Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự việt nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 109 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NG NGC HUY

miễn trách nhiệm hình sự
theo luật hình sự việt nam và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh đắk lắk

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NG NGC HUY

miễn trách nhiệm hình sự
theo luật hình sự việt nam và thực tiễn áp dụng
trên địa bàn tỉnh đắk lắk
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. TRNH TIN VIT

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn bảo đảm độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa từ
các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ.
Tác giả luận văn

Đặng Ngọc Huy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ .............................................................................................. 8
1.1.

KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ..... 8

1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự .................................................... 8
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định miễn trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự Việt Nam ................................................................................ 15

1.2.

KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
CÁC QUY ĐỊNH VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG
THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN NAY .............................................. 18

1.2.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước
pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 .... 18
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến khi
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ...... 24
1.3.

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ............................ 28

1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga ........................................................... 29
1.3.2. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển ............................................. 33
1.3.3. Bộ luật hình sự Tây Ban Nha .............................................................. 37
1.3.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào .............................. 38


Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ................................... 40
2.1.

QUY ĐỊNH CỦA PHẦN CHUNG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ.................................... 41


2.1.1. Trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ......................... 41
2.1.2. Trường hợp do sự chuyển biến của tình hình ..................................... 42
2.1.3. Trường hợp do hành vi tích cực của người phạm tội .......................... 46
2.1.4. Trường hợp khi có quyết định đại xá .................................................. 49
2.1.5. Trường hợp đối với người chưa thành niên phạm tội ......................... 50
2.2.

QUY ĐỊNH CỦA PHẦN CÁC TỘI PHẠM BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ........ 52

2.2.1. Trường hợp đối với người phạm tội gián điệp .................................... 52
2.2.2. Trường hợp đối với người phạm tội đưa hối lộ .................................. 54
2.2.3. Trường hợp đối với người phạm tội làm môi giới hối lộ .................... 55
2.2.4. Trường hợp đối với người phạm tội không tố giác tội phạm ............. 57
2.3.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ................................................... 58

2.3.1. Khái quát chung về tình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk ........................................................................... 58
2.3.2. Thực tiễn áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trên địa bàn tỉnh
Đắk Lắk ............................................................................................... 59
2.3.3. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn áp dụng và các nguyên nhân
cơ bản .................................................................................................. 67
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ
NHỮNG KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ....... 74



3.1.

SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ......................... 74

3.1.1. Về phương diện thực tiễn áp dụng ...................................................... 74
3.1.2. Về phương diện lý luận ....................................................................... 75
3.1.3. Về phương diện lập pháp hình sự ....................................................... 76
3.2.

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ ................... 77

3.2.1. Nhận xét .............................................................................................. 77
3.2.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung.................................................................. 81
3.3.

NHỮNG KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG QUY ĐỊNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ .................................................... 84

3.3.1. Sửa đổi, bổ sung thống nhất về căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự ................................ 84
3.3.2. Sự tham gia của các cơ quan, tổ chức và gia đình người được
miễn trách nhiệm hình sự để giám sát, quản lý và giáo dục ............... 85
3.3.3. Nâng cao ý thức pháp luật, năng lực, trình độ chuyên môn của
người có thẩm quyền áp dụng miễn trách nhiệm hình sự ................... 88
3.3.4. Tăng cường hiệu quả của Viện kiểm sát trong việc đình chỉ điều
tra, đình chỉ vụ án do miễn trách nhiệm hình sự ................................. 89

KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 96


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng

Tên bảng

Bảng 2.1. Hệ thống các đơn vị hành chính của tỉnh Đắk Lắk

Trang
58

Bảng 2.2. Số bị can, bị cáo được áp dụng miễn trách nhiệm
hình sự giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)

60

Bảng 2.3. Tình hình áp dụng khoản 1 Điều 25 Bộ luật hình sự,
khoản 2 Điều 105 và khoản 7 Điều 107 Bộ luật tố
tụng hình sự trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)

62

Bảng 2.4. Tổng số bị can, bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự về
một số tội phạm trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)

63


Bảng 2.5. Phân tích 28 vụ án được miễn trách nhiệm sự trong
giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)

66


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1. Tổng số vụ án được các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh
Đắk Lắk áp dụng miễn trách nhiệm hình sự trong giai
đoạn 05 năm (2009 - 2013)

60

Biểu đồ 2.2. Tổng số bị can, bị cáo được các cơ quan tiến hành tố
tụng tỉnh Đắk Lắk áp dụng miễn trách nhiệm hình sự
trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)

