Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa Quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất. Mối quan hệ đó thể hiện trong hoạt động làng nghề trống đồng Đông Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.5 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC & KHOA HỌC XÃ HỘI

TIỂU LUẬN

Tên đề tài: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa Quan hệ sản xuất với
lực lượng sản xuất. Mối quan hệ đó thể hiện trong hoạt động làng nghề
trống đồng Đông Sơn

Tên sinh viên:
Mã Sinh viên
Lớp NH24.04

1|Tra n g


MỤC LỤC

TRANG

Lời nói đầu
Nội dung
I.

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.Lực lượng sản xuất
2.Quan hệ sản xuất
3.Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất

II.


Mối quan hệ biện chứng trong hoạt động làng nghề trống đồng Đông Sơn
1.Làng nghề trống đồng Đông Sơn
2.Hoạt động của làng nghề dưới phương diện lực lượng sản xuất:
3.Hoạt động của làng nghề dưới phương diện quan hệ sản xuất

III.

Phương hướng phát triển của làng nghề

KẾT LUẬN

2|Tra n g


LỜI NÓI ĐẦU
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản của xã hội. Nhận thức và vận dụng quy luật này trong điều kiện Việt Nam, Đảng ta chủ trương xây
dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước và đi theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa (nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII). Đó là
một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội nước ta cũng như điều kiện quốc tế
hiện nay.
Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới, vấn đề chúng ta cần quan tâm là vai trò con
người, sự phát triển của công cụ lao động, trình độ quản lý sản xuất, phân công lao động và trình độ áp
dụng khoa học kỹ thuật của người lao động trong quá trình sản xuất...
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng yếu tố con người, coi con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển của xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996) đã khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững” [5,tr.85] và “Nâng cao dân trí,
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của

công cuộc CNH-HĐH” [6, tr.21]. Làng nghề là hoạt động kinh tế, mang bản sắc văn hóa độc đáo ở nước
ta. Trong tiến trình CNH- HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều làng nghề có truyền thống từ lâu đời vẫn
duy trì và phát triển, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội ở địa phương. Làng nghề đã trở thành một tài
sản hết sức quý báu của dân tộc, không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc Việt Nam. Thanh Hóa là một tỉnh có rất nhiều làng nghề thủ công truyền thống đã và đang phát triển,
tỉnh cũng đã có kế hoạch bảo tồn và phát huy những làng nghề thủ công này. Hơn nữa, Thanh Hóa vốn
nổi tiếng với nền văn hóa Đông Sơn rực rỡ, với mảnh đất địa linh nhân kiệt, 3 vua 2 chúa... Nền văn hóa
Đông Sơn nổi bật bởi chiếc trống đồng có âm vang trầm hùng, in bóng hình dân tộc. Từ ngàn xưa, nghệ
thuật đúc đồng của người Việt cổ đã đạt đến trình độ tinh xảo như vậy. Liệu rằng còn có truyền nhân?
Nằm trong khu vực của người Đông Sơn cổ, làng Trà Đông là một làng nghề đúc đồng truyền thống
có từ lâu đời, tất cả các quy trình đều được làm bằng tay, cha truyền con nối, từ đời này sang đời khác.
Chính tại đây, các nghệ nhân đã phục hồi được nguyên mẫu chiếc trống đồng Đông Sơn, âm vang vẫn
trầm hùng như từ ngàn xưa vọng lại, mà không nơi nào có thể làm được. Tất cả các nguyên liệu để tạo
nên một sản phẩm đồng ở đây đều có sẵn và có thể nói là những nguyên liệu tốt nhất để tạo nên sản
phẩm đồng. Phải chăng đây chính là mảnh đất, nơi khai sinh ra chiếc trống đồng Đông Sơn của người
Việt cổ, mà nghệ thuật đúc đồng vẫn còn truyền lại đến ngày nay?
Chính vì vậy phát triển nguồn nhân lực cho các làng nghề truyền thống nhằm bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc tiêu biểu là làng nghề trống đồng Đông Sơn là giàu truyền thống lịch sử, đồng
thời phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, lợi thế của địa phương đã góp phần giải quyết việc làm, tăng
thu nhập, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy
nhiên, trong quá trình phát triển nhân lực ở các làng nghề thống trống đồng Đông Sơn gặp rất nhiều khó
3|Tra n g


khăn, thách thức như: thu hút nhiều lao động trẻ ổn định tạo lớp thợ kế cận tương lai trong các làng
nghề truyền thống là rất khó do quy mô sản xuất tại làng nghề truyền thống còn nhỏ lẻ, phân tán, thị
trường tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế; lao động làng nghề truyền thống không thiết tha gắn bó với
nghề, thanh niên làng nghề không muốn theo nghề cha ông. Đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao
như: nghệ nhân, đội ngũ thợ lành nghề chưa thực sự đảm bảo về chất lượng, số lượng và cơ cấu cũng
như đòi hỏi ngày một cao của yêu cầu phát triển đất nước trong tiến trình hội nhập quốc tế, các nghệ

nhân thì nhiều cụ tuổi cao không còn đủ sức khỏe để làm nghề, vẫn còn thiếu các điều kiện để sáng tác
và truyền nghề.v.v.. Với tầm quan trọng của nguồn nhân lực làng nghề truyền thống hiện nay, những vấn
đề lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực, nguồn nhân lực cho phát triển làng nghề truyền thống
đang chưa theo kịp yêu cầu phát triển của làng nghề truyền thống trong giai đoạn mới. Do đó, đặt ra
công tác nghiên cứu lý luận phải đi trước một bước thì mới đáp ứng được thực tiễn mới. Từ tình hình
trên rất cần những công trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn về lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất nói chung là phát triển nguồn nhân lực nói riêng trong bối cảnh hiện nay ở
làng nghề trống đồng Đông Sơn . Do vậy, vấn đề “Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa Quan hệ sản
xuất với lực lượng sản xuất. Mối quan hệ đó thể hiện trong hoạt động làng nghề trống đồng Đông Sơn”
thực sự có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, được em chọn làm đề tài tiểu luận triết học Mác Lê
nin.

