Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.89 KB, 24 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích
Việc phát huy tính tích cực của học sinh vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ
văn là rất quan trọng vì nó giúp học sinh biết cách dùng từ đặt câu khi viết bài. Đặc
biệt nó giúp học sinh xoá đi mặc cảm ngại học văn, không thích học Văn. Từ đó
chất lượng môn văn được cải thiện.
.2. Đóng góp về mặt khoa học, kinh tế, xã hội... của sáng kiến kinh nghiệm
Giúp học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo khi tiếp cận tác phẩm văn học và khi
viết bài tập làm văn.

II. PHẦN NỘI DUNG
1


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Chương 1: Cơ sở khoa học của sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lí luận.
Hiện nay, giáo dục và đào tạo đã và đang tiếp tục coi trọng đổi mới phương
pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
trong đó môn Ngữ văn là một môn khoa học có tính đặc thù, giàu tính nhân văn sâu
sắc. Học văn không chỉ để cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm văn chương mà
còn học cách làm người. Vì vậy, người dạy văn, học văn giống như người lao động
nghệ thuật, không chỉ tìm hiểu, khám phá, cảm nhận, mà còn phải nhập thân, biến
kiến thức văn chương thành máu thịt, một phần đời sống không thể thiếu của mình.
Muốn vậy người giáo viên phải tổ chức cho học sinh thực sự được sống, được tham


gia, được khám phá và cảm nhận kiến thức văn chương trong quá trình học.
Đối với bộ môn Ngữ văn, chương trình mang tính đồng tâm, lặp lại và tiếp
nối một số kiến thức đã học ở Tiểu học. Bởi vậy trong quá trình dạy học nếu giáo
viên không biết cách khám phá, khai thác kiến thức và những hiểu biết đã có của
học sinh để nâng cao trình độ nhận thức, kiến thức, để áp dụng cách thức tổ chức
dạy học đúng đối tượng sẽ gây ra sự nhàm chán, nhạt nhẽo đối với học sinh vì các
em nghĩ rằng mình phải học những điều đã biết rồi. Tuy nhiên, theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng của môn học thì yêu cầu của vịêc tiếp cận và khai thác kiến thức môn
Ngữ văn khác hẳn với yêu cầu mục tiêu dạy học môn Tiếng Việt ở tiểu học. Một
trong các yêu cầu phải đặt ra đối với giáo viên là phải tích cực đổi mới PPDH
nhằm xây dựng lớp học thân thiện, hướng dẫn học sinh tiếp nhận, khai thác kiến
thức một cách tích cực, hứng thú và chủ động, sáng tạo, đúng đặc thù của phân
môn Văn nói chung và phân môn Tiếng Việt nói riêng. Học sinh từ những văn bản
được học sẽ tiến tới tự biết cách dùng từ đặt câu và cao hơn là có kĩ năng tự tạo lập
được văn bản theo yêu cầu, biết nhận biết và bước đầu sử dụng được các biện pháp
2


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

nghệ thuật trong sáng tạo văn chương từ đó không chỉ cảm nhận được cái hay, cái
đẹp của các tác phẩm văn chương mà còn tiến tới sáng tạo ra các tác phẩm có giá
trị nghệ thuật. Trên cơ sở nắm vững đặc trưng bộ môn của từng khối lớp, giáo viên
phải là người hướng dẫn, tổ chức, định hướng cho học sinh từng bước tiếp cận, đi
vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chương một cách tự nhiên, say mê, hứng
thú. Bằng nhiều hình thức khác nhau. người thầy cần tạo cho học sinh những cơ hội
để được đọc, được cảm, được suy ngẫm được vận dụng, được sáng tạo...giáo viên
không thể làm hộ, làm thay trò để trò bắt chước theo.
2. Cơ sở thực tiễn.

Hiện nay, tình trạng học sinh ngại học văn, chất lượng bộ môn Ngữ văn thấp.
Nguyên nhân của thực trạng này có từ nhiều phía: gia đình, xã hội, cơ chế thi cử,
cơ hội tìm việc làm, thu nhập... Từ góc độ nhà trường, vấn đề chương trình, sách
giáo khoa, cách dạy của thầy, cách học của trò,...
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5 tháng 6 năm 2006 của bộ tưởng Bộ GDĐT đã nêu:
“Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điệu kiện lớp học; bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn ; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, trách nhiệm
học tập cho học sinh.”
Đổi mới PPDH không phải là nội dung mới. Thực tế ngành giáo dục đã tiến
hