1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỮU SÁNG
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỮU SÁNG
TỔNG HỢP HÌNH PHẠT
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG
Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Hùng
Hà nội - 2015
3
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn cha từng đợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hữu Sáng
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔNG HỢP
HÌNH PHẠT
8
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của chế định tổng hợp hình phạt 8
1.1.1.
Khái niệm tổng hợp hình phạt 8
1.1.2.
Ý nghĩa của tổng hợp hình phạt 9
1.2. Các nguyên tắc tổng hợp hình phạt 10
1.2.1.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa 12
1.2.2.
Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa 14
1.2.3.
Nguyên tắc cá thể hóa trong tổng hợp hình phạt 17
1.2.4.
Nguyên tắc công bằng trong tổng hợp hình phạt 19
1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về chế định tổng hợp
hình phạt thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay
21
1.3.1.
Giai đoạn từ năm 1945 cho đến trước khi có Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1985
21
1.3.2.
Giai đoạn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 27
1.3.3.
Giai đoạn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 32
Chương 2:
CÁC QUY PHẠM CỦA CHẾ ĐỊNH TỔNG HỢP HÌNH
PHẠT THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HÀ GIANG
36
2.1. Khái quát về công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang 36
5
2.2. Các quy phạm của chế định tổng hợp hình phạt theo pháp luật
hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
tỉnh Hà Giang
39
2.2.1.
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội 39
2.2.2.
Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án 52
2.2.3.
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp có liên quan đến án treo
63
2.2.4.
Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên
phạm nhiều tội
73
Chương 3:
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CHẾ ĐỊNH TỔNG HỢP HÌNH PHẠT CỦA TÒA ÁN
84
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam đối với chế
định tổng hợp hình phạt
84
3.1.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam đối với chế định tổng hợp hình phạt
84
3.1.2.
Hoàn thiện các quy phạm pháp luật Việt Nam đối với chế
định tổng hợp hình phạt
88
3.2. Nâng cao chất lượng trong hoạt động áp dụng quy định về
tổng hợp hình phạt
90
KẾT LUẬN
95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
98
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Số liệu về công tác giải quyết, xét xử án hình sự của Tòa
án nhân dân trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2010 đến
năm 2014
37
2.2 Số liệu về tổng số bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn
tỉnh Hà Giang từ năm 2007 đến năm 2014
72
2.3 Số liệu về tổng số bị cáo đã xét xử là người chưa thành
niên từ năm 2007 đến 2014
81
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ Trang
2.1 Tổng số án hình sự đã giải quyết của cấp tỉnh và cấp
huyện trên tổng số thụ lý toàn tỉnh Hà Giang từ năm 2010
đến năm 2014
37
2.2 Số liệu về tổng số bị cáo được hưởng án treo trên địa bàn
tỉnh Hà Giang từ năm 2007 đến năm 2014
72
2.3 Số bị cáo đã xét xử là người chưa thành niên trong tổng
số bị cáo bị xét xử từ năm 2007 đến 2014
82
7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực trong xã hội, đấu tranh phòng
chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của mình và duy trì kỉ cương xã hội luôn là
một nhiệm vụ quan trọng nhất của mỗi Nhà nước. Để cụ thể hóa, luật hình sự
đã quy định những hành vi nào được coi là nguy hiểm cho xã hội do người có
năng lực hành vi trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hay vô ý xâm
phạm các khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ là tội phạm. Người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm và phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Hình phạt là một dạng điển hình nhất và phổ biến của trách nhiệm
hình sự. Hình phạt là chế tài nghiêm khắc nhất của nhà nước đối với người
phạm tội và họ phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm của mình.
Hậu quả đó có thể là hạn chế hoặc tước bỏ quyền và lợi ích của người phạm
tội, thậm chí là cả tính mạng của họ. Việc quyết định hình phạt dựa trên tính
chất nguy hiểm và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để
đưa ra một hình phạt hợp tình, hợp lý, không làm oan người vô tội.
Thực tế xét xử vụ án hình sự trong những năm qua cho thấy, có nhiều
trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi không bị phát hiện và đưa ra
xét xử cùng một lúc, mỗi hành vi cấu thành một tội phạm riêng biệt hay một
người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước
khi có bản án đó hoặc một người đang phải chấp hành bản án mà mà phạm tội
mới thì để đánh giá toàn diện và đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tất cả
các tội mà người phạm tội đã thực hiện, Tòa án phải tổng hợp hình phạt của
các tội thành hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành. Tổng hợp hình phạt
là trường hợp Tòa án không chỉ quyết định hình phạt cho một tội mà phải
8
quyết định hình phạt chung cho nhiều tội. Do vậy, đây là một chế định đặc
biệt quan trọng trong luật hình sự.