61

Biểu đồ 2.3. Tổng số vụ án và tổng số bị can, bị cáo được miễn trách
nhiệm hình sự trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013)


61


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Tiếp tục hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật phục vụ cho công
cuộc đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội được coi là một
trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước ta hiện nay, tiến tới xây dựng
một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Trong Nhà nước pháp quyền đó, pháp luật luôn luôn là một công cụ
quan trọng để Nhà nước thực hiện sự quản lý đối với toàn xã hội, đồng thời
pháp luật cũng là một công cụ để củng cố và bảo vệ sự tồn tại của Nhà nước.
Điều đặc biệt hơn chính là quyền con người, quyền công dân được coi trọng
và bảo đảm và đã được đề cập trong một Chương II của Hiến pháp mới năm
2013. Mọi hoạt động của Nhà nước, của cá nhân nào đó đi ngược lại với lợi
ích hợp pháp của con người, xâm phạm tới quyền công dân đã được Hiến
pháp và pháp luật quy định đều phải bị lên án và bị xử lý nghiêm khắc.
Ngoài ra, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng
sản năm 2011 đã đề ra:
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo
vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính
sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ
chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ,
đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ
quan và chức danh tư pháp... [12, tr.250], hạn chế tiến tới đẩy lùi tội
phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội... [12, tr.80].
Trong luật hình sự Việt Nam, miễn trách nhiệm hình sự là một chế định


1


nhân đạo, nhân văn, phản ánh nguyên tắc xử lý “nghiêm trị kết hợp với khoan
hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục thuyết phục”, cũng như phản ánh yêu cầu “không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu
tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội” [60, tr.274]. Vì
vậy, việc áp dụng chính xác quy định về miễn trách nhiệm hình sự không
những góp phần củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững
chắc các quyền và tự do của công dân bằng pháp luật hình sự, mà còn bảo đảm
đấu tranh phòng, chống tội phạm và đa dạng hóa hơn nữa các biện pháp xử lý.
Đặc biệt, hoàn thiện quy định Bộ luật hình sự nước ta về miễn trách nhiệm hình
sự còn góp phần thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 về “Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị
đã quy định các nhiệm vụ cải cách tư pháp đã đề cập:
Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư
pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ
tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng
thiện trong việc xử lý người phạm tội...
Ngoài ra, miễn trách nhiệm hình sự cũng là một vấn đề phức tạp và
luôn thu hút được sự quan tâm của các nhà khoa học pháp lý. Cho đến nay, đã
có nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết về vấn đề này. Tuy vậy, vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thống nhất như: khái niệm, đặc điểm, hậu quả pháp lý,
cũng như chưa tổng kết thực tiễn xét xử. Hiện nay, trên địa bàn cả nước nói
chung, địa bàn tỉnh Đắk Lắk nói riêng, các cơ quan tiến hành tố tụng ít nhiều
còn gặp khó khăn trong việc áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về miễn trách nhiệm hình sự. Theo đó, hiện tượng sai hay bỏ lọt tội phạm,
nhầm lẫn giữa miễn trách nhiệm hình sự với loại trừ trách nhiệm hình sự, với
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc cho miễn trách nhiệm hình sự để


2


tránh bồi thường oan, sai vẫn xảy ra; v.v... Do đó, lợi ích của con người, của
xã hội và của Nhà nước ở một góc độ nào đó chưa kịp thời được bảo đảm,
hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm còn chưa cao. Nguyên nhân của
tình hình trên là do có sự nhận thức về các trường hợp miễn trách nhiệm hình
sự chưa đúng và cơ quan tiến hành tố tụng nghiên cứu chưa kỹ các tình tiết
của vụ án. Một số quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về miễn trách
nhiệm hình sự còn nhiều chỗ chưa rõ ràng, văn bản giải thích hướng dẫn áp
dụng không cụ thể, còn sơ sài không hệ thống, khó áp dụng chế định miễn
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội; v.v...
Đặc biệt, căn cứ vào Nghị quyết số 07/2011/QH13 ngày 06/8/2011 của
Quốc hội khóa XIII về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2012 và
điều chỉnh chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2011 và Định hướng
sửa đổi Bộ luật hình sự do Ban Soạn thảo Bộ luật hình sự (sửa đổi) ban hành.
Theo đó, điểm 1.2 tiểu mục 1 Phần IV - Định hướng cơ bản sửa đổi Bộ luật
hình sự trong Đề cương định hướng sửa đổi, bổ sung số 7724/ĐC-BST (SĐ)
ngày 24/9/2012 yêu cầu: “Sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật hình sự
liên quan đến các chế định loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm
hình sự, miễn, giảm hình phạt, xóa án tích…”. Gần đây, ngày 10/9/2012, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1236/QĐ-TTg về việc “Phê
duyệt Kế hoạch tổng kết thi hành Bộ luật hình sự năm 1999” và Bộ Tư pháp
đã công bố Dự thảo Bộ luật hình sự sửa đổi để lấy ý kiến nhân dân (ngày
06/01/2015 trên Website của Bộ Tư pháp) [67] và ngày 24/5/2015 đã có Dự
thảo Bộ luật hình sự trình Quốc hội cho ý kiến [38]. Theo đó, việc tổng kết và
lấy ý kiến đóng góp này nhằm đánh giá một cách khách quan và đầy đủ thực
tiễn hơn mười năm thi hành Bộ luật hình sự, từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi,
bổ sung Bộ luật hình sự, trong đó có chế định miễn trách nhiệm hình sự, góp

