiện
thử thách thì phải hủy án treo và quyết định một hình phạt khác cụ thể. Theo luật hình
sự Thụy Điển, án treo có bản chất pháp lý của một loại hình phạt. Hình phạt này có
thể được áp dụng kèm với hình phạt tiền “ tương ứng với tối đa 180 ngày thu nhập”.
Đây là điểm khác so với quy định về án treo theo BLHS Việt Nam.
Tóm lại, mỗi một nhà nước đều có những quy định về án treo riêng cho mình,
đều có những quy định thể hiện sự trừng trị, giáo dục nhưng cũng thể hiện sự khoan
hồng. Tuy nhiên, mức độ như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện của từng nước, thể
hiện ở chế định án treo được ghi nhận trong luật hình sự và sự giải thích về bản chất
pháp lý của chế định này.
1.4 Chế định án treo trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
1.4.1. Quy định của Bộ luật hình sự về án treo

1.4.1.1 Căn cứ cho người bị xử phạt tù được hưởng án treo.
Tòa án chỉ có thể cho người bị phạt tù được hưởng án treo khi có căn cứ vững
chắc để khẳng định rằng nếu không bắt họ cách ly khỏi xã hội, họ có thể tự cải tạo,
giáo dục dưới sự giám sát của gia đình và địa phương nơi họ cư trú. Theo BLHS Việt
Nam năm 1999 căn cứ đó là:
* Về mức hình phạt tù:
Khoản 1 Điều 60 BLHS quy đinh: “Khi bị phạt tù không quá ba năm, căn cứ
vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
phải bắt chấp hành hình phạt tù , thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian
thử thách từ một năm đến năm năm”. Quy định trên cho thấy mức hình phạt tù đã
tuyên là căn cứ để Tòa án xem xét cho người phạm tội được hưởng án treo hay không.
14


Căn cứ vào mức hình phạt tù là căn cứ về tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, nhân thân của người phạm tội và các TTGN, TTTN của người phạm tội (căn
cứ để quyết định hình phạt). Theo quy định trên những người nào bị phạt tù không quá
ba năm thuộc bất cứ loại tội gì đều có thể được Tòa án xét cho hưởng án treo Người bị
xử phạt tù không quá ba năm mới có thể được hưởng án treo.
Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 1999 đã chia tội phạm ra thành 4 loại là: tội phạm ít
nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Vậy có thể hiểu người bị phạt tù không quá ba năm có thể là tội phạm ít nghiêm trọng,
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đều có thể được Tòa án xét
cho hưởng án treo. Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP quy định: “Chỉ cho người bị
phạt tù được hưởng án treo khi có các điều kiện sau đây:
a)Bị xử phạt tù không quá 3 năm , không phân biệt về tội gì;
b)Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp
hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án
treo…”. Việc quy định người bị xét xử trong một lần về nhiều tội mà hình phạt chung
không quá 3 năm tù cũng thuộc diện được xem xét cho hưởng án treo có thể dẫn đến

việc áp dụng án treo một cách tràn lan trong thực tế. Do vậy để có mức hình phạt tù
không quá ba năm mà lại đúng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị
cáo thì Tòa án cần tuân thủ các nguyên tắc của luật Hình sự đó là nguyên tắc: Pháp chế
xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa trách
nhiệm hình sự. Bên cạnh đó để việc quyết định hình phạt đúng phải căn cứ vào các
quy định về quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS.
* Về nhân thân người phạm tội
Tại khoản 1 Điều 60 BLHS 1999 quy định: “ …căn cứ vào nhân thân của
người phạm tội…”. Như vậy nhân thân của người phạm tội không những là một trong
những căn cứ để quyết định hình phạt mà còn là cơ sở quan trọng để xem xét cho
hưởng án treo cùng với điều kiện về mức hình phạt tù . Bởi tính chất nguy hiểm của
hành vi phạm tội không những thể hiện ở hành vi phạm tội đã thực hiện mà còn thể
hiện ở chỗ trong những điều kiện nhất định, người đó có khă năng tự cải tạo, giáo dục
hay không; hành vi nguy hiểm cho xã hội do những yếu tố nhất định thuộc về nhân thân.
Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm
riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách
nhiệm hình sự của họ. Những đặc điểm đó có thể là tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc,
thái độ trong quan hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia
15


đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự…
Nhân thân của người phạm tội tuy không phải là yếu tố cấu thành tội phạm nhưng
những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định trách nhiệm hình sự của người phạm tội về khả năng tự giáo dục và cải tạo.
Để cho người bị xét xử được hưởng án treo ngoài căn cứ về mức hình phạt tù
thì người đó phải có nhân thân tốt. Theo Nghị quyết 60 ngày 06/11/2013 của HĐTP
TANDTC hướng dẫn áp dụng điều 60 của BLHS về án treo đã quy định: “ Có nhân
thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã
hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân

nơi cư trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết
án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật. Trường hợp người phạm tội có án
tích nhưng đã được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết
án; đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử
lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý
kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không
phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp này phải
hết sức chặt chẽ.
Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi
chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng,
chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng. ”
Tóm lại, khi xem xét đánh giá nhân thân người phạm tội, Tòa án phải xem xét
toàn diện tất cả các đặc điểm về nhân thân trong đó phải xem xét đế khả năng tự giáo
dục, cải tạo của người phạm tội và họ có thực sự đáng để được hưởng án treo hay
không.
* Có nhiều tình tiết giảm nhẹ:
Theo Nghị quyết 60 ngày 06/11/2013 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng
điều 60 của BLHS năm về án treo đã quy định: “ Không có tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy
định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; nếu có một tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong
đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự”.
Như vậy, TTGN phải luôn luôn nhiều hơn TTTN và phải có ít nhất một TTGN được
quy định tại khoản 1 điều 46 BLHS, TTGN quy định tại khoản 2 điều 46 được được
16


hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định

trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999” và TTGN này phải được ghi rõ trong
bản án.
Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, yếu tố “tình tiết giảm nhẹ” trên thực tế đã được
cơ quan công tố và cả tòa án xem xét đến khi quyết định truy tố và tuyên hình phạt rồi.
Tức là khi tuyên mức án tù là Tòa án đã căn cứ trên các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo
rồi. Thế nhưng sau đó lại cho người phạm tội "được hưởng án treo" - tức các tình tiết
giảm nhẹ được xem xét tới hai lần. TTGN được vận dụng hai lần nhưng mỗi lần chúng
lại được sử dụng với mục đích khác nhau. Lần thứ nhất, những TTGN được xem xét
với các căn cứ khác để xem xét mức hình phạt tù cần phải trừng trị người phạm tội.
Việc sử dụng TTGN lần thứ hai để xem xét cho người phạm tội bị phạt tù không quá
ba năm được hưởng án treo là xác định xem người này có khả năng cải tạo, giáo dục
hay không. Ở lần này TTGN phản ánh đặc điểm nhân thân của người phạm tội.
* Thuộc trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù:
Những “trường hợp không cần bắt chấp hành hình phạt tù” không được quy
định cụ thể là trong các văn bản luật và việc đánh giá các trường hợp này chỉ mang
tính tương đối và phụ thuộc rất nhiều vào sự cân nhắc của Hội đồng xét xử (HĐXX)
tại phiên tòa. Những người được hưởng án treo phải là người có khả năng hoàn lương
trong hoàn cảnh xã hội cụ thể , không có nguy cơ tái phạm, bởi tính chất loại tội phạm
mà họ đã thực hiện cũng như do ảnh hưởng xấu của đối tượng xung quanh. Ngược lại,
nếu mặc dù người bị xét xử hội tụ cả ba căn cứ trên nhưng do yêu cầu công tác đấu
tranh phòng ngừa tội phạm để kịp thời răn đe, giáo dục loại tội phạm trên địa bàn mà
xét thấy cần thiết phải bắt họ chấp hành hình phạt tù thì sẽ không cho họ hưởng án
treo. Quy định này đòi hỏi HĐXX phải cân nhắc các tình tiết của vụ án, người phạm
tội để cân nhắc việc cho hưởng án treo. HĐXX khi cân nhắc tình tiết này phải có thái
độ công tâm, khách quan, toàn diện để đưa ra quyết định chính xác.
1.4.1.2 Thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách.
* Thời gian thử thách:
Thời gian thử thách của án treo là thời gian mà Tòa án ấn định đối với người bị
kết án được hưởng án treo, nếu hết thời gian đó mà người bị kết án không phạm tội
mới thì hình phạt tù mà Tòa án quyết định đối với người bị kết án sẽ không phải thi