Bộ luật hình sự hiện hành tuy đã có quy định về chế định này nhưng
xét về nội dung cũng như kỹ thuật lập pháp các quy định đó còn chưa hoàn
thiện và điều đó đã dẫn đến một số vướng mắc trong quá trình áp dụng. Điều
này gây lúng túng và có không ít trường hợp áp dụng còn chưa thống nhất các
quy định của Bộ luật hình sự trong hoạt động xét xử của Tòa án các cấp.
Bên cạnh đó, Hà Giang là một tỉnh có nhiều người dân tộc có quan hệ
họ hàng với các gia đình bên kia biên giới, đời sống của nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn, trình độ dân trí còn hạn chế. Nạn buôn bán người, buôn bán
trẻ em, giết người, hiếp dâm diễn biến phức tạp. Nhiều trường hợp phạm tội
xảy ra do lạc hậu, do mê tín dị đoan, do không hiểu biết pháp luật dẫn đến
việc Tòa án phải áp dụng chế định tổng hợp hình phạt trên thực tiễn.
Hiện nay, khoa học luật hình sự trong nước đã có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về hình phạt, quyết định hình phạt nhưng chủ yếu chỉ đề cập
một cách tổng thể và có hệ thống những khía cạnh lý luận chung nhất về hình
phạt mà chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, toàn diện
và sâu sắc riêng về tổng hợp hình phạt dưới góc độ lý luận cũng như thực tiễn
áp dụng. Trong khi đó, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các văn bản quan
trọng về cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NA/TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về "Một số nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020". Đặc biệt, trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã xác định:
"Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp
mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng
việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả
9
phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội" [9]. Việc
tổng hợp hình phạt cũng là một nội dung quan trọng trong công tác hoàn thiện
pháp luật để răn đe và đấu tranh phòng ngừa tội phạm có hiệu quả hơn.
Như vậy, cần có những nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành
về chế định tổng hợp hình phạt để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra giải
pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp
dụng chế định tổng hợp hình phạt theo luật hình sự Việt Nam nói chung và
chế định tổng hợp hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng không chỉ có
ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng
cho sự cần thiết để tác giả lựa chọn đề tài "Tổng hợp hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang" làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế định tổng hợp hình phạt được nghiên cứu ở những phương diện,
phạm vi khác nhau, có nhằm làm sáng tỏ các vấn đề mang tính chất lý luận và
thực tiễn được công bố trong các công trình khoa học, giáo trình giảng dạy,
bài viết trên các tạp chí và sách chuyên khảo như:
Cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có đề tài của các tác giả Trần Văn
Sơn "Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam" (1996) và tác giả
Hoàng Chí Kiên "Quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt" (2004).
Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: Hình phạt trong luật Hình sự Việt Nam, của PGS.TS Nguyễn Ngọc
Hòa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Tội phạm học, luật hình
sự và tố tụng hình sự Việt Nam, của PGS.TS Võ Khánh Vinh, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (phần
chung), của TS Uông Chu Lưu và ThS. Trần Văn Sơn, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 1997; Dương Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình
phạt, Nhà xuất bản Lao động và xã hội, Hà Nội, 2006; Đinh Văn Quế, Bình
10
luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (phần chung), Nhà xuất
bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000; v.v
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học có
đề cập đến hình phạt như: Đinh Văn Quế, "Tổng hợp hình phạt của nhiều bản
án", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 11, 2004; Đinh Văn Quế, "Quyết định hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội", Tạp chí kiểm sát, số 6, 2007;
Đinh Thị Chiến, "Điều 50, 51 có mâu thuẫn với Điều 33 Bộ luật hình sự hay
không", Đặc san Khoa học pháp lý, số 4, 2000; Đỗ Văn Chỉnh, "Về việc tổng
hợp hình phạt", Tạp chí Tòa án, số 1, 2004; Nguyễn Ngọc Hòa, "Trường hợp
"phạm nhiều luật" trong luật hình sự", Tạp chí Luật học, số 1, 2003; Phạm
Hồng Hải, "Một số điểm mới cơ bản trong phần chung Bộ luật hình sự năm
1999", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 2000; Phạm Văn Thiệu, "Tổng
hợp hình phạt của nhiều bản án", Tạp chí Tòa án, số 3, 2008; Phạm Mạnh
Hùng, "Vấn đề người chưa thành niên phạm tội trong luật hình sự", Tạp chí
Kiểm sát, số 4, 1999; Trần Văn Dũng, "Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội", Tạp chí Luật học, số 5, 2002; Trần Văn Đệ,
"Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội", Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 1, 2003; PGS.TS Võ Khánh Vinh và Lê Văn Đệ, "Tổng hợp
thực tế về phạm nhiều tội - Một hình thức biểu hiện của chế định phạm nhiều
tội", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12, 1999; ThS. Phạm Mạnh Hùng,
"Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về hệ thống hình phạt và quyết
định hình phạt", Tạp chí Kiểm sát, số 4, 2001 v.v
Trên cơ sở nghiên cứu cho thấy, chế định tổng hợp hình phạt chưa
được quan tâm nghiên cứu đúng mức, chế định này chủ yếu được nằm trong
nội dung hình phạt và quyết định hình phạt - đó là một nội dung nhỏ trong của
các sách giáo trình, sách chuyên khảo mà không có một cuốn giáo trình,
chuyên khảo, bình luận chuyên biệt về chế định này. Chế định tổng hợp hình
phạt được nghiên cứu riêng chủ yếu qua các bài báo của các nhà khoa học.
