Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bức tranh hệ thống ngân hàng việt nam năm 2020 vẫn là sự đan xen của những mảng màu sáng tối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.72 KB, 12 trang )

Đã hết năm 2013, hệ thống ngân hàng đã được cải thiện đáng kể với không
ít những mảng màu tươi hơn nhưng nhìn tổng thể, những mảng màu này vẫn
chưa đủ để làm che lấp những mảng màu xám do tích tụ từ những năm trước
đây. Vì thế, bức tranh hệ thống ngân hàng Việt nam năm 2013 vẫn là sự đan
xen của những mảng màu sáng tối.
Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, thời gian qua là quãng thời gian khó
khăn nhất trong nhiều năm qua. Những điểm nghẽn của nền kinh tế vẫn chưa
thông. TTTT và TTCK vẫn còn nhiều bất ổn nội tại. Song, với những nỗ lực
thường xuyên, liên tục, cả hệ thống đã bước đầu vượt qua những khó khăn. Nhờ
đó, không những rủi ro của hệ thống giảm bớt với những chuyển biến tích cực như
thanh khoản khả quan hơn, lãi suất huy động đã giảm 2-3% và lãi suất cho vay
giảm 3-5% - ngang bằng mức 2006, mà quá trình tái cơ cấu và kết quả hoạt động
của hệ thống ngân hàng cũng đã có những cải thiện đáng kể.
1. NHỮNG MẢNG MÀU SÁNG
Thứ nhất, quá trình tái cơ cấu ngân hàng đã đạt được những kết quả ban
đầu đáng khích lệ
Được đánh giá là ngành nỗ lực nhất trong "bộ ba" tái cơ cấu nền kinh tế (ngân
hàng - doanh nghiệp Nhà nước - đầu tư công) ([1]), ngành ngân hàng đã khá chủ
động triển khai tái cơ cấu hệ thống ngân hàng theo đúng mục tiêu đã được Chính
phủ cũng như NHNN xác định. Đến nay, NHNN đã tiếp nhận phương án tái cơ
cấu của 24/25 NHTM: phê duyệt phương án tái cơ cấu của 12/25 ngân hàng, phê
duyệt phương án tái cơ cấu của 12/25 ngân hàng; tiếp nhận và thẩm định 13/13
phương án tái cơ cấu của các TCTD phi ngân hàng
Không chỉ về vốn mà nhân sự trong ngành ngân hàng cũng có sự xáo trộn lớn.
Sự thay đổi nhân sự diễn ra ở mọi cấp, từ cấp thấp, cấp trung cho đến cấp cao.
Song nếu nhìn từ góc độ tích cực thì đây là động thái cần thiết để sàng lọc lại đội
ngũ nhân sự ngành ngân hàng vốn được tuyển dụng quá nhiều tại thời điểm “ra


ngõ gặp ngân hàng” cách đây 6-7 năm. Hơn nữa, môi trường kinh doanh càng khó
khăn thì những yêu cầu, đòi hỏi đối với đội ngũ nhân sự sẽ càng cao hơn, không


chỉ về trình độ chuyên môn nghiệp vụ mà cả về kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp,
và chỉ qua sàng lọc, ngành ngân hàng sẽ có được đội ngũ lao động tinh hơn để có
thể phát triển một cách bền vững.
Một tín hiệu đáng mừng và cũng là dấu hiệu cho thấy những “mảng sáng”
trong hoạt động ngân hàng ngày càng rộng hơn là tốc độ mở rộng mạng lưới đã và
sẽ còn tiếp tục tăng lên trong thời gian tới sau khi kế hoạch mở rộng mạng lưới
của các ngân hàng chính thức được “cởi trói”([2]), đồng thời sẽ có sự quản lý chặt
chẽ hơn. Điều này không chỉ giúp năng động hóa thị trường lao động ngành ngân
hàng mà còn giúp tránh được tình trạng phát triển cục bộ tại một số địa bàn lớn.
Thứ hai, hiệu quả kinh doanh ngân hàng đã được cải thiện đáng kể
Thời gian qua, dù lãi suất huy động liên tục giảm mạnh và không phải lúc nào
cũng “kịch trần” nhưng người dân vẫn tiếp tục gửi tiền vào các tổ chức tín dụng
với kỳ hạn dài bởi đây vẫn là kênh đầu tư an toàn và hiệu quả nhất so với các kênh
đầu tư khác hiện nay. Tính đến cuối tháng 12/2013, tiền gửi VND của dân cư vẫn
tăng 15,61% gần bằng mức tăng trưởng 16% năm 2012, trong đó ngoại tệ tăng
13,7%, VND tăng khá cao 15,93% so với năm 2012.