4|Tra n g


NỘI DUNG
I.

Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1. Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất (LLSX) là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành trong quá trình
sản xuất . Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự nhiên của con người. Đó là
kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự
tồn tại và phát triển của loài người .
Trong cấu thành của lực lượng sản xuất, có thể có một vài ý kiến nào đó khác nhau về một số yếu tố
khác của lực lượng sản xuất , song suy cho cùng thì chúng đều vật chất hoá thành hai phần chủ yếu là tư
liệu sản xuất và lực lượng con người . Trong đó tư liệu sản xuất đóng vai trò là khách thể , còn con người
là chủ thể .
Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận đó là đối tượng lao động và tư liệu lao động. Thông

thường trong quá trình sản xuất phương tiện lao động còn được gọi là cơ sở hạ tầng của nền kinh tế .
Trong bất kỳ một nền sản xuất nào công cụ sản xuất bao giờ cũng đóng vai trò là then chốt và là chỉ tiêu
quan trọng nhất . Hiện nay công cụ sản xuất của con người không ngừng được cải thiện và dẫn đến hoàn
thiện, nhờ thành tựu của khoa học kỹ thuật đã tạo ra công cụ lao động công nghiệp máy móc hiện đại
thay thế dần lao động của con người . Do đó công cụ lao động luôn là độc nhất , cách mạng nhất của
LLSX.
Bất kỳ một thời đại lịch sử nào, công cụ sản xuất bao giờ cũng là sản phẩm tổng hợp, đa dạng của
toàn bộ những phức hợp kỹ thuật được hình thành và gắn liền với quá trình sản xuất và phát triển của
nền kinh tế. Nó là sự kết hợp của nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất và trực tiếp nhất là trí tuệ con
người được nhân lên trên cơ sở kế thừa nền văn minh vật chất trước đó.
Nước ta là một nước giàu tài nguyên thiên nhiên, có nhiều nơi mà con người chưa từng đặt chân
đến nhưng nhờ vào tiến bộ của khoa học kĩ thuật và quá trình công nghệ tiên tiến, con người có thể tạo
ra được sản phẩm mới có ý nghĩa quyết định tới chất lượng cuộc sống và giá trị của nền văn minh nhân
loại. Chính việc tìm kiếm ra các đối tượng lao động mới sẽ trở thành động lực cuốn hút mọi hoạt động
cuả con người.
Tư liệu lao động dù có tinh sảo và hiện đại đến đâu nhưng tách khỏi con người thì nó cũng không
phát huy tác dụng của chính bản thân . Chính vậy mà Lê-nin đã viết: “lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn thể nhân loại là công nhân , là người lao động”. Người lao động với những kinh nghiệm , thói quen
lao động , sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất . Tư liệu sản xuất với tư cách là khách thể
của LLSX, và nó chỉ phát huy tác dụng khi nó được kết hợp với lao động sống của con người . Đại hội VII
của Đảng đã khẳng định : “ Sự nghiệp phát triển kinh tế đặt con người lên vị trí hàng đầu, vị trí trung tâm
thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng khoa học và tiến bộ xã hội .”

5|Tra n g


Người lao động với tư cách là một bộ phận của LLSX xã hội phảI là người có thể lực , có tri thức văn
hoá , có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có khinh nghiệm và thói quen tốt, phẩm chất tư cách lành
mạnh, lương tâm nghề nghiệp và trách nhiệm cao trong công việc.Trước đây do chưa chú trọng đúng
mức đến vị trí của người lao động, chúng ta chưa biết khai thác phát huy mọi sức mạnh của nhân tố con

người. Đành rằng năng lực và kinh nghiệm SX của con người còn phụ thuộc vào những TLSX hiện có mà
họ đang sử dụng. Nhưng tích cực sáng tạo của họ đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Nền văn minh nhân loại suy cho cùng là do sự phát triển của LLSX một cách đúng hướng . Xác định
con đường đi lên của CNXH không qua giai đoạn phát triển của CNTB, trong đó có vấn đề phát triển LLSX
như thế nào là nhiệm vụ quan trọng mang tính cấp bách ở nước ta . Nó không những ảnh hưởng đến
việc định hướng sự phát triển LLSX mà còn tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế
- xã hội nước nhà .
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng đều có quy luật vận động và phát triển của nó . Đối với LLSX cũng
vậy, nó cũng tuân thủ sự vận động và phát triển bằng biện chứng giữa tuần tự và nhảy vọt. Tuần tự trong
LLSX được hiểu là một quá trình biến đổi dần dần về số lượng của nó . Nhảy vọt trong LLSX là một quá
trùnh biến đổi sâu sắc căn bản về chất lượng của nó, là quá trình biến đổi từ chất cũ sang chất mới.
Mặc dù giữa hình thức phát triển nhảy vọt và tuần tự có sự khác nhau cơ bản song chúng có mối
quan hệ biện chứng với nhau . Hình thức phát triển này làm tiền đề cho hình thức phát triển kia như là
mối quan hệ nhân quả, chúng là các giai đoạn phát triển của một quá trình thống nhất .
Giai đoạn phát triển tuần tự về mặt lượng tự nó không làm thay đổi chất lượng của LLSX mà chỉ tạo
nên sự thay đổi những thuộc tính về lượng, chỉ là bước chuẩn bị tiền đề để chuyển sang một giai đoạn
phát triển mới, cao hơn, mạnh hơn về chất . Sự phát triển có tính cách mạng của LLSX là bước nhảy vọt
căn bản tạo nên một chất lượng hoàn toàn mới trong kết cấu cấu trúc cũng như trong mối quan hệ giữa
các yếu tố cấu thành LLSX. Sự phát triển trong LLSX có đặc tính làm thay đổi căn bản những tư liệu lao
động, quy trình công nghệ cơ sở khoa học của SX, yếu tố chủ quan trong LLSX .
Hành trang của chúng ta để đi lên CNXH là quá thấp và lạc hậu, không tập chung. Chỉ cần nhìn lại
tình hình SX nông nghiệp: cho đến năm 80 nông nghiệp chưa vượt ra khỏi khuôn khổ của nền SX nhỏ, nó
chỉ mới đang ở ngưỡng cửa của SX hàng hoá. Hiện nay nông nghiệp nước ta chiếm 70 %lực lượng lao
động XH,sức kéo trâu bò mới chỉ đảm bảo được 47% diện tích canh tác, sức kéo bằng máy đảm bảo 37%,
còn lại 16% diện tích chưa có sức kéo phải dùng sức người để thay thế .
Về trình độ văn hoá và trình độ kỹ thuật của người lao động ở nước ta vẫn đang còn thấp, năng lực
quản lý còn kém, tỷ lệ cán bộ ở trình độ đại học đạt 3,7%. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự lạc hậu
đó trong LLSX của nước ta hiện nay: Một đất nước vừa thoát ra khỏi chế độ phong kiến nửa thuộc địa,
lại bị kìm hãm bởi 30 năm chiến tranh .
Trong một thời gian dài dường như chúng ta đã nhầm tưởng rằng cứ có QHSX XHCN là có CNXH