11
Mặt khác, chưa có công trình khoa học nào nghiên chế định tổng hợp hình
phạt và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Do vậy, chế định tổng
hợp hình phạt cần được quan tâm hơn nữa trong công tác nghiên cứu khoa
học để hoàn thiện chế định này nhằm góp phần nâng cao hiệu quả trong công
tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay trên cả nước nói
chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép
khẳng định việc nghiên cứu đề tài "Tổng hợp hình phạt trong Luật hình sự
Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang" là đòi hỏi khách
quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về
chế định tổng hợp hình phạt dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng
chúng trong thực tiễn trên địa bàn tỉnh Hà Giang, từ đó luận văn đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về tổng hợp hình phạt trong luật hình
sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của hình
phạt này trong thực tiễn áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chính sau đây:
Một là, làm rõ hơn những vấn đề mang tính lý luận chung về chế định
tổng hợp hình phạt;
Hai là, nghiên cứu chế định tổng hợp hình phạt trong lịch sử pháp luật
hình sự từ năm 1945 đến nay để thấy được quá trình hình thành và phát triển
của chế định qua đó thấy được chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta
đối với chế định này;
Ba là, nghiên cứu một số trường hợp tổng hợp hình phạt cụ thể, có
xem xét đến thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang và trên cơ sở đó đưa
12
ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện những quy định về tổng hợp
hình phạt cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề lý luận chung về chế
định tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, kết hợp với việc nghiên
cứu đánh giá tình hình áp dụng chế định tổng hợp hình hình phạt trong thực tiễn
xét xử của Tòa án các cấp trên địa bàn tỉnh Hà Giang và những nguyên nhân của
những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện luật thực định
và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định tổng hợp hình phạt trong thực tiễn.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng việc tổng hợp
hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang trong 8 năm (2007-2014).
4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của đề tài luận văn là luận điểm của triết học
Mác - Lênin về chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng
mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình
sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội
Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: tác giả sử dụng
những phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh và phương pháp lịch sử.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn áp dụng vì công trình này đã giải quyết nhiều vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn liên quan tới chế định tổng hợp hình phạt
trong luật hình sự Việt Nam. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
13
Một là, xây dựng khái niệm tổng hợp hình phạt và các nguyên tắc tổng
hợp hình phạt. Phân tích, làm rõ các vấn đề liên quan đến chế định tổng hợp
hình phạt theo luật hình sự Việt Nam;
Hai là, nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của quá trình hình
thành và phát triển của chế định tổng hợp hình phạt trong luật hình sự Việt
Nam từ năm 1945 cho đến nay;
Ba là, nghiên cứu, phân tích các trường hợp tổng hợp hình phạt, tổng
hợp các quan điểm của các nhà khoa học và quá trình tình hình áp dụng của
Tòa án các cấp trên địa bàn tỉnh Hà Giang;
Bốn là, phân tích sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về tổng
hợp hình phạt luật hình sự Việt Nam hiện nay để chỉ ra những phương hướng,
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao chất
lượng hoạt động áp dụng chế định tổng hợp hình phạt trong Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện nay.
Với những điểm mới trên, hy vọng luận văn sẽ là một tài liệu tham
khảo bổ ích và cần thiết không chỉ cho những người quan tâm đến vấn đề tổng
hợp hình phạt mà còn đối với những người thực thi pháp luật nói chung, và cơ
quan xét xử nói riêng góp phần vào việc nghiên cứu những cơ sở khoa học và
thực tiễn để sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Bộ luật hình sự.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về tổng hợp hình phạt.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các trường hợp tổng hợp hình phạt trên
địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định tổng
hợp hình phạt của tòa án.