hành. Ngược lại, nếu trong thời gian đó người bị kết án lại phạm tội mới thì người bị
17


kết án, ngoài việc phải chấp hành hình phạt đối với tội mới phạm, còn phải chấp hành
hình phạt tù mà Tòa án đã cho họ hưởng án treo.
Theo khoản 1 điều 60 BLHS năm 1999 đã quy định: “Khi cho người bị xử phạt
tù hưởng án treo, Tòa án phải ấn định thời gian thử thách không được dưới 1 năm và
không được quá 5 năm và cũng không được thấp hơn mức hình phạt tù đã tuyên”.
Theo Nghị quyết số 01/2007 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời gian chấp
hành hình phạt có quy định cụ thể về thời gian thử thách: - Trường hợp người bị xử
phạt tù không bị tạm giam thì thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù,
nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm. Ví dụ: trường hợp của
Nguyễn Quốc X bị Tòa án huyện P tuyên phạt tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” và bị Tòa án xử phạt 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách
là 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Như vậy trong trường hợp này, Tòa án đã
đưa ra thời gian thử thách gấp hai lần mức hình phạt tù.
- Trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì lấy mức hình phạt tù trừ đi
thời gian đã bị tạm giam để xác định mức hình phạt tù còn lại phải chấp hành. Thời
gian thử thách trong trường hợp này bằng hai lần mức hình phạt tù còn lại phải chấp
hành, nhưng không được dưới một năm và không được quá năm năm. Ví dụ: Trần Văn
An bị Tòa án H tuyên phạt 15 tháng tù giam về tội đánh bạc nhưng cho hưởng án treo.
Trước đó A bị tạm giam 1 tháng. Do vậy, thời gian thử thách của A là (15 tháng – 1
tháng) x 2, tức thời gian thử thách của A là 28 tháng.
Thời gian thử thách của án treo là bắt buộc tuyệt đối, không được cho hưởng án
treo mà lại miễn thời gian thử thách. Bằng việc quy định thời gian thử thách, luật hình
sự răn đe người bị kết án không được vi phạm điều kiện thử thách của án treo trong
thời gian thử thách. Thời gian thử thách là khoảng thời gian giúp người bị kết án treo
tự lao động, cải tạo. Nếu trong thời gian này, họ không phạm tội mới và chấp hành đầy

đủ các nghĩa vụ của bản thân thì có thể tin tưởng họ là con người hết nguy hiểm cho xã
hội, ít có nguy cơ tái phạm. Như vậy, thời gian thử thách còn có ý nghĩa rất lớn đối với
người được hưởng án treo. Mặt khác, đó là khoảng thời gian giúp tòa án có điều kiện
kiểm tra tính đúng đắn trong việc áp dụng án treo thông qua phân tích , đánh giá
những thông tin cần thiết từ cơ quan, tổ chức chịu trách nhiệm giám sát, giáo dục
người bị án treo.
* Cách tính thời gian thử thách:

18


×