mà như quên đi rằng QHSX phải dựa trên cơ sở LLSX hiện có chúng ta đã nóng vội, duy ý chí trong việc
xác điịnh bước đi, cũng như việc chọn lựa các hình thức tổ chức kinh tế. Chúng ta gần như đồng nhất
QHSX với quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất (TLSX), đã tuyệt đối hoá thành phần kinh tế quốc doanh .
Trong LLSX chúng ta chỉ chú ý đến TLSX, gia tăng TLSX một cách thuần tuý mà thiếu sự cân xứng cần
thiết ở yếu tố con người cả về trình độ lẫn thái độ lao động của con người. Bản thân con người là yếu tố
chủ thể quan trọng nhất trong sản xuất, song đặt trong cơ chế quản lý tập chung quan liêu bao cấp nên
6|Tra n g


con người đã trở thành thực thể thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế và mất đi một cách tự nhiên. Tất
cả những sai lầm đó đã tạo nên sự ngã gục trong tiến trình phát triển của LLSX.Trong hoàn cảnh hiện nay
LLSX truyền thống còn là nguồn bổ sung quan trọng đối với giai đoạn chuyển tiếp của LLSX. Đi lên sản
xuất XHCN đòi hỏi tất yếu phải thực hiện: hiện đại hoá LLSX, kết hợp các yếu tố truyền thống và hiện đại
để tạo nên một sự phát triển ổn định, bình thường của LLSX .
Trong thời đại ngày nay không thể đẩy nhanh hay rút ngắn thời hạn phát triển tự nhiên của LLSX,
thực hiện những bước nhảy vọt về chất, nếu không có sự kết hợp trong nước với nước ngoài. Những
tiến bộ to lớn của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay trên thế giới, cũng như tính quốc tế hoá
ngày càng tăng của LLSX đã tác động mạnh mẽ đến nhiều quốc gia .Từ đó chúng ta có thể tạo nên sự kết
hợp những tiến bộ về LLSX vốn có trong nước để đẩy nhanh và rút ngắn thời hạn của lịch sử tự nhiên,
vươn lên kịp trình độ của thế giới và trên cơ sở đó chúng ta có thể xây dựng một nền sản xuất hiên đại,
mở cửa hợp tác kinh tế với các nước bạn. Nó giúp cho việc xoá bỏ tình trạng biệt lập, khép kín và trì trệ
về nền kinh tế và văn hoá nước nhà.
Con người có thể tác động đến quá trình phát triển của LLSX, sự tác động này được thể hiện ở chỗ
con người có thể đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển của LLSX thông qua những hoạt động phù hợp
hay không phù hợp với những quy luật vận động của LLSX với quy luật phù hợp của QHSX. Mặc dù TLSX,
vốn khoa học và kỹ thuật đều là những yếu tố cần thiết để thực hiện sản xuất, xong tất cả phải thông qua
hoạt động của con người mới đem lại những hiệu quả kinh tế, những giá trị mới. Những yếu tố trên sẽ
tồn tại dưới dạng tiềm năng và nó sẽ trở thành vô hiệu hoá khi nó không được đặt trong mối quan hệ
giữa tư liệu lao động và người lao động, đối tượng lao động .
2. Quan hệ sản xuất

Đối với chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì “quan hệ sản xuất” (QHSX) là một trong những khái niệm cơ
bản, góp phần phản ánh cấu trúc và logic vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Lênin cho rằng: “Chỉ
có đem những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất (QHSX) và đem những QHSX vào trình độ của
những lực lượng sản xuất (LLSX) thì ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”.
QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất). Trong quá
trình sản xuất nảy sinh nhiều mối quan hệ, nhưng ở đây ta chỉ xét ba mối quan hệ cơ bản mà C.Mác coi
đó là ba mặt của QHSX. QHSX gồm ba mặt cơ bản sau đây:
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất (TLSX): Nói lên rằng trong quá trình sản xuất, người lao động
đang sử dụng những TLSX đó của ai, và ai là người có quyền định đoạt TLSX đó. Trong QHSX, quan hệ sở
hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của QHSX.
- Quan hệ trong tổ chức quản lý và phân công lao động: Nói lên địa vị và vai trò của các tập đoàn khác
nhau, nói lên sự trao đổi giữa các tập đoàn xã hội với nhau. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với
TLSX, nhưng trong thực tế quan hệ trong tổ chức, quản lý và phân công lao động cũng có vai trò rất quan
trọng. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương thức quản lý hợp lý thì
sản xuất vẫn có bước phát triển.
- Quan hệ phân phối sản phẩm lao động: Là cách thức phân phối kết quả sản xuất cho những quan hệ với
quá trình đó, điều đó phụ thuộc vào quan hệ của họ đối với TLSX, nhưng nếu phân phối công bằng sẽ
thúc đấy quá trình sản xuất phát triển.
7|Tra n g