14
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔNG HỢP HÌNH PHẠT
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CHẾ ĐỊNH TỔNG HỢP HÌNH PHẠT
1.1.1. Khái niệm tổng hợp hình phạt
Theo nguyên tắc của luật hình sự thì một người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội và được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm thì phải
chịu hình phạt. Theo Điều 45 Bộ luật hình sự quy định: "Khi quyết định hình
phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm
tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự" [29]. Đây là
trường hợp người phạm một tội được quy định trong Bộ luật hình sự. Tuy
nhiên, nhiều trường hợp, người phạm tội phạm nhiều tội tương ứng với việc
tuyên nhiều hình phạt. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn xét xử cho thấy,
không phải người phạm nhiều tội nào cũng bị phát hiện và đem ra xét xử cùng
một lúc. Có trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội bị phát
hiện, được đưa ra xét xử cùng một lần và bị Tòa án tuyên nhiều hình phạt
(trường hợp phạm nhiều tội). Tuy nhiên, cũng có trường hợp bị cáo đang chấp
hành một bản án lại bị đem ra xét xử về một tội mà người đó đã phạm trước
hoặc sau khi có bản án đang chấp hành (trường hợp có nhiều bản án). Trong
các trường hợp trên, người bị kết án sẽ phải chịu nhiều hình phạt tương xứng
với tính chất, mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội. Hình phạt người bị
kết án phải chấp hành có thể cùng loại nhưng cũng có thể khác loại. Có loại
hình phạt có thể quy về cùng loại nhưng cũng có trường hợp bị cáo phải chấp
hành đồng thời nhiều hình phạt. Để đánh giá toàn diện về nhân thân người
phạm tội cũng như thể hiện đầy đủ nhất thái độ của Nhà nước đối với họ, khi
xét xử Tòa án phải tổng hợp tất cả các hình phạt đã tuyên thành hình phạt
chung. Mặt khác, việc tổng hợp hình phạt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan thi hành án khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
15
Tóm lại, tổng hợp hình phạt là việc Tòa án xác định hình phạt chung
cho người phạm tội bị kết án.
Trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 có bốn trường hợp khi xét
xử Tòa án phải tổng hợp hình phạt. Đó là: tổng hợp hình phạt trong trường
hợp phạm nhiều tội (Điều 50), tổng hợp hình phạt trong trường hợp có nhiều
bản án (Điều 51), tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm
nhiều tội (Điều 75) và tổng hợp hình phạt trong các trường hợp liên quan đến
án treo (khoản 5 Điều 60).
1.1.2. Ý nghĩa của tổng hợp hình phạt
Ý nghĩa thứ nhất, tổng hợp hình phạt đúng sẽ góp phần đạt được mục
đích và nâng cao hiệu quả của hình phạt. Có thể nói, hiệu quả của hình phạt là
mức độ đạt được khi áp dụng hình phạt đối với người bị kết án, hiệu quả hình
phạt càng cao thì kết quả đạt được trong thực tế càng gần với mục đích của
hình phạt. Nếu hình phạt được tuyên không đúng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội thì người phạm tội không thấy được tính
đúng đắn của bản án vì vậy không tích cực cải tạo để trở thành công dân tốt
cũng như không tạo được niềm tin trong nhân dân về tính nghiêm minh của
pháp luật. Do hình phạt chung được tuyên trên cơ sở tổng hợp hình phạt của
từng tội và trong giới hạn luật cho phép đối với từng loại hình phạt nên nó
đánh giá đầy đủ và toàn diện nhất của Nhà nước đối với tất cả các tội mà bị
cáo đã thực hiện, tương xứng với toàn bộ các tội mà bị cáo đã phạm. Nếu hình
phạt chung được tổng hợp không đúng sẽ làm mất tác dụng của hoạt động
quyết định hình phạt đối với từng tội và sẽ dẫn đến mục đích của hình phạt
không đạt được. Do vậy, tổng hợp hình phạt chính xác có vai trò rất lớn trong
việc nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt.
Ý nghĩa thứ hai, tổng hợp hình phạt đúng là góp phần củng cố pháp
chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Để tổng hợp hình phạt đúng Tòa án
trước tiên phải quyết định hình phạt đúng. Để quyết định hình phạt đúng Tòa
16
án phải nhận thức đúng và tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
về quyết định định hình phạt cũng như các quy định có liên quan. Mặt khác,
hình phạt tổng hợp có tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của các
hành vi phạm tội thì mới có tính thuyết phục, người bị kết án nhận thấy tính
chất sai trái của hành vi cũng như sự cần thiết của bản án đã tuyên, từ đó họ
sẽ tự giác chấp hành hình phạt. Bên cạnh đó, một hình phạt tổng hợp thỏa
đáng sẽ có tính chất phòng ngừa chung để họ tuân thủ pháp luật cũng như
nâng cao ý thức pháp luật, khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham
gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Ý nghĩa thứ ba, việc tổng hợp hình phạt đúng sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho các cơ quan thi hành án thực thi nhiệm vụ, góp phần tăng cường sự
phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong thực tế, nhiều khi người bị
kết án phải chịu nhiều hình phạt nhưng các hình phạt lại không được tổng
hợp, do vậy có nhiều bản án có hiệu lực nhưng phần hình phạt lại chưa được
chấp hành. Điều này dễ dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật ảnh hưởng
đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Ý nghĩa thứ tư, việc tổng hợp hình phạt đúng còn là sự đảm bảo
nguyên tắc công bằng trong luật hình sự nói riêng và công bằng xã hội nói
chung. Nguyên tắc công bằng trong luật hình sự là một người thực hiện nhiều
tội phạm thì phải chịu nhiều hình phạt. Công bằng trong xã hội là người phạm
tội phải trừng trị, người phạm nhiều tội phải bị trừng trị nhiều hơn người
phạm một tội.