Giai đoạn 2011-2012, ngành ngân hàng lao đao vì hậu quả của tình trạng tăng
trưởng quá nóng với các điều kiện tín dụng được nới lỏng quá mức trước đó. Hàng
loạt các giải pháp đã được đưa ra để hạ nhiệt tín dụng, nhưng cũng bởi thế tổng lợi
nhuận toàn ngành ngân hàng năm 2012 đã sụt giảm gần 50% so với năm 2011 ([3]).
Sang năm 2013, các giải pháp tín dụng tiếp tục được điều hành linh hoạt hơn theo
hướng “tái tạo” đường cong lãi suất, mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn hoạt
động của TCTD, phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời tiếp
tục thực hiện các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh
doanh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý. Nhờ đó, đến ngày
27/12/2013, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống đạt trên 11%, gần sát mục tiêu
12%. Điều này thể hiện nỗ lực rất lớn của ngành ngân hàng bởi nếu nhìn vào tốc
độ tăng tín dụng các tháng năm 2013 thì có thể thấy rằng, tín dụng mới chỉ bắt đầu

tăng trưởng dương từ quý II. Cơ cấu tín dụng đã từng bước hợp lý, hiệu quả và an
toàn hơn, đã tập trung được vốn vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là tín dụng
đối với các lĩnh vực ưu tiên. Nhờ đó, tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức hợp lý và các
ngân hàng đã bắt đầu có lãi trở lại, ngay cả những ngân hàng nhỏ.

Không chỉ có vậy, hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng đã có những biểu
hiện an toàn và hiệu quả hơn. Tính đến cuối tháng 31/10/2013, tỷ lệ dư nợ tín dụng
trên huy động vốn thị trường giảm xuống còn 86,19% so với 98% cuối năm 2012


và trên 100% những năm trước; tỷ lệ an toàn vốn (CAR) có giảm nhẹ, nhưng vẫn
ở mức khá cao với 13,64%, cao hơn nhiều so với quy định tối thiểu 9% mà NHNN
đang áp dụng; thanh khoản đang được cải thiện và khá dồi dào so với giai đoạn
trước; vốn điều lệ tăng 6,02%; vốn chủ sở hữu tăng 6,33% và ngày càng tiệm cận
tới quy mô vốn điều lệ; tổng tài sản Có tăng 6,66% so với cuối năm 2012.
Thứ ba, xử lý nợ xấu đã đạt được những thành công bước đầu đáng khích
lệ
Tăng nợ xấu lại với tốc độ chóng mặt không chỉ ăn mòn lợi nhuận của các
ngân hàng mà còn là nguyên nhân căn bản gây nghẽn tín dụng trong suốt thời gian
qua. Chưa bao giờ vấn đề nợ xấu lại nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều giai
tầng trong xã hội đến như vậy. Đây không chỉ là vấn đề được bàn thảo trong các
diễn đàn khoa học mà cả ở các cuộc họp cấp Chính phủ và thậm chí là trên cả
chương trình giải trí truyền hình. Tuy chưa thực sự khả quan nhưng theo báo cáo,
tỷ lệ nợ xấu tính đến tháng 11/2013 là 4,55% - tiếp tục giảm so với tháng 10 là
4,73%. Tốc độ gia tăng nợ xấu bình quân sau 3 quý cũng giảm đáng kể
(2,2%/tháng so với mức 3,91% của năm 2012). Việc xử lý nợ qua VAMC cũng đã
có những tiến triển nhất định. tính đến ngày 24/12, VAMC đã mua được gần
32.000 tỷ đồng dư nợ gốc của gần 30 TCTD. Dự kiến, năm 2014 VAMC sẽ mua
khoảng 100-150 nghìn tỷ đồng. Hiện nay rất nhiều nhà đầu tư không chỉ trong
nước mà quốc tế cũng quan tâm muốn mua lại các khoản nợ này. Nhờ nỗ lực của