Ba mặt nói trên quan hệ hữu cơ với nhau, không tách rời nhau. Trong đó quan hệ sở hữu đối với
tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với những quan hệ khác. Bản chất bất kỳ QHSX nào cũng đều
phụ thuộc vào vấn đề TLSX chủ yếu trong xã hội giải quyết như thế nào.
QHSX có vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội. Khi QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
tạo thành quy luật thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Cùng với quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất, QHSX phù hợp đã thúc đẩy xã hội loài người lần lượt phát triển qua năm hình thái kinh tế - xã hội:
Công xã nguyên thủy (Cộng sản nguyên thủy), Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến, Tư bản chủ nghĩa và Xã hội
chủ nghĩa.

Các loại hình sở hữu quy định các thành phần kinh tế tương ứng. Thực tiễn đã cho thấy một nền
kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu chứ không đơn thuần như
là hai hình thức trước đây.
Mác và Lênin trong quá trình phân tích sự vận động của các nền kinh tế đã từng nói tồn tại trong
lịch sử đã chỉ ra rằng rất hiếm khi nền kinh tế chỉ tồn tại một thành phần kinh tế duy nhất. Thời kỳ quá
độ lên CNXH là thời kỳ đấu tranh giữa hai thế lực mới và cũ, cái cũ đã bị tiêu diệt nhưng chưa bị tiêu diệt
hẳn, cái mới đang nảy sinh nhưng đang còn rất non yếu. Do đó trong nền kinh tế bao gồm những biện
pháp của thời kỳ CNTB cũng như của trước xã hội tư bản còn rơi rớt lại và còn của CNXH. Những phần đó
là những bộ phận kinh tế cùng tồn tại bên cạnh nhau trong thời kỳ quá độ hay trong nền kinh tế thị
trường .
Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhưng trong quá trình chuyển
đổi đó còn gặp rất nhiều khó khăn như: nạn thất nghiệp gia tăng tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Trong
nền kinh tế thị trường nhiều nhà sản xuất kinh doanh không hiểu quy luật cung cầu nên dễ dẫn đến
khủng hoảng kinh tế, làm cho sản xuất mất ổn định. Kinh tế thị trường cũng đẩy nhanh sự phân biệt giàu
nghèo, bất bình đẳng trong xã hội. Bên cạnh đó thì tài nguyên thiên nhiên cũng bị khai thác một cách
bừa bãi, gây ô nhiễm môi trường. Do đó sự tồn tại của nhiều nền kinh tế góp phần giải quyết việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp, thúc đẩy sự tăg trưởng và phát triển nền kinh tế.
Về các hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta hiện nay:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo chế độ XHCN ở nước ta hiện nay, vấn đề chế độ sở hữu
và các hình thức sở hữu luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cưú lý luận, song đây vẫn
là vấn đề phức tạp và có rất nhiều những ý kiến khác nhau .
Hơn 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, nước ta đã khẳng định tính đúng đắn của
đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo
toàn dân thực hiện. Thực tiễn cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm
nhiều hình thức sở hữu như:
- Sở hữu toàn dân.
- Sở hữu Nhà nước.
- Sở hữu tập thể.
- Sở hữu cá nhân.

- Sở hữu Kinh tế tư bản tư nhân.

8|Tra n g


Trong nền kinh tế nhiều thành phần mỗi hình thức nói trên có địa vị và vai trò khác nhau. Địa vị của
chúng phụ thuộc vào sự phát triển của LLSX, tiến trình của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN. Thừa nhận đa dạng hoá các loại hình sở hữu không đồng nghĩa với sự chấp nhận chế
độ người áp bức bóc lột con người. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường không thể tách rời việc đa dạng
hoá các hình thức sở hữu về TLSX. Tuy mhiên kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng là nền kinh
tế theo định hướng XHCN, chính vì vậy việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu mang nét độc đoá riêng.
Sự hình thành và phát triển một cách đa dạng các hình thức sở hữu cho phép giải phóng được các năng
lực sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, cải thiện đời sống nhân dân .
Về các thành phần kinh tế: ở nước ta, nền kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
Đảng ta xác định từ Đại hội VII: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã
hội chủ nghĩa” và được tiếp tục khẳng định qua các Đại hội VIII, IX và X.
Tại Đại hội lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức
phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của
nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư
nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích
phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng
ngày càng phát triển. Các yếu tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được
xây dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính định hướng xã hội
chủ nghĩa. Phân định rõ quyền của người sở hữu, quyền của người sử dụng tư liệu sản xuất và quyền
quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế, bảo đảm mọi tư liệu sản xuất đều có người làm chủ, mọi
đơn vị kinh tế đều tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Quan hệ phân phối bảo

đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả
kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Nhà nước quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất.”
Do điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của nước ta còn thấp cả về LLSX và QHSX, nên
việc xây dựng từng bước QHSX mới để thúc đẩy sản xuất phát triển và xã hội phát triển là một yêu cầu
tất yếu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH tính đan xen tác động lẫn nhau trong QHSX thể hiện ở chỗ sự tồn
tại của nhiều QHSX: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài đã phát huy tác dụng và đã thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Trong các thành phần kinh tế trên, Đảng ta đã xác định kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ
đạo. Kinh tế nhà nước phải thực sự nắm giữ những ngành, những lĩnh vực kinh tế trọng yếu, mũi nhọn
phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu qủa. Kinh tế nhà nước phải không ngừng
tăng cường, cũng cố và phát triển làm chỗ dựa để nhà nước thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết,
quản lý vĩ mô nền kinh tế theo định hướng XHCN. Cùng với kinh tế hợp tác (nòng cốt là hợp tác xã) dần
dần trở thành nền tảng của nền kinh quốc dân và chế độ xã hội mới. Đối với kinh tế tập thể, đây là thành
phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tập thể về TLSX. Kinh tế tập thể phát huy được sức mạnh tập thể
9|Tra n g


mà từng cá nhân không thể có được. Kinh tế tập thể sẽ không ngừng củng cố và phát triển, cùng với kinh
tế nhà nước sẽ trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Phải đổi mới kinh tế tập thể làm cho nó trở
nên đa dạng phong phú hơn, có như thế mới huy động vốn dưới nhiều hình thức và làm ăn có hiệu quả
hơn.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng XHCN lại vừa thừa nhận sự tồn tại và phát triển của
thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó không phải là nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây chúng ta sử
dụng nó như thế nào để nhanh chóng phát triển LLSX mà vẫn xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước được Đảng ta chủ trương áp dụng rộng rãi phổ biến các hình thức
kinh tế tư bản nhà nước để phát triển LLSX theo định hướng XHCN. Đối với các thành phần kinh tế khác,
Đảng ta xác định cần có sự hướng dẫn, hướng kinh tế cá thể, tiểu chủ theo lợi ích thiết thân và nhu cầu

phát triển, từng bước đi vào làm ăn hợp pháp một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh
nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Mặt khác, khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đi vào con đường liên
doanh với nhà nước, bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, tạo mối quan hệ hợp tác cùng
có lợi cho chủ và thợ. Để thực hiện công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước, chúng ta cần
sử dụng kinh tế tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà tư bản phải cày trên “mảnh đất vô
sản” biến thành phần kinh tế tư bản nhà nước thành “một trợ thủ đắc lực cho CNXH”. Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài là thành phần kinh tế mới xuất hiện trong những năm gần đây ở nước ta, sự phát triển
của thành phần kinh tế này cho phép chúng ta tranh thủ được khối lượng to lớn từ nước ngoài về vốn,
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường nước ngoài, giải quyết việc
làm, trong nước, góp phần khai thác và sử dụng hiệu quả hơn tiềm năng kinh tế ở nước ta.Vì thế, chủ
chương của nhà nước là tạo điều kiện thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển; hướng vào xuất
khẩu.
Như vậy, chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của Đảng ta thật sự khơi
dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế. Tính tích cực chủ động sáng tạo của của nhân dân được phát
huy, sản xuất, kinh doanh phát triển và đã thật sự thúc đẩy LLSX phát triển, đời sống nhân ổn định và
phát triển. Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ: “Nếu CNH, HĐH tạo nên LLSX cần thiết cho chế độ mới
thì việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống QHSX phù hợp”.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển QHSX chúng ta cũng có những thiếu sót, đúng
như Đại hội XI của Đảng ta đã đánh giá: “Một số chỉ tiêu, nhiệm vụ Đại hội X đề ra chưa đạt. Kinh tế phát
triển chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chậm; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý, phân hoá
giàu nghèo tăng lên. Những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ,
văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tội phạm,
tệ nạn xã hội, suy thoái đạo đức, lối sống chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Thể chế kinh tế, chất lượng
nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm yếu cản trở sự phát triển. Nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ. Công tác xây dựng Đảng, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân chuyển biến chậm. Còn tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã
hội.
Những hạn chế, yếu kém nói trên có nguyên nhân khách quan là do ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu; thiên tai, dịch bệnh; sự chống phá của các thế lực thù địch;
những yếu kém vốn có của nền kinh tế; nhưng trực tiếp và quyết định vẫn là nguyên nhân chủ quan:
10 | T r a n g


Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhận thức
trên một số vấn đề cụ thể của công cuộc đổi mới còn hạn chế, thiếu thống nhất. Công tác dự báo trong
nhiều lĩnh vực còn yếu. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh
vực và một số vấn đề lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Tổ chức
thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên
chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.”
Vì thế, để phát triển QHSX khai thác tốt vai trò của QHSX đối với sự phát triển kinh tế ở nước ta,
cần phải có những giải pháp thích hợp.
Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của QHSX trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta:
Thứ nhất, việc xây dựng QHSX ở nước ta phải xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước,
từ nhận thức tính quy luật từ nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn và những đặc điểm của thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta.
Thứ hai, trong xây dựng hoàn thiện QHSX mới cần chú trọng cả ba mặt: Chế độ sở hữu, chế độ
quản lý và chế độ phân phối:
- Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần
kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu
quả xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát triển lực lượng sản
xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển
chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây dựng ồ ạt
mà không tính đến hiệu quả như trước đây.
- Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính
sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu

cực, khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và toàn thể nhân dân.
- Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện đa dạng hoá các hình thức
phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Cơ chế phân phối này vừa tạo
động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn
chế những bất công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Thứ ba, phải duy trì tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta, tức là
phải thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người,
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Thứ nhất, về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất :
11 | T r a n g


Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu lao động và người lao động. Khi công cụ sản
xuất được sử dụng bởi từng cá nhân riêng biệt để sản xuất ra một sản phẩm cho xã hội không cần đến
lao động của nhiều người. Công cụ sản xuất được nhiều người sử dụng để sản xuất ra các vật phẩm thì
LLSX mang tính chất xã hội.
Trình độ phát triển của tư liệu lao động mà đặc biệt là công cụ sản xuất, là thước đo trình độ chinh
phục tự nhiên của con người. Đồng thời nó cũng là trình độ sản xuất và tiêu chuẩn đánh giá sự khác
nhau giữa các thời đại, xã hội khác nhau. Chính công cụ sản xuất và phương tiện lao động kết hợp với lao
động sáng tạo của con người là yếu tố quyết định đến năng xuất lao động.
Thứ hai, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển , biến đổi của các hình thức của
quan hệ sản xuất.
Để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và giảm bớt lao động nặng nhọc, con người không ngừng cải
tiến hoàn thiện và chế tạo ra các công cụ sản xuất mới. Đồng thời sự tiến bộ của công cụ tri thức khoa
học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động cũng ngày càng phát triển. Yếu tố

năng động này của LLSX đòi hỏi QHSX phải thích ứng với nó. LLSX quyết định sự hình thành, phát triển
của QHSX từ đó nó quy định sự phát triển và biến đổi của quan hệ sở hữu. Sự lớn mạnh của LLSX đã dẫn
đến mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Chúng ta biết rằng, các quan hệ sở
hữu XHCN xuất hiện khi LLSX đã trở nên mâu thuẫn với hình thức chiếm hữu tư bản tư nhân. Nhưng nó
vẫn chưa hoàn toà xã hội hoá trong phạm vi toàn xã hội. Chúng ta thấy rằng chỉ có thể phát triển nền sản
xuất hàng hoá dựa trên cơ sở đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế mới tạo ra sự
liên kết và tính đan xen giữa chúng thì mới có thể đưa một nền sản xuất lớn thúc đẩy cho LLSX phát
triển. Trên cơ sở đó xác lập mối quan hệ sản xuất mới và quan hệ sở hữu nói riêng .
Thứ ba, sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Mặc dù sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu bị chi phối bởi LLSX với tính cách là hình thức đa dạng
hoá các hình thức sở hữu nói riêng hay QHSH nói chung cũng có tác động trở lại đối với LLSX. Khi quan
hệ sở hữu phát triển nó thúc đẩy LLSX phát triển theo mối quan hệ sở hữu hay hình thức sở hữu đó phù
hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Không những thế mà nó định hướng và tạo điều kiện cho LLSX
phát triển.
Nếu quan hệ sở hữu phát triển lạc hậu hơn so với LLSX thì tất yếu QHSH sẽ là siềng xích kìm hãm sự
phát triển của LLSX. Trong quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ ra đời bằng những hình thức lao động khổ
sai, thích ứng với trình độ phát triển của LLSX và chế độ chiếm hữu nô lệ đã đạt được những kỳ tích to
lớn trong lịch sử văn minh nhân loại .
Tóm lại : Quy luật về sự phù hợp của QHSX nói chung, QHSH nói riêng với tính chất và trình độ phát
triển của LLSX là quy luật chung của sự phát triển xã hội. Dưới tác động của quy luật này xã hội là sự phát
triển kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất, tuy nhiên sự phù hợp này phải là sự phù
hợp biện chứng, sự phù hợp không loại trừ mâu thuẫn.
LLSX như chúng ta đã thấy luôn luôn nằm trong quan hệ biện chứng với quan hệ sản xuất. LLSX
được phát triển nhanh hay chậm về số lượng hay chất lượng cũng như tốc độ hiệu quả phù hợp của nó
phụ thuộc vào rất nhiều vấn đề như: QHSX có phù hợp với nó hay không. Chẳng hạn khi LLSX chưa phát
triển đến một trình độ cao, nhu cầu xã hội chưa phải là một tất yếu thì việc đa dạng các quan hệ sở hữu
thông qua sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế khác nhau, sẽ mở ra những khả năng cho LLSX tiếp
12 | T r a n g



tục phát triển. Ngược lại, nếu giữa LLSX và QHSX có những mâu thuẫn thì không những QHSX lỗi thời mà
ngay cả QHSX đi quá với LLSX cũng sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của LLSX. Nhưng QHSX luôn luôn
được đổi mới hoàn thiện cho phù hợp với LLSX thì khi đó quá trình biến đổi tích luỹ về lượng của LLSX sẽ
nhanh hơn, mâu thuẫn giữa chúng sẽ được giải quyết kịp thời. Do đó bước nhảy vọt trong sự phát triển
của nó có thể diễn ra sớm hơn. Chính việc hoàn thiện QHSX quyết định những nhịp độ tiến bộ kkoa học
kỹ thuật vào sự tiến bộ của hệ thống LLSX.
Trước đây nói đến CNXH chúng ta thường nói đến chế độ công hữu về tư liệu sản xuất giữa hai
hình thức toàn dân và tập thể. ở nước ta từ Đại hội thứ 6 của Đảng đến nay đã hơn mười 10 năm thực
hiện đường lối đổi mới chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN
Thành tựu đạt được trong 10 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn của đường lối đó đến nay.
Với quan điểm đó phải chăng đa dạng hoá các hình thức sở hữu chỉ khi LLSX còn thấp kém, còn khi
LLSX phát triển cao thì lại đi đến đơn nhất hoá. Thực tế lịchsử cho thấy LLSX xã hội không ngừng phát
triển, phân công lao động ngày càng sâu, cùng với sự phát triển của LLSX thì hình thức về tư liệu SX càng
trở nên đa dạng. Khi phân công lao động trong mỗi nước cũng như quốc tế cũng như khu vực ngày càng
sâu khi LLSX xã hội hoá cao thì các hình thức SH về TLSX ngày càng trở nên đa dạng. Trong các nước tư
bản phát triển cũng như trong các nước khác đều xuất hiện rất nhiều hình thức sở hữu về TLSX khác
nhau. Rõ ràng xu hướng ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu về TLSX gắn liền với sự phát triển
của lực lượng sản xuất của phân công lao động trong xã hội là một xu hướng tất yếu, là một quá trình
lịch sử- tự nhiên và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó cũng chính là quá trình xã hội hóa sản xuất
cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất.

II.
Mối quan hệ biện chứng trong hoạt động làng nghề trống đồng Đông Sơn
1. Làng nghề trống đồng Đông Sơn
Trống đồng Đông Sơn là tên một loại trống tiêu biểu cho Văn hóa Đông Sơn (700 TCN - 100) của
người Việt cổ. Nhiều chiếc trống loại này với quy mô đồ sộ, hình dáng cân đối, hài hoà đã thể hiện một
trình độ rất cao về kỹ năng và nghệ thuật, đặc biệt là những hoa văn phong phú được khắc họa, miêu tả
chân thật sinh hoạt của con người thời kỳ dựng nước mà người ta vẫn cho là chìm trong đám mây mù
của truyền thuyết Việt Nam.

2. Hoạt động của làng nghề dưới phương diện lực lượng sản xuất:
 Dưới phương diện lực lượng sản xuất- Tư liệu sản xuất
Nghề đúc đồng ở làng Chè Đông ra đời từ thế kỷ 17. Những nghệ nhân làng Chè Đông đã làm ra
nhiều báu vật vô giá như trống đồng, thạp đồng, ly, đỉnh, hạc, rùa và các đồ thờ bằng đồng khác… Những
sản phẩm đồ đồng tại đây không chỉ được đúc tinh tế, tỉ mỉ bởi bàn tay của những người nghệ nhân tài
hoa, giàu kinh nghiệm mà còn đặc biệt ở chỗ tất cả đều làm hoàn toàn bằng phương pháp thủ công
truyền thống.

13 | T r a n g


Ngoài các sản phẩm chủ yếu là trống đồng, các nghệ nhân của làng còn đúc được những bức tranh
tứ linh, tứ quý, chấp kích, bát bửu… với đề tài dân gian phong phú và đặc sắc được nhiều người ưa thích.
Những chiếc trống đồng, đồ đồng làng Chè Đông đã vượt ra khỏi lũy tre làng mang theo niềm tự hào của
người dân xứ Kẻ Chè và góp phần làm nên diện mạo mới cho làng nghề.
Về nguyên liệu và kỹ thuật, các nghệ nhân của làng nghề đúc đồng đều thực hiện các công đoạn
chủ yếu là thủ công truyền thống: Công đoạn làm khuôn, nấu nguyên liệu, công đoạn đúc, công đoạn
nguội, công đoạn đánh bóng và nhuộn sản phẩm… đều được làm theo lối “cha truyền, con nối” qua
nhiều thế hệ.



Dưới phương diện lực lượng sản xuất- Người lao động

Nghề đúc đồng không chỉ đơn thuần là làm theo quy trình sẵn có mà còn phải thổi vào từng sản
phẩm nét văn hóa truyền thống. Để có được một sản phẩm đúc đồng đạt tiêu chuẩn cần phải trải qua
một quy trình kỹ thuật phức tạp bao gồm các làm khuôn, pha chế hợp chất, nấu đồng, đúc sản phẩm,
người thợ phải chú tâm, cẩn thận chau chuốt từng chi tiết. Tới đây, gia đình tôi sẽ tiếp tục mở rộng lò
đúc đồng, đẩy mạnh việc kinh doanh, giới thiệu sản phẩm, trong đó trọng tâm là đúc trống đồng các cỡ
bằng phương pháp thủ công truyền thống để phục vụ khách đặt hàng và hướng tới xuất khẩu.

Để đúc được sản phẩm theo kiểu dáng mà khách hàng đã đặt, người thợ phải tìm loại đất sét có
đủ độ rắn nhằm tạo ra khuôn mẫu. Việc tạo ra khuôn mẫu này đòi hỏi người thợ phải lành nghề, ví như
việc trang trí họa tiết hoa văn đàn chim Lạc trên trống đồng cổ phải tuân theo đúng mẫu hoa văn cổ
vậy… Trong quá trình tạo khuôn, người thợ phải chú ý, không để cong vênh, sửa sang khuôn sao cho
chuẩn. Kế đến là công đoạn chọn, thu mua sao cho được nguyên liệu đồng nguyên chất với đủ số lượng
thành phẩm đun đồng và đổ vào khuôn. Sau khi sản phẩm đã hình thành, người thợ phải thao tác “làm
tinh” - tức là đánh bóng, khắc họa tiết theo mẫu khách hàng đặt. Đáng chú ý, nhằm hạn chế quá trình ôxi
hóa trên các sản phẩm, người thợ sẽ sơn, mạ một lớp dầu bóng để bảo quản.
Đã có một thời gian, làng nghề hoạt động kém sôi động do người tiêu dùng chuyển sang dùng đồ
nhôm, sắt, gang, nhựa, thậm chí bằng inox... vì giá thành rẻ hơn, mẫu mã đa dạng hơn nhưng khoảng 10
trở lại đây, nghề đúc đồng Chè Đông đã hồi sinh. Đến nay, những nghệ nhân tâm huyết với nghề như Lê
Văn Bảy, Lê Văn Dương, Nguyễn Bá Châu, Đặng Ích Hoàn... đã thực sự khiến làng Chè Đông "sống dậy"
với những sản phẩm nổi tiếng cả nước. Với tình yêu và niềm đam mê không bờ bến, những người thợ
đúc đồng làng Chè Đông đã mày mò, nghiên cứu, đúc thành công trống đồng bằng phương pháp thủ
công truyền thống với nhiều kích cỡ khác nhau, được các nhà khoa học trong và ngoài nước đánh giá
cao, từ chiếc trống đồng với phiên bản và hoa văn Ngọc Lũ năm 2000, chiếc trống đồng có kích thước lớn
nhất Việt Nam với đường kính mặt trống 1,51m, cao 1,21m năm 2007 đến chiếc trống đồng phiên bản
Ngọc Lũ được xem là lớn nhất thế giới nặng khoảng 8 tấn, cao 2m, đường kính mặt trống 2,7m năm
2013... Đặc biệt, vào năm 2010, tập thể nghệ nhân làng nghề đúc đồng Trà Đông đã tham gia đúc 100
chiếc trống đồng để dâng lên Đại lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội.
3. Hoạt động của làng nghề dưới phương diện quan hệ sản xuất
Nghề đúc trống đồng Đông Sơn có từ xa xưa trên đất nước Việt Nam. Quê hương của trống đồng
Đông Sơn là vùng Đất Tổ trung du Phú Thọ và các tỉnh vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam. Trống đồng
Đông Sơn đã tồn tại trong khoảng thời gian từ thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên đến thế kỷ 6 sau Công
14 | T r a n g