1.2. CÁC NGUYÊN TẮC TỔNG HỢP HÌNH PHẠT
Theo nghĩa chung thì nguyên tắc được hiểu là "điều cơ bản định ra nhất
thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm" [74, tr. 694]. Mỗi ngành khoa học,
mỗi lĩnh vực cụ thể đề cập tới vấn đề nguyên tắc theo góc độ riêng, đặc thù cho
ngành khoa học hay lĩnh vực hoạt động đó. Trong khoa học pháp lý, nguyên
tắc trong luật hình sự là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ quá trình
17
xây dựng cũng như áp dụng các văn bản pháp luật hình sự. Tổng hợp hình phạt
là một chế định trong luật hình sự nên cũng chịu sự chỉ đạo của các nguyên tắc
chung của luật hình sự. Do vậy, các nguyên tắc tổng hợp hình phạt là những
tư tưởng chỉ đạo trong quá trình xây dựng và áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự để Tòa án tổng hợp hình phạt chính xác đối với người phạm tội.
Thứ nhất, mối quan hệ giữa các nguyên tắc tổng hợp hình phạt với các
nguyên tắc của luật hình sự là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Các
nguyên tắc của Luật hình sự là các nguyên tắc chung, đặc trưng cho tất cả các
chế định của Luật hình sự, còn nguyên tắc tổng hợp hình phạt là nguyên tắc
riêng đặc trưng cho chế định tổng hợp hình phạt. Nếu các nguyên tắc chung
của Luật hình sự là tư tưởng chỉ đạo cho toàn bộ quá trình xây dựng và áp
dụng pháp luật hình sự thì nguyên tắc tổng hợp hình phạt là những tư tưởng
chỉ đạo cho một giai đoạn hoạt động của Tòa án trong quá trình áp dụng quy
định tổng hợp hình phạt. Do chúng đều tồn tại khách quan và có mối quan hệ
mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau nên khi áp dụng chế định này phải căn
cứ vào các nguyên tắc chung của luật hình sự và những nguyên tắc đặc thù để
việc áp dụng quy định tổng hợp hình phạt chính xác và đạt hiệu quả cao.
Thứ hai, sự khác nhau giữa các nguyên tắc tổng hợp hình phạt với các
nguyên tắc của luật hình sự chủ yếu là mức độ cụ thể hóa và tính đặc trưng.
Cụ thể là các nguyên tắc tổng hợp hình phạt có tính cụ thể hóa cao hơn (chỉ
định hướng cho việc tổng hợp hình phạt) và chỉ đặc trưng cho một chế định
của luật hình sự - Chế định tổng hợp hình phạt. Còn các nguyên tắc của luật
hình sự định hướng chung cho việc xây dựng và áp dụng luật hình sự và đặc
trưng cho mọi chế định của luật hình sự.
Thứ ba, các nguyên tắc tổng hợp hình phạt là một nội dung trong
chính sách hình sự của nước ta. Do đó, nội dung của các nguyên tắc tổng hợp
hình phạt phải phù hợp với chính sách hình sự nói riêng và chính sách của
Đảng và Nhà nước nói chung. Chính sách về tổng hợp hình phạt cũng chỉ là
18
một loại của chính sách hình sự, muốn thực hiện có hiệu quả thì nó phải được
thực hiện một cách đồng bộ trong toàn bộ chính sách chung của Đảng và Nhà
nước, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Trên cơ sở nội dung các quy phạm pháp luật hình sự Việt Nam về
tổng hợp hình phạt, tác giả nhận thấy có các nguyên tắc tổng hợp hình phạt
sau: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ
nghĩa, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc công bằng.
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng và thực hiện pháp luật một
cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác của tất cả các cơ quan Nhà nước, các
tổ chức và mọi công dân trong hoạt động của mình. Tư tưởng cơ bản bao trùm
của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là khi tổng hợp hình phạt, Tòa án
phải triệt để tuân thủ các quy định của luật hình sự. Nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự và có vai trò quan trọng
hàng đầu, vi phạm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thì cũng có nghĩa là
vi phạm các nguyên tắc khác ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, nếu
không hiểu đúng nội dung nguyên tắc này dễ dẫn đến máy móc, cứng nhắc
khi áp dụng các quy định pháp luật vào việc giải quyết vụ án cụ thể.
Nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tổng hợp
hình phạt được thể hiện cả trong luật hình sự và áp dụng luật hình sự.