phần đáp ứng yêu cầu mới trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện
đại hóa, hội nhập khu vực và quốc tế của đất nước.

3


Vì vậy, từ các lý do đã nêu trên, học viên quyết định chọn đề tài: “Miễn
trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu chủ đề về “miễn trách nhiệm hình sự” cho thấy đã có nhiều
công trình nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp về vấn đề này trên các sách báo
pháp lý hình sự ở trong và ngoài nước như sau:
* Dưới góc độ sách báo pháp lý nước ngoài, đó là những công trình sau
đây: 1) Michael Bogdan (chủ biên), Mục 4 - Miễn trách nhiệm hình sự, trong
sách: Luật hình sự Thụy Điển trong kỷ nguyên mới, Nxb. Elanders Gotab,
Stockholm, 2000; 2) TS. Agnê Barans Kaitê và TS. Jonas Prapistis, Miễn
trách nhiệm hình sự và mối quan hệ với Hiến pháp và tư pháp, Tạp chí Tư
pháp, Cộng hòa Látvia, số 7 (85)/2006; một số công trình khoa học bằng tiếng
Nga được dẫn ra trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội,
2005 của GS.TSKH. Lê Văn Cảm [9, tr.993-1001]; v.v...
* Dưới góc độ sách chuyên khảo, giáo trình trong nước, có các công
trình sau đây: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm, Mục III - Chế định miễn trách
nhiệm hình sự, Chương 8, trong Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề
cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung), Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2005; 2) GS. TSKH. Lê Cảm (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và miễn
trách nhiệm hình sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005; 3) TS. Trịnh Tiến Việt,
Chương 3, Trong sách: Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013 và, Pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm

hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; v.v…
* Dưới góc độ bài viết trên các tạp chí trong nước, có các công trình
sau đây: 1) GS. TSKH. Lê Cảm, Về các dạng miễn trách nhiệm hình sự được

4


quy định tại Điều 25 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999, Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 01/2001; 2) GS. TSKH. Lê Cảm, TS. Trịnh Tiến Việt, Phân biệt
miễn trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt, Tạp chí Khoa học pháp lý, số
2/2004; 3) PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chế định miễn trách nhiệm hình sự
trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học (chuyên san Luật), số 4/1997;
4) PGS. TS. Lê Thị Sơn, Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự,
Tạp chí Luật học, 5/1997; 5) PGS. TS. Phạm Hồng Hải, Về chế định miễn
trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, số 12/2001; 6) TS. Trịnh Tiến Việt, Hoàn thiện các quy định về
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt và án
treo, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 11, 12(6)/2013; v.v...
Đặc biệt, tác giả Trịnh Tiến Việt thực hiện công trình “Những vấn đề lý
luận và thực tiễn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam”
làm luận án tiến sĩ luật học tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm
2008. Tuy nhiên, từ đó đến nay vẫn chưa có tác giả nào tiếp tục nghiên cứu về
vấn đề này, đặc biệt từ khi có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
hình sự năm 2009, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn một tỉnh
cụ thể mà an ninh, trật tự rất cần ổn định (địa bàn tỉnh Đắk Lắk). Vì vậy, việc
lựa chọn đề tài đã nêu để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn
tỉnh Đắk Lắk, góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng rõ ràng vẫn
có tính thời sự cấp bách hiện nay.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích làm sáng tỏ về phương diện lý luận các trường
hợp miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam và việc áp dụng vào
thực tiễn trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các
nguyên nhân cơ bản, từ đó đề xuất hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự,

5


cũng như những kiến nghị khác nâng cao hiệu quả áp dụng, qua đó góp phần
đấu tranh phòng, chống tội phạm và giáo dục, cải tạo người phạm tội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn có phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn về
những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam (khái
niệm, bản chất pháp lý và nội dung cơ bản, có so sánh với Bộ luật hình sự một
số nước), đồng thời đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013), chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các
nguyên nhân cơ bản để đề xuất hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về
miễn trách nhiệm hình sự, đồng thời có những kiến nghị khác nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định đó.
4. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật
hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
1) Xây dựng khái niệm miễn trách nhiệm hình sự và phân tích ý nghĩa
của việc quy định, đồng thời làm sáng tỏ những đặc điểm cơ bản của miễn
trách nhiệm hình sự;
2) Hệ thống hóa lịch sử hình thành và phát triển của các quy định về
miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam từ Sau Cách mạng tháng

Tám năm 1945 đến nay để rút ra nhận xét, đánh giá;
3) Nghiên cứu, so sánh quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam với
Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về miễn trách nhiệm hình sự để rút
ra nhận xét, đánh giá;
4) Phân tích quy định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về miễn
trách nhiệm hình sự và đánh giá thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk

6


trong giai đoạn 05 năm (2009 - 2013) của những cơ quan tiến hành tố tụng, từ
đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;
5) Luận chứng và kiến nghị hoàn thiện quy định về miễn trách nhiệm
hình sự theo Bộ luật hình sự Việt Nam, cũng như đưa ra kiến nghị nâng cao
hiệu quả áp dụng các quy định đó.
5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, giáo dục, cải tạo người phạm
tội. Đồng thời dựa trên những thành tựu của khoa học như: triết học, luật hình
sự, luật tố tụng hình sự, Tội phạm học...
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống… để tổng hợp các tri thức khoa
học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu.
Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn dựa vào thực tiễn xét xử cũng như
số liệu của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn 05 năm
(2009 - 2013) trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm ba chương với tên gọi như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về miễn trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về miễn trách nhiệm
hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
miễn trách nhiệm hình sự và những kiến nghị nâng cao
hiệu quả áp dụng.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ MIỄN TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH MIỄN
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Tội phạm và các hình thức biểu hiện của nó ra thế giới khách quan rất
đa dạng, phong phú và đều có sự khác nhau về tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội, hình thức lỗi, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ, phương tiện
phạm tội hay nhân thân người phạm tội... Cho nên, điều đó đòi hỏi các nhà
làm luật Việt Nam cố gắng ở mức tối đa làm sao điều chỉnh được các hình
thức xử lý khác nhau và vừa phải thể hiện chính sách phân hóa tội phạm và
người phạm tội - để có đường lối xử lý phù hợp, chính xác và công bằng,
nhưng mặt khác - cũng phải bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc
của luật hình sự nước ta, qua đó còn phản ánh nguyên tắc “nghiêm trị kết hợp
với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục” trong chính
sách hình sự của Nhà nước đối với việc cải tạo, giáo dục người phạm tội và
phòng ngừa tội phạm. Sự thể hiện nội dung này phản ánh qua nội dung các

nguyên tắc xử lý tại Điều 3 Bộ luật hình sự. Điều này đúng như GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa đã nhận định: “Trách nhiệm hình sự càng được phân hóa
trong luật thì càng tạo điều kiện cho cá thể hóa trách nhiệm hình sự trong áp
dụng” [17, tr.28].
Miễn trách nhiệm hình sự xuất hiện khi có trách nhiệm hình sự, khái
niệm, nội dung của miễn trách nhiệm hình sự được bắt nguồn từ trách nhiệm
hình sự. Do đó, làm sáng tỏ nội dung của trách nhiệm hình sự thì sẽ phản ánh
hình thức của trách nhiệm hình sự là miễn trách nhiệm hình sự [59, tr.40].

8


Trước hết, Đại từ điển Tiếng Việt định nghĩa “trách nhiệm” được
hiểu đơn giản là: “điều phải làm, phải gánh vác hoặc phải nhận lấy về
mình” [63, tr.1621]. Còn trong thực tiễn pháp lý, “trách nhiệm” thường được
hiểu theo nghĩa tiêu cực, là hậu quả bất lợi của một người đã thực hiện hành
vi vi phạm bổn phận, nghĩa vụ phải gánh chịu trước người khác, trước Nhà
nước. Chính vì thế, “trách nhiệm hình sự” là thuật ngữ được dùng để áp dụng
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, đồng thời là một dạng
của trách nhiệm pháp lý.
Tổng hợp các quan điểm và các tiếp cận khác nhau về nội hàm khái
niệm trách nhiệm hình sự [65, p.7-8], theo người viết, khái niệm trách nhiệm
hình sự được hiểu thống nhất như sau - Trách nhiệm hình sự là một hình thức
(dạng) của trách nhiệm pháp lý, đồng thời là hậu quả pháp lý bất lợi trực tiếp
của việc thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc Tòa án áp dụng đối
với người phạm tội một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ
luật hình sự quy định.
Như vậy, ngoài những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm hình sự còn có các đặc điểm riêng như sau:
- Trách nhiệm hình sự là dạng trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất so

với bất kỳ dạng trách nhiệm pháp lý nào khác. Trách nhiệm hình sự chính là
sự phản ánh việc lên án hành vi phạm tội của người phạm tội thông qua việc
Nhà nước quy định, áp dụng các biện pháp cưỡng chế về hình sự đối với
người đã thực hiện tội phạm;
- Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc thực hiện tội phạm
và chỉ xuất hiện khi có sự việc phạm tội. Vì vậy, lôgíc là, trách nhiệm hình
sự sẽ “tồn tại khách quan mà không phụ thuộc vào việc các cơ quan hay
người có thẩm quyền đã phát hiện được tội phạm và người phạm tội hay
chưa” [13, tr.101].

9


- Trách nhiệm hình sự chỉ được thực hiện trong phạm vi của quan hệ
pháp luật hình sự giữa hai bên với tính chất là hai chủ thể có các quyền và
nghĩa vụ nhất định - một bên là Nhà nước, còn bên kia là người phạm tội. Cho
nên, thời điểm phát sinh cơ sở của trách nhiệm hình sự là thời điểm một người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội
phạm, nhưng có thể trách nhiệm hình sự sẽ không được thực hiện trên thực tế,
nếu có những điều kiện để miễn trách nhiệm hình sự cho người đó theo quy
định của Bộ luật hình sự trên những cơ sở chung [59, tr.56].
- Trách nhiệm hình sự phản ánh tính chất công - chỉ có Nhà nước mới
có quyền buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự và ngược lại,
trách nhiệm hình sự của người phạm tội ở đây là trước Nhà nước, trước xã hội
chứ không phải trước cơ quan, đơn vị hay bất kỳ cá nhân nào;
- Trách nhiệm hình sự mang tính chất cá nhân và chỉ được áp dụng đối
với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy
định là tội phạm; đồng thời nó được thể hiện trong bản án kết tội đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án áp dụng đối với người phạm tội một hoặc nhiều biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước do Bộ luật hình sự quy định. Bản án kết tội đã

có hiệu lực pháp luật của Tòa án là cơ sở pháp lý quan trọng xác nhận một
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là
tội phạm chính thức bị coi là “có tội”.
Tóm lại, có tội phạm mới có người phạm tội, có người phạm tội mới
đặt ra vấn đề trách nhiệm hình sự. Có tội phạm, có trách nhiệm hình sự mới
có hình phạt, có trách nhiệm hình sự mới có miễn trách nhiệm hình sự. Nội
dung của trách nhiệm hình sự được phản ánh và ghi nhận trực tiếp tại Điều 2
(Cơ sở của trách nhiệm hình sự), Điều 8 (Tội phạm), Điều 9 (Cố ý phạm tội),
Điều 10 (Vô ý phạm tội), Điều 11 (Sự kiện bất ngờ), Điều 12 (Tuổi chịu trách
nhiệm hình sự) và hàng loạt các điều luật khác trong Phần chung Bộ luật hình

10


sự xuyên suốt toàn bộ các quy định của toàn bộ Bộ luật hình sự. Một người hay bất kỳ người nào chỉ có thể (hoặc) phải chịu trách nhiệm hình sự khi có
đầy đủ cơ sở và những điều kiện của trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
được thực hiện. Cơ sở của trách nhiệm hình sự dưới góc độ pháp lý được quy
định tại Điều 2, còn những điều kiện của nó mặc dù chưa được quy định,
nhưng có thể hiểu chúng tương ứng với năm đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của
tội phạm mà GS.TSKH. Lê Văn Cảm đã chỉ ra, bao gồm [9, tr.635]:
- Người đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội;
- Hành vi do người đó thực hiện là tội phạm do Bộ luật hình sự quy
định, xâm phạm đến các quan hệ được Bộ luật hình sự xác lập và bảo vệ;
- Người thực hiện hành vi đó phải có lỗi (cố ý hoặc vô ý);
- Người đó phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự;
- Người đó phải đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, nếu trách nhiệm hình sự được đặt ra đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội
phạm, thì miễn trách nhiệm hình sự cũng được áp dụng với đối tượng này
khi có các căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự. Do đó, trên bình diện pháp

lý, xã hội, đây chính là đòi hỏi của nguyên tắc công bằng trong luật hình sự
Việt Nam thể hiện ở chỗ, việc áp dụng trách nhiệm hình sự và miễn trách
nhiệm hình sự phải bình đẳng và đúng pháp luật đối với tất cả các trường
hợp thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được
Bộ luật hình sự quy định.
Như vậy, có khái niệm trách nhiệm hình sự mới có khái niệm miễn
trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự đặt ra góp phần bảo đảm
nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự. Tuy nhiên, tương
tự như trách nhiệm hình sự, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm
miễn trách nhiệm hình sự còn nhiều quan điểm khác nhau như sau:

11


Tác giả Michael Bogdan và tập thể tác giả cho rằng:
Miễn trách nhiệm hình sự là một nguyên tắc của luật hình sự
dựa trên cơ sở xung đột về lợi ích, dùng để chỉ ra rằng không có tội
phạm được thực hiện mặc dù trên thực tế hành vi của một người
nào đó đã thỏa mãn cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan đối
với một loại tội phạm. Nguyên tắc này được nhắc đến như là miễn
trách nhiệm hình sự và không phải là miễn hình phạt bởi vì bị cáo
không chỉ tránh khỏi hình phạt mà hơn thế nữa hành vi đó không
được coi là tội phạm trong những điều kiện miễn trừ... [66, p.184].
Quan điểm này chưa hợp lý vì không thể coi miễn trách nhiệm hình sự là
“một nguyên tắc của luật hình sự...” và cũng không thể coi rằng “không có tội
phạm được thực hiện mặc dù trên thực tế hành vi của một người nào đó đã thỏa
mãn cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan đối với một loại tội phạm” vì về
bản chất, hành vi của người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự đã thỏa
mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm tương ứng nào đó trong Phần các
tội phạm Bộ luật hình sự. Hơn nữa, người được miễn trách nhiệm hình sự hoàn

toàn đáp ứng các điều kiện với tư cách là chủ thể của tội phạm. Miễn trách
nhiệm hình sự khác biệt với trường hợp không có tội phạm trên thực tế về nội
dung, điều kiện, đối tượng bị áp dụng, bản chất và hậu quả pháp lý.
Hai tác giả Agnê Barans Kaitê và Jonas Prapiestis lại quan niệm:
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định được quy định
trong luật hình sự... phản ánh những nỗ lực của các nhà làm luật
trong việc phối hợp và bảo đảm sự đồng thuận giữa các lợi ích khác
nhau. Chế định này không chỉ bao hàm các tiền đề pháp lý mang
tính tiên quyết nhằm thực thi các nguyên tắc của trách nhiệm hình
sự, mà còn hàm chứa các nguyên tắc cơ bản như pháp chế, nhân
đạo, công bằng, bình đẳng, phân hóa và cá thể hóa trách nhiệm hình

12


sự (sự tương xứng giữa tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội và mức độ của trách nhiệm hình sự đối với hành vi đó),
qua đó Nhà nước tiết kiệm các chế tài tư pháp và các nguyên tắc
hiến định khác... [64, p.30].
Quan điểm này hợp lý vì chỉ ra được miễn trách nhiệm hình sự là một
chế định trong luật hình sự, bao hàm các tiền đề pháp lý mang tính tiên quyết
nhằm thực thi các nguyên tắc của trách nhiệm hình sự, đồng thời còn thể hiện
trong đó các nguyên tắc của luật hình sự, song nội hàm khái niệm lại đi sâu
vào chỉ rõ ý nghĩa - thực thi các nguyên tắc, tiết kiệm các chế tài tư pháp và
các nguyên tắc Hiến định khác, mà chưa làm rõ bản chất pháp lý, điều kiện áp
dụng [59, tr.95].
Còn trong khoa học luật hình sự Việt Nam, các nhà khoa học đều thống
nhất nội dung của khái niệm miễn trách nhiệm hình sự, chẳng hạn như:
- GS.TSKH. Lê Cảm chỉ rõ bản chất pháp lý và nêu:
Miễn trách nhiệm hình sự là một chế định nhân đạo của

luật hình sự Việt Nam và được thể hiện bằng việc xóa bỏ hậu quả
pháp lý của việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm đối với người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện
hành vi đó [5, tr.7].
- PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí nêu hậu quả pháp lý trực tiếp trong giai
đoạn tương ứng là xét xử, nhưng không ghi nhận thẩm quyền áp dụng: “Miễn
trách nhiệm hình sự là miễn kết tội cũng như áp dụng hình phạt đối với người
thực hiện tội phạm và do vậy họ không bị coi là có tội” [12, tr.14].
- PGS.TS. Kiều Đình Thụ nêu thẩm quyền áp dụng và đặc biệt là hình
thức pháp lý: “Miễn trách nhiệm hình sự là không truy cứu trách nhiệm hình sự
một người về việc đã thực hiện một tội phạm được quy định trong luật hình sự,
thể hiện trong một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền” [50, tr.238].

13


- TS. Trịnh Tiến Việt quan niệm nhấn mạnh mục đích và ý nghĩa của
chế định này:
Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc một người đáp ứng
những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do
việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu
cầu đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm, cũng như công tác giáo
dục, cải tạo người phạm tội [59, tr.97]; v.v...
Tuy nhiên, có quan điểm gắn với thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
Việt Nam của một nhà hoạt động thực tiễn có điểm hơi khác biệt. Theo đó, tác
giả coi loại trừ trách nhiệm hình sự có bản chất pháp lý khác với miễn trách
nhiệm hình sự, với không có sự việc phạm tội... nhưng tác giả lại khẳng định:
... suy cho cùng miễn trách nhiệm hình sự cũng là không bị
truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu người phạm tội không bị áp dụng
biện pháp xử lý gì)... đồng thời, tác giả cũng phân chia những

trường hợp này thành ba nhóm chính với 18 tình tiết khác nhau và
xếp chung các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự vào nhóm thứ
ba các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự [30, tr.6-7, 96].
Việc thừa nhận bản chất pháp lý là khác nhau nhưng lại căn cứ vào
thực tiễn áp dụng trường hợp một người không phải chịu biện pháp xử lý gì
về hậu quả pháp lý đối với hai chế định khác nhau là có sự mâu thuẫn, vì
miễn trách nhiệm hình sự và loại trừ trách nhiệm hình sự hoàn toàn khác.
Như vậy, về cơ bản, tất cả các quan điểm khoa học trong nước đều tương
đối thống nhất trong việc khẳng định rõ nội dung và bản chất pháp lý của miễn
trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo người viết, dưới góc độ khoa học luật
hình sự Việt Nam, khái niệm nghiên cứu được định nghĩa như sau: Miễn trách
nhiệm hình sự là việc cơ quan (hoặc người có thẩm quyền) trong các cơ quan
tiến hành tố tụng không buộc một người có đủ các điều kiện chủ thể của tội

14


phạm phải chịu hậu quả pháp lý của việc thực hiện hành vi phạm tội khi đáp
ứng các điều kiện do luật định, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng và
chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định miễn trách nhiệm hình sự trong
luật hình sự Việt Nam
Do đó, từ khái niệm đã nêu, căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam cho thấy sự cần thiết và ý nghĩa của việc quy định chế định này
như những đặc điểm cơ bản của nó phản ánh các nội dung sau đây:
* Ý nghĩa thứ nhất - miễn trách nhiệm hình sự thể hiện sự lên án hành
vi, người phạm tội từ phía Nhà nước
Một người phạm tội, phải chịu trách nhiệm hình sự, có nghĩa là phải
chịu sự lên án, trừng phạt của Nhà nước. Người được miễn trách nhiệm hình
sự, có nghĩa vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng có điều kiện để miễn

trách nhiệm hình sự, do đó, vẫn phải chịu sự lên án của Nhà nước đối với
mình, vì với người được miễn trách nhiệm hình sự, họ cũng đã thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, song với
người này, tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng, các cơ quan
tiến hành tố tụng thấy rằng, việc truy cứu trách nhiệm hình sự người đó lại
không cần thiết mà vẫn đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm,
cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội nếu đáp ứng những điều
kiện nhất định, họ sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự mà được miễn
trách nhiệm hình sự.
Do đó, mặc dù được miễn trách nhiệm hình sự, nhưng người phạm tội
vẫn có thể chịu một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế không phải hình sự
thuộc các ngành luật tương ứng khác trong hệ thống pháp luật của Nhà nước
như pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật hành chính, pháp luật lao động...).