Chính phủ, NHNN cũng như sự quyết liệt của từng TCTD trong việc xử lý nợ xấu,
nên tỷ lệ nợ xấu đã giảm mạnh từ mức 8,86% tổng dư nợ cuối năm 2012 xuống
còn 4,55% đến tháng 11/2013.


Ba nguyên nhân cơ bản trên đã góp phần làm cho tình hình thanh khoản
của hệ thóng ngân hàng được cải thiện đáng kể. Không những không lo ngại về
tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng mà nhìn nhận tổng thể thì rủi ro
thanh khoản của cả hệ thống ngân hàng không có bất ổn. tuy nhiên thanh khoản
trong hệ thống ngân hàng luôn căng thẳng, thị trường liên ngân hàng ách tắc, một
số tổ chức tín dụng rơi vào tình trạng mất thanh khoản liên tục (luôn rơi vào tình
trạng mất cân đối kỳ hạn về huy động và cho vay…)
2. NHỮNG MẢNG MÀU TỐI
Mặc dù đã vượt qua được những khó khăn bước đầu nhưng chặng đường đổi
mới trước mắt của hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất nhiều chông gai. Môi
trường vĩ mô đã được cải thiện rất nhiều nhưng chưa ổn định. Năng lực cạnh tranh
của nền kinh tế tuy có tăng nhẹ, nhưng vẫn thấp so với khu vực (xếp thứ 70/148
quốc gia). Lạm phát được kiềm chế ở mức 6,81% nhưng chủ yếu là do tổng cầu
suy giảm, sức mua của doanh nghiệp và người dân đều ở mức rất thấp.
Tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng đã dồi dào hơn nhưng vẫn chưa ổn
định, nợ xấu đã giảm nhưng còn ở mức cao, thị trường BĐS đã có dấu hiệu “tan
giá” nhưng vẫn chưa đủ “độ ấm” cần thiết nên thanh khoản còn thấp. Vì thế,
những chướng ngại vật phía trước đang đặt ra nhiều thách thức không nhỏ đối với
hệ thống ngân hàng trong giai đoạn tới. Cụ thể:
Một là, tổng cầu suy giảm gây khó khăn cho việc hấp thụ vốn, vì thế các


ngân hàng rất khó khăn trong việc mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất
lượng khoản vay.
Tuy tăng trưởng tín dụng từ quý II trở đi đã bắt đầu dương và tăng đều đặn