Trong luật hình sự, nội dung nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tổng hợp hình phạt thể hiện qua việc nhà làm luật đã quy định rõ giới
hạn của hình phạt chung đối với từng loại hình phạt. Cụ thể: tại điểm a, khoản 1,
Điều 50 quy định " hình phạt chung không được vượt qua ba năm đối với
hình phạt cải tạo không giam giữ, ba mươi năm đối với hình phạt tù có thời
hạn" [29], hay ở khoản 2 Điều 50, Điều 74 cũng quy định tương tự. Nội dung
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa còn thể hiện ở chỗ luật đã có quy định
nhằm bảo đảm cho hiệu lực của bản án và bảo đảm tính nghiêm túc của pháp
19
luật. Đó là quy định tại khoản 3, Điều 51: "Trong trường hợp một người phải
chấp hành nhiều bản án có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án
chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án ra quyết định tổng hợp các bản án
theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này" [29]. Nguyên tắc pháp chế xã
hội chủ nghĩa trong tổng hợp hình phạt còn được thể hiện qua các quy định
thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với những kẻ phạm tội không
biết ăn năn, hối cải, coi thường pháp luật. Đó là quy định tại khoản 5, Điều 60:
"Đối với những người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian
thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án
trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 bộ
luật này" [29]. Hay trong quy định về tổng hợp hình phạt tại khoản 2, Điều 51
đối với một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới thì
hình phạt chung thực tế có thể rất nghiêm khắc với họ.
Trong áp dụng luật hình sự, nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa được thể hiện qua những việc cụ thể sau:
Thứ nhất, khi tổng hợp hình phạt Tòa án phải áp dụng đúng các quy
định về tổng hợp hình phạt trong luật hình sự và các văn bản có liên quan.
Các quy định về tổng hợp hình phạt phải được hiểu và áp dụng thống nhất
trong cả nước.
Thứ hai, khi tổng hợp hình phạt Tòa án phải nêu rõ căn cứ pháp lý
được ghi trong bản án, tức là Tòa án phải ghi rõ điều, khoản, điểm đã vận
dụng. Đây là công việc hết sức quan trọng của Tòa án khi tuyên án vì nó làm
cho bản án mang tính hợp pháp, có sức thuyết phục. Hơn nữa, nó còn là cơ sở
để Tòa án cấp trên giám sát, kiểm tra việc xét xử của Tòa án cấp dưới, phát
hiện và sửa chữa kịp thời những sai sót của Tòa án cấp dưới.
Thứ ba, khi tổng hợp hình phạt Tòa án phải tuân thủ cách thức tổng
hợp hình phạt nghĩa là Tòa án phải trên cơ sở các hình phạt riêng đối với từng
tội, từng bản án rồi mới tổng hợp thành hình phạt chung. Điều này cũng rất
20
quan trọng, bởi vì hình phạt chung là sự phản ánh đầy đủ và toàn diện những
đánh giá của Tòa án đối với tất cả các tội mà bị cáo đã thực hiện do đó nó
phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tất cả các
tội đó. Nếu hình phạt chung được tổng hợp không đúng sẽ làm mất tác dụng
của hoạt động quyết định hình phạt và từ đó làm cho mục đích hình phạt
không đạt được.
1.2.2. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
Theo Từ điển Triết học thì nhân đạo được hiểu là "tổng hợp những
quan điểm thể hiện sự tôn trọng phẩm giá và quyền con người, sự chăm lo
đến hạnh phúc, sự phát triển toàn diện, chăm lo đến việc tạo ra những điều
kiện sinh hoạt xã hội thuận lợi cho nó" [70, tr. 402]. Tư tưởng nhân đạo luôn
thể hiện rõ nét trong đường lối chính sách của Đảng và các văn bản pháp luật
của Nhà nước. Trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật hình sự
nước ta nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc xuyên suốt cả
trong luật hình sự nói chung và cả trong mỗi chế định nói riêng.
Nội dung nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong tổng hợp hình
phạt được thể hiện cả trong luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự.
Trong luật hình sự, nội dung nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa
trong tổng hợp hình phạt được thể hiện qua các quy định đối với người chưa
thành niên phạm tội, các quy định về giới hạn mức cao nhất đối với từng loại
hình phạt khi tổng hợp hình phạt.
Tại khoản 5, Điều 69 Bộ luật hình sự quy định: "Không xử phạt tù chung
thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có
thời hạn, Tòa án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ
hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng" [29].
Hay tại Điều 74 luật đã quy định rõ giới hạn mức phạt tù có thời hạn đối với
người chưa thành niên. Đây đều là những quy định có lợi cho người chưa
thành niên phạm tội. Nó thể hiện rõ chính sách hình sự nhân đạo của Nhà
21
nước đối với loại chủ thể đặc biệt này. Hình phạt đối với người chưa thành
niên chủ yếu mang tính giáo dục nhằm đưa các em trở về làm người có ích
cho xã hội.
Điều 50 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định giới hạn mức cao nhất
của hình phạt chung đối với từng loại hình phạt. Ví dụ: Khoản 1 quy định:
"Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù
có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình
phạt chung không được vượt quá ba năm đối với hình phạt cải tạo không giam
giữ, ba mươi năm đối với hình phạt tù có thời hạn" [29]. Việc quy định giới
hạn mức cao nhất của hình phạt chung suy đến cùng cũng là thể hiện tinh thần
nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước bởi lẽ nếu không có quy
định này thì người phạm tội có thể phải chịu một mức hình phạt bất lợi hơn
rất nhiều (có thể hình phạt chung sẽ lên tới 40 năm, 50 năm). Khi đó, hình
phạt mang tính chất trừng trị nhiều hơn.