15


* Ý nghĩa thứ hai - miễn trách nhiệm hình sự phản ánh chính sách phân
hóa tội phạm và người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam
Phân hóa trong luật hình sự nước ta được thể hiện trên nhiều phương
diện như: phân loại tội phạm, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, hệ
thống hình phạt và các biện pháp tư pháp, phân hóa trách nhiệm hình sự
qua việc áp dụng trách nhiệm hình sự, chịu trách nhiệm hình sự hạn chế,
không phải chịu trách nhiệm hình sự hay miễn trách nhiệm hình sự, đương
nhiên được miễn trách nhiệm hình sự hay có thể được miễn trách nhiệm
hình sự, mở rộng hay thu hẹp phạm vi tội danh trong Phần các tội phạm
của Bộ luật hình sự; v.v... [59, tr.99]. Do đó, đây chính là sự phân hóa giữa
trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự với trường hợp được miễn trách
nhiệm hình sự, giữa trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự với
trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.

* Ý nghĩa thứ ba - miễn trách nhiệm hình sự thể hiện nguyên tắc nhân
đạo xã hội chủ nghĩa
Nhân đạo nói chung và trong pháp luật nói riêng được cụ thể hóa thông
qua các quy định của pháp luật (trong đó có pháp luật hình sự) với ý nghĩa
bảo vệ lợi ích của công dân khi bị tội phạm xâm phạm, có thể là lợi ích hợp
pháp của cá nhân người phạm tội nếu xứng đáng được hưởng lượng khoan
hồng của Nhà nước và đáp ứng các điều kiện nhất định. Vì vậy, nghiên cứu
miễn trách nhiệm hình sự không chỉ thể hiện nguyên tắc nhân đạo đối với
người phạm tội, mà còn tạo cơ sở pháp lý cho sự kết hợp các biện pháp cưỡng
chế hình sự của Nhà nước với các biện pháp tác động xã hội trong việc giáo
dục, cải tạo người phạm tội, không buộc phải cách ly người phạm tội ra khỏi
cộng đồng, lấy môi trường đang sinh sống đó làm nơi tự cải tạo, giáo dục, qua
đó còn khuyến khích họ lập công chuộc tội, đồng thời giảm nhẹ cường độ áp
dụng trách nhiệm hình sự và hình phạt mà Bộ luật hình sự cho phép (ví dụ:

16


miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá là một trường hợp mang
tính nhân đạo sâu sắc của Nhà nước) [59, tr.99].
* Ý nghĩa thứ tư - miễn trách nhiệm chỉ áp dụng đối với người thực
hiện tội phạm, là chủ thể của tội phạm, nhưng họ lại có những điều kiện nhất
định để được miễn trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng đối với người đã phạm tội, thì miễn
trách nhiệm hình sự cũng áp dụng với đối tượng như vậy, song trường hợp
của họ lại có những điều kiện nhất định để được miễn trách nhiệm hình sự. Ví
dụ: Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, do sự chuyển biến của tình hình mà
hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa,
thì người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 25) hay khi
có quyết định đại xá (khoản 3 Điều 25 Bộ luật hình sự).

Đặc biệt, vì người được miễn trách nhiệm hình sự bị coi là người đã
thực hiện hành vi phạm tội, cho nên họ không được bồi thường thiệt hại theo
quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (Điều 27).
* Ý nghĩa thứ năm - miễn trách nhiệm hình sự còn phản ánh nguyên tắc
công bằng (công minh)
Người được miễn trách nhiệm hình sự không phải chịu các hậu quả
pháp lý hình sự bất lợi của việc phạm tội nhưng có thể phải chịu một hoặc
nhiều biện pháp cưỡng chế không phải hình sự được quy định trong các
ngành luật trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Như vậy, ý nghĩa của việc
quy định miễn trách nhiệm hình sự còn thể hiện sự công bằng trong đánh giá
hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự với trường hợp không bị truy
cứu trách nhiệm hình sự. Trước đây, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986
về việc Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định: “Khi đã miễn trách nhiệm
hình sự thì Tòa án không được quyết định bất kỳ loại hình phạt nào, nhưng

17


×