qua các tháng nhưng vẫn không thể đạt được mục tiêu đề ra do khả năng hấp thụ
vốn rất thấp nên dù hiện nay, lãi suất cho vay đã giảm rất nhiều, nhưng dòng vốn
vẫn chưa thể luân chuyển thông suốt. Một mặt là do nợ xấu tồn đọng, các doanh
nghiệp không dễ trả được, kể cả phát mại TSBĐ, khiến cho các ngân hàng cũng
thận trọng hơn. Một mặt khác là do tình trạng thừa cung thiếu cầu nên các doanh
nghiệp gặp rất nhiều khó khăn nên nhu cầu vay vốn cũng giảm đi. Thực tế cho
thấy, lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ngành cao su quý III/2013 giảm
trên 30%, ngành khoáng sản giảm gần 60%, nganh than và thép thì thậm chí là còn
lỗ khá lớn([4]). Vì vậy, dù lãi suất đã hạ, nhiều gói ưu đãi được thiết kế, song không
thể giải quyết được nên việc mở rộng tín dụng gắn với nâng cao chất lượng khoản
vay vẫn rất khó khăn.
Hai là, nợ xấu vẫn là rào cản đối với hoạt động ngân hàng.
Đây không phải là vấn đề mới và cũng không phải bây giờ mới đề cập tới mà
nó đã, đang và vẫn sẽ là vấn đề nổi cộm trong hệ thống ngân hàng. Dù nhìn vào
các con số thì có thể thấy rằng nợ xấu đang giảm đi nhưng mức độ giảm thực tế ra
sao thì vẫn chưa thể đánh giá được. Đây là vấn đề hết sức phức tạp chứ không đơn
thuần là tính toán trên những con số cộng trừ bởi việc xử lý nợ xấu phụ thuộc
nhiều vào các điều kiện kinh tế vĩ mô và thị trường, trong khi tiêu thụ hàng hoá
còn chậm, năng lực tài chính và khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn thấp. Thị
trường BĐS chậm phục hồi, TTTC trì trệ càng gây khó khăn cho việc bán, xử lý
TSBĐ tiền vay để thu hồi nợ. Trong khi đó các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô,
tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường BĐS luôn có độ trễ và
cần phải có thời gian phát huy tác dụng. Đã vậy, các giải pháp xử lý nợ xấu lại
chưa được triển khai đồng bộ mà chủ yếu vẫn là TCTD tự xử lý nợ xấu nên đã làm
giảm mức độ lành mạnh tài chính, hiệu quả kinh doanh của TCTD trong ngắn hạn.


Cơ chế, chính sách xử lý TSBĐ còn nhiều rất vướng mắc, phức tạp, chậm được
khắc phục, hoàn thiện để tạo điều kiện thuận lợi cho xử lý nợ xấu. VAMC đã được
thành lập, đã mua nợ, song việc giải quyết số nợ này ra sao là cả một vấn đề.

Tỷ lệ nợ xấu cao, đặc biệt là nợ có khả năng mất vốn lớn lại trong bối cảnh
hoạt động kinh doanh ngân hàng khó khăn do lãi suất giảm nhanh, tín dụng khó
tăng, chi phí hoạt động cao[5] khiến áp lực lợi nhuận đè nặng lên vai các ngân
hàng, cả các ngân hàng ở diện tái cấu trúc cũng như các ngân hàng lớn. Bản thân
các ngân hàng, để kiểm soát nợ xấu cũng phải cho vay rất thận trọng. Thế nhưng,
nợ xấu từ khoản vay cũ vẫn không ngừng phát sinh, nợ nhóm 2, 3 chuyển sáng
nhóm 4, 5 đã kéo theo trích lập DPRR cao lên và lợi nhuận sẽ hẹp dần. Các ngân
hàng đều thừa nhận khó đạt các chỉ tiêu kinh doanh dù khi xây dựng kế hoạch đã
thận trọng nhưng chi phí dự phòng quá cao (có ngân hàng mà tổng chi phí dự
phòng tăng gấp đôi so với cùng kỳ) nên khả năng hoàn thành chỉ tiêu là khá mong
manh.
Ba là, khu vực DNNN thực hiện tái cơ cấu chậm, ảnh hưởng trực tiếp tới
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng.
Hơn 1 năm qua, tiến trình cổ phần hóa vẫn hết sức chậm chạp, năm 2012 cả
nước chỉ cổ phần hóa có 13 doanh nghiệp, bằng 14% kế hoạch. 7 tháng đầu năm
nay, cũng chỉ có thêm 16 doanh nghiệp được cổ phần hóa. Việc thoái vốn thì ì ạch
vì thị trường BĐS, TTCK đều đi xuống. Thoái vốn còn theo tư duy bán để cắt lỗ,
chứ không phải là để phân bổ lại nguồn lực. Vì thế, không những không thực hiện
được chức năng là “lực đẩy” cho phát triển kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn tới hoạt
động kinh doanh ngân hàng, bởi đây là đối tượng khách hàng rất lớn của các
NHTM, là nơi hấp thụ vốn của nền kinh tế và cũng là nơi tạo ra của cải vật chất
cho xã hội nên tháo gỡ nút thắt từ phía doanh nghiệp được coi mà giải pháp quan
trọng nhất để cải thiện hoạt động tín dụng. Đối với các DNNN, mặc dù được tập
trung nguồn lực nhưng hiệu quả của khu vực này vẫn thấp hơn nhiều so với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp tư nhân. Tái cơ cấu nền