Trong áp dụng luật hình sự:
Thứ nhất,nội dung nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa thể hiện
trước hết ở việc Tòa án khi xét xử phải chú ý đến đặc điểm tốt về nhân thân
của người phạm tội như: Thái độ với lao động sản xuất, công tác, học tập, lối
sống, phạm tội lần đầu, Trong đó, cần chú ý đến thái độ đối với lao động có
ích cho xã hội vì nó là tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá con người và khả năng
đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội. Do vậy, Toà án khải xem
đạt đến những đặc điểm nhân thân tốt của người phạm tội để tuyên một hình
phạt nhẹ hơn cho bị cáo. Hình phạt chung được quyết định trên cơ sở các hình
phạt riêng của từng tội do đó để thể hiện được tinh thần nhân đạo trong hình
phạt chung thì nó phải được thể hiện ngay trong khi quyết định hình phạt đối
với từng tội để hướng họ trở thành công dân có ích cho xã hội.
Thứ hai, khi quyết định hình phạt cũng như tổng hợp hình phạt, Tòa
án luôn thể hiện thái độ khoan hồng của pháp luật, luôn đặt mục đích cải tạo,
22
giáo dục người phạm tội trở thành công dân tốt là mục đích quan trọng hàng
đầu vì nó là mục đích cơ bản nhất, chủ yếu nhất. Việc tổng hợp hình phạt nếu
quá thiên về mục đích trừng phạt thì người phạm tội dễ nảy sinh tâm lý tiêu
cực, chống đối pháp luật, không chịu cải tạo. Như C. Mác đã nói: Cả lịch sử
lẫn lý trí đều xác nhận như nhau cái sự thật là: Sự tàn nhẫn không đếm xỉa tới
bất kỳ sự khác biệt nào, làm cho sự trừng phạt trở lên hoàn toàn vô hiệu, bởi
vì sự tàn nhẫn thủ tiêu sự trừng phạt với tư cách là một kết quả của pháp luật.
Để việc tổng hợp đúng và mang tính nhân đạo thì việc quyết định một hình
phạt đúng và mang tính nhân đạo đòi hỏi Tòa án phải có thái độ khoan hồng
với người phạm tội khi họ có tình tiết giảm nhẹ. Điều đó có nghĩa nếu người
phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì hình phạt áp dụng cho họ càng được
giảm nhẹ hơn so với trường hợp không có tình tiết giảm nhẹ hoặc có ít tình
tiết giảm nhẹ (trong điều kiện các tình tiết khác tương đương). Đó chính là cơ
sở để việc tổng hợp đúng và mang tính nhân đạo. Đồng thời phải xử lý hài
hòa giữa hai mặt: Nhân đạo đối với người phạm tội và bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, xã hội và công dân sao cho hai mặt này phù hợp với mục đích cải tạo,
giáo dục con người và đạt được những yêu cầu của công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Do đó, Tòa án cần xem xét để đưa ra mức hình phạt phù hợp
nhất, thể hiện thái độ khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội để
việc tổng hợp hình phạt sẽ đem lại hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, đối với người chưa thành niên phạm tội, khi xét xử Tòa án
phải xem xét đến tâm sinh lý, nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo
để tuyên hình phạt thực sự mang tính giáo dục.
Ngoài ra, nội dung nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong áp
dụng luật hình sự còn thể hiện qua việc các quy định mới có tính nghiêm khắc
hơn của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ được
áp dụng đối với các hành vi phạm tội xảy ra kể từ ngày 1-7-2000, là ngày Bộ
luật hình sự năm 1999 có hiệu lực.
23
1.2.3. Nguyên tắc cá thể hóa trong tổng hợp hình phạt
Cá thể hóa hình phạt là một trong những nguyên tắc quan trọng,
nguyên tắc đặc thù của chế định hình phạt. Tư tưởng bao trùm của nguyên
tắc này là hình phạt phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, phù hợp với nhân thân người phạm tội cũng như
hoàn cảnh phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để
lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội sao cho
hợp lý, công bằng và nhân đạo tạo tiền đề cho việc đạt được mục đích của
hình phạt.
Trong luật hình sự, hình phạt chung được tuyên trên cơ sở từng hình
phạt riêng đối với từng tội do đó nội dung nguyên tắc cá thể hóa trong tổng
hợp hình phạt trước hết phải tuân theo nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong
hoạt động quyết định hình phạt, sau đó là những nội dung riêng của tổng hợp
hình phạt. Cá thể hóa trong luật hình sự quy định cho mọi trường hợp phạm
tội, còn cá thể hóa trong áp dụng luật hình sự thì áp dụng đối với từng trường
hợp cụ thể, từng vụ án cụ thể.