Nguyên. Nó là sản phẩm đầy trí tuệ của người Việt cổ. Tổ tiên ta đã vượt lên những khắc nghiệt của thiên
nhiên bằng sự dũng cảm, thông minh và sáng tạo hiếm có, đã tạo nên kỹ thuật luyện kim đồng thau
mang đậm yếu tố bản địa của người Việt, tạo nên nền văn hóa đồng thau vào loại bậc nhất ở Đông Nam

châu Á.
Trống đồng không chỉ có chức năng nhạc khí mà còn có những chức năng khác như làm biểu tượng
cho quyền lực, tôn giáo... Trống được dùng trong các nghi lễ tôn giáo, trong lễ hội, và trong chiến đấu
chống giặc ngoại xâm, khi người thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người từ khắp nơi tụ về để cùng chiến đấu.
Trống thường thuộc về những người thủ lĩnh và là biểu tượng của quyền lực. Người thủ lĩnh có quyền
lực càng lớn thì trống càng to và đẹp. Trống đồng cũng được coi là một tài sản quí, và được làm đồ tuỳ
táng khi người chủ qua đời.
Trống đồng Đông Sơn là sản phẩm của nền văn minh nông nghiệp phát triển, là một hiện vật vô cùng
quý báu, một trong những niềm tự hào sâu sắc của văn hoá Việt Nam. Ngày nay, hàng trăm chiếc trống
đồng được phát hiện và lưu giữ và trưng bày trang trọng ở các bảo tàng quốc gia và các địa phương.
Thành phẩm đồng đúc có thể gồm nhiều loại: Đồ mỹ nghệ, đồ tế khí hay đồ phụ tùng máy móc
công nghiệp. Sản phẩm đồng của làng Trà Đông tiêu thụ khá mạnh, ngoài các vật dụng bằng đồng, các
nghệ nhân còn “chế biến” cầu kì thành những thứ trang trí mỹ nghệ đẹp mắt trong nhà.
Cùng với sự đổi mới về công nghệ luyện kim, các sản phẩm trống đồng cũng ngày một phong phú,
đa dạng hơn. Ngày nay, các làng nghề trống đồng Đông Sơn còn sản xuất thêm nhiều sản phẩm khác
như: Chiêng đồng, tượng đồng, đồ thờ, lư hương, con giống…
Ngoài các sản phẩm truyền thống đặc trưng (đồ thờ cúng) như: lư đồng, bát hương, tam sự, ngũ
sự, chuông, cồng, chiêng…Các sản phẩm lưu niệm tinh xảo bằng đồng cũng được sản xuất phục vụ người
yêu văn hóa trưng bày và khách du lịch như: tượng danh nhân, trống đồng, bình hoa, các biểu tượng văn
hóa tiêu biểu Đông Sơn và đất nước.
III.

Phương hướng phát triển của làng nghề

Trong thời gian qua, sự phát triển của các làng nghề trống đồng Đông Sơn đã trải qua những
bước thăng trầm. Một số làng nghề đã phục hồi và phát triển, cùng với việc xuất hiện một số làng
nghề mới. Tuy vậy cũng có một số làng nghề bị mai một và mất hẳn. Làng nghề truyền thống trống
đồng Đông Sơn ngày nay không còn được nguyên chất từ trước nữa với sự pha tạp của những mặt
hàng thủ công khác phù hợp với sự hiện đại và nhu cầu của thị trường. Vì vật để thúc đẩy sự phát
triển của làng nghề cần có phương hướng phát triển cho nó trong tương lai:




Họa động kinh doanh của các làng nghề đúc trống cần phải có nhiều nguồn vốn hơn nữa để
mở rộng quy mô, cơ cấu cũng như trình độ lao động.
Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình phát triển làng nghề, nâng cao đời sống của
các hộ gia đình

KẾT LUẬN

15 | T r a n g


Làng nghề truyền thống trống đồng Đông Sơn đã đi vào lòng người Việt qua
những câu ca dao, tục ngữ, chuyện kể. Là một trong những làng nghề truyền
thống nổi tiếng cả nước với những chiếc trống đồng lâu đời và thiêng liêng bậc
nhất Việt Nam. Trải qua bao thế hệ, các làng nghề trống đồng Đông Sơn vẫn luôn
giữ được những thủ pháp nghệ thuật truyền thống. Bởi vật, trống đồng Đông Sơn
và các loại sản phẩm tương tự không chỉ được ưa chuộng trong nước mà đã vượt
ra ngoài ngoài lãnh thổ Việt Nam.

16 | T r a n g



×