kinh tế thông qua cổ phần DNNN là một nhiệm vụ cấp bách trước bối cảnh suy
thoái kinh tế gần đây. Không những thế, cần nâng cao năng lực cạnh tranh cho
những doanh nghiệp này để làm đầu tàu cho nền kinh tế những năm tới. Muốn

vậy, các doanh nghiệp này phải được định giá tài sản chính xác dựa trên tính công
khai, hiệu quả, có chế độ tài chính phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Việc áp dụng
cơ chế kiểm toán độc lập là cần thiết để minh bạch hóa, đảm bảo độ tin cậy từ các
thông tin tài chính, kế toán của các doanh nghiệp.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT
Để giải quyết được vấn đề này, rất cần có những giải pháp mang tính đồng bộ,
đó là:
Thứ nhất, về phía chính phủ
Hoàn thiện hành lang pháp lý
Hệ thống các quy định pháp lý liên quan đến công tác quản trị rủi ro thanh
khoản trong các hoạt động của NHTM mới chỉ dừng lại ở mức sơ khai, cần
phải hoàn thiện thêm nhiều khía cạnh. NHNN Việt Nam cần ban hành một
quy chế về rủi ro thanh khoản để hướng dẫn cho các NHTM trong quá trình
hoạt động.
Quy chế này cần có các quy định rõ về:
các chỉ tiêu đo lường rủi ro thanh khoản.
chất lượng tài sản có, các tài sản thanh khoản
năng lực đi vay
dòng tiền, sự phân bố tài sản và nghĩa vụ tài chính (công nợ) theo ngày đến
hạn
đo lường thanh khoản của các hạng mục ngoại bảng, các công cụ tài chính
phát sinh.
Ngoài ra quy chế về rủi ro thanh khoản cũng cần phải quy định các nguyên tắc
nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh tra tại chỗ, giám sát từ xa của


NHNN Việt Nam đối với các NHTM nhằm phát hiên sớm những dấu hiệu rủi
ro thanh khoản và có biện pháp xử lý kịp thời.
Xây dựng hệ thống cảnh báo sớm
NHNN Việt Nam cần xây dựng hệ thống cảnh báo sớm rủi ro thanh khoản của

NHTM dựa trên những phân tích số liệu từ tài khoản thanh toán mở tại
NHNN, hệ thống thanh toán bù trừ qua ngân hàng hay hệ thống thanh toán
điện tuwrlieen ngân hàng mà NHNN đóng vai trò làm đầu mối thanh toán.
Thông qua phân tích số liệu và các giao dịch qua hệ thống này,NHNN có thể
đánh giá được tình hình thực hiện nghĩa vụ dự trữ bắt buộc của các NHTM
Việt Nam, tỉ trọng giao dịch vay vốn trên thị trường liên ngân hàng nhằm bù
đắp thiếu hụt thanh khoản hàng ngày, tình hình vay thấu chi tại NHNN để đáp
ứng nhu cầu thanh khoản cho khách hàng, số lượng các lệnh thanh toán bị treo
do ngân hàng không đủ tiền để thanh toán…từ đó có thể đưa ra các cảnh báo
sớm về mức độ thiếu hụt tạm thời cho cacs NHTM, ngoài ra NHNN cũng cần
phân tích dự báo tình hình tài chính của NHTM trong một khoảng thời gian
sắp tới nhằm chỉ ra và phân loại những ngân hàng nào có thể gặp khó khăn về
thanh khoản trong .tương lai, từ đó có biên pháp xử lý kịp thời.

Thứ hai, các giải pháp đối với các NHTM
Không phủ nhận những kết quả đã đạt được trong quá trình tái cơ cấu ngân
hàng, nhưng rõ ràng, mới dừng lại ở những thay đổi về lượng mà chưa có những
biến đổi thực sự về chất. Là chủ thể cung cấp vốn cho các doanh nghiệp và cho
nền kinh tế, vì thế, dòng vốn không thể khơi thông nếu bản thân các ngân hàng
hoạt động không hiệu quả. Vì thế, cần các rất cần đẩy nhanh, dứt điểm tái cơ cấu
hệ thống ngân hàng, đồng thời thắt chặt sở hữu chéo bởi đây là một trong những
nguyên nhân gây ra khủng hoảng ngân hàng, song để kiểm tra, giám sát các đối
tượng sở hữu chéo, các minh tài chính của các cổ đông khi tham gia sở hữu vốn tại
các ngân hàng là không đơn giản, nhất là đối với các NHTM chưa niêm yết. Song


nếu làm được như vậy sẽ không chỉ tạo ra sự ổn định của hệ thống mà còn đảm
bảo không để xảy ra khủng hoảng niềm tin trên thị trường.
Bên cạnh đó, cần khuyến khích các ngân hàng tiếp tục đẩy mạnh cho vay đối
với một số lĩnh vực ưu tiên hiện nay, như cho vay nông nghiệp, nông thôn, cho

vay DNNVV, cho vay công nghiệp hỗ trợ và xuất khẩu. Bổ sung thêm lĩnh vực ưu
tiên đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động và cho vay có tác dụng
kích cầu thị trường để giảm tồn kho cho doanh nghiệp (như cho vay mua nhà, cho
vay xây dựng nông thôn mới...) và các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao
trong sản xuất và bảo vệ môi trường. Tạo chu trình khép kín cho sự tham gia của
vốn tín dụng ngân hàng vào chuỗi liên kết sản xuất - thu mua - tiêu thụ sản phẩm
nhằm góp phần nâng cao chất lượng tín dụng, giảm nợ xấu của hệ thống các ngân
hàng (thông qua việc đưa ra các sản phẩm tín dụng như cho vay theo chuỗi của
người nuôi, thu mua, chế biến thuỷ sản xuất khẩu, cho vay liên kết giữa chủ đầu tư
bất động sản với nhà thầu xây dựng, người cung cấp vật liệu xây dựng và người
mua nhà...). Tăng cường kiểm soát mục đích vay vốn và công tác thanh tra, giám
sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng.
Thứ ba, các giải pháp đối với các doanh nghiệp
Giải phóng hàng tồn kho là phương thuốc hữu dụng tạo “hứng thú” cho các
doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh mở rộng SXKD trở lại. Thực tế cho thấy, chỉ số
tồn kho tại thời điểm 01/10/2013 toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng
9,7% so với cùng thời điểm năm 2012, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho
tăng thấp hoặc giảm là: Sản xuất trang phục tăng 7,8%; sản xuất thiết bị điện tăng
7,4%; dệt tăng 2,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết
bị) giảm 6,9%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 13,7%; sản
xuất xe có động cơ giảm 42,3%; Tuy nhiên vẫn còn những ngành có chỉ số tồn kho
tăng cao như: Sản xuất đồ uống tăng 165,6%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược
liệu tăng 54,8%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 38,2%; sản xuất hóa chất
và sản phẩm hóa chất tăng 23,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm tăng 23,2%; sản


xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 19,6%; sản xuất kim loại tăng 18,4%.
Tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 9/2013 là 74%.
Song theo một số chuyên gia kinh tế, mức giảm ấy chủ yếu là vì các doanh nghiệp
không sản xuất hoặc giảm sản xuất đi đáng kể. Khi hàng sản xuất mới không tăng

thêm, hàng tồn bán được đi chút đỉnh nên mới giúp hàng tồn kho giảm đi như vậy.
Hiểu theo nghĩa này thì việc hàng tồn kho giảm đi trong những tháng trở lại đây là
điều vừa mừng, vừa lo. Điều đó cho thấy, nếu hàng tồn kho không được giải
quyết, doanh nghiệp không có nhu cầu mở rộng SXKD – mà đây là kênh chính, do
đó chúng ta muốn hướng tín dụng vào thì rõ ràng sẽ rất khó khăn trong những
tháng tới.
Để giảm được hàng tồn kho, cần tập trung các giải pháp giúp tăng tổng cầu.
Đặc biệt tăng truyền thông củng cố niềm tin. Đồng thời, cần sửa đổi quy định của
ngân hàng Nhà nước về hạn chế cho vay tiêu dùng. Bởi lẽ sản xuất và tiêu dùng là
hai mặt của quá trình luân chuyển hàng hoá dịch vụ. Nếu chỉ khuyến khích cho
vay sản xuất nhưng lại “khoá chặt” cho vay tiêu dùng, chặn đầu ra của sản xuất,
thì không kích thích tiêu thụ sản phẩm, không thể giải quyết được nút thắt tồn kho
và thanh khoản của nền kinh tế. Bên cạnh các giải pháp tăng cầu cá nhân, cần có
các giải pháp tầm cỡ hơn để tăng đầu tư của Chính phủ, tạo hiệu ứng lan tỏa và
tăng tổng cầu có khả năng thanh toán. Đó mới là mấu chốt của vấn đề.
Bên cạnh các giải pháp nỗ lực từ phía bản thân ngân hàng và các doanh
nghiệp, cần và rất cần có một quyết tâm trong chỉ đạo, điều hành từ các cơ quan
quản lý Nhà nước trong việc giải quyết những bất ổn trong hệ thống cũng như nhất
quán mục tiêu tái cấu trúc hệ thống ngân hàng và xác định rõ ràng lộ trình triển
khai để các ngân hàng chủ động xây dựng các phương án một cách hợp lý nhất và
khả thi nhất.
Chặng đường phía trước của cả nền kinh tế Việt Nam nói chung và các ngân
hàng nói riêng sẽ vẫn còn nhiều gian nan thử thách khi năm 2014 được dự báo vẫn
là một năm vượt khó. Song những dự đoán sáng sủa hơn về kinh tế Mỹ và châu Á,


nhất là khu vực Đông Nam Á cộng với những lợi ích từ Hiệp định Đối tác kinh tế
Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) đang mở ra những cơ hội rộng hơn cho
Việt Nam sẽ là cơ hội thu hút vốn nước ngoài, từ đó góp phần hâm nóng thị trường
nội địa, kích cầu trong nước. Vẫn biết để làm sáng bức tranh ngân hàng Việt nam

trong năm 2014 tươi sáng hơn là rất quan trọng bởi giai đoạn 2013-2014 được coi
là giai đoạn bản lề của công cuộc cải cách đổi mới. Tuy nhiên, thành công hay
không còn phù thuộc vào các bước chuẩn bị các điều kiện để tạo nên hiệu ứng
cộng hưởng và lan tỏa, từ đó tạo ra được những bước ngoặt cần thiết một bài toán
không đơn giản. Lời giải đầy đủ cho bài toán này không thể chỉ đến từ bản thân hệ
thống ngân hàng.



×