Ở phần chung của Bộ luật hình sự, nội dung nguyên tắc cá thể hóa
hình phạt được thể hiện ở các quy định về: nguyên tắc xử lý tội phạm (Điều 3);
phân loại tội phạm (Điều 8); căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45); quyết định
hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 52);
quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 53); nguyên tắc xử lý
người chưa thành niên phạm tội (Điều 69, Điều 74, Điều 75).
Ở phần các tội phạm, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong quyết định
hình phạt được thể hiện ở chỗ các chế tài quy định cho các tội phạm cụ thể
chủ yếu là chế tài lựa chọn. Hầu hết các tội phạm cụ thể đều có các khung
hình phạt với mức hình phạt nặng nhẹ khác nhau. Do vậy, tùy từng trường
hợp cụ thể Tòa án quyết định hình phạt phù hợp với tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội.
24
Trong các quy định về vấn đề tổng hợp hình phạt trong Bộ luật hình sự
năm 1999, nội dung nguyên tắc cá thể hóa được thể hiện qua quy định về cách
thức tổng hợp hình phạt. Theo các quy định đó thì khi tổng hợp hình phạt trong
trường hợp phạm nhiều tội, Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội sau
đó mới tổng hợp thành hình phạt chung. Trong trường hợp tổng hợp hình phạt
của nhiều bản án, Tòa án quyết định hình phạt cho tội đang bị xét xử, sau đó
tổng hợp với bản án trước thành hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành.
Cũng trong trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, ở mỗi trường
hợp luật lại quy định cách thức tổng hợp khác nhau phù hợp với từng chính
sách hình sự của Nhà nước. Đối với tổng hợp hình phạt trong trường hợp có
liên quan đến án treo, cũng đã có đường lối xử lý riêng giữa trường hợp người
được hưởng án treo lại phạm tội mới trong thời gian thử thách và trường hợp
người được hưởng án treo đang chấp hành thời gian thử thách lại bị xét xử về
tội đã thực hiện trước khi có bản án cho hưởng án treo. Đối với tổng hợp hình
phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, luật đã có quy định
riêng về cách thức tổng hợp hình phạt đối với người phạm nhiều tội, có tội
thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi.
Trong áp dụng luật hình sự, vì để tổng hợp hình phạt được, Tòa án
phải dựa trên cơ sở việc quyết định hình phạt đối với từng tội cụ thể, từng bản
án nên nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong tổng hợp hình phạt thể hiện
trước hết qua việc quyết định hình phạt đối với từng tội. Theo đó, hình phạt
đã tuyên phải tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội. Hình phạt chung được tổng hợp trên cơ sở quyết định đối
với từng tội nên cá thể hóa quyết định hình phạt đối với từng tội cụ thể, từng
bản án cụ thể là cơ sở để cá thể hóa trong việc tổng hợp hình phạt đối với
nhiều tội, nhiều bản án.
Nội dung của nguyên tắc cá thể hóa hình phạt cần được thể hiện ở chỗ
khi quyết định hình phạt, Tòa án phải xem xét những đặc điểm thuộc về nhân
25
thân người phạm tội. Nhân thân của người phạm tội trong luật hình sự được
hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa đối
với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ. Những đặc
điểm đó có thể là tuổi, nghề nghiệp, thái độ làm việc, thái độ trong mối quan
hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và
đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự
Việc làm sáng tỏ và cân nhắc các đặc điểm thuộc về nhân
thân người phạm tội giúp ta hiểu được quá khứ, hiện tại và khả năng
cải tạo, giáo dục của người phạm tội, xác định được các nguyên
nhân điều kiện của việc thực hiện tội phạm, xác định được mức độ
lỗi của bị cáo. Tất cả những tình tiết đó có ý nghĩa rất lớn đối với
việc cá thể hóa hình phạt [75, tr. 14].
Nội dung nguyên tắc cá thể hóa hình phạt còn yêu cầu khi quyết định
hình phạt, Tòa án phải xem xét đến các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị cáo vì đây là một trong những cơ sở để đánh giá mức
độ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, từ đó làm cơ sở cho
Tòa án quyết định hình phạt được đúng đối với người phạm tội. Để quyết
định được hình phạt đúng, đòi hỏi Tòa án cần tuân thủ chặt chẽ quy định về
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 46,48 Bộ
luật hình sự.
1.2.4. Nguyên tắc công bằng trong tổng hợp hình phạt
Trong quyết định hình phạt, nguyên tắc công bằng được hiểu là hình
phạt phải phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội,
không phân biệt giới tính, dân tộc, địa vị, tôn giáo, tín ngưỡng, thành phần
xuất thân, tình trạng tài sản của người phạm tội. Hình phạt càng phù hợp với
hành vi phạm tội thì nguyên tắc công bằng càng được thực hiện có hiệu quả.
Nguyên tắc công bằng trong quyết định hình phạt theo học giả Von
Hirsch tại cuốn sách "Doing justice" thì "trong khi mọi người còn bất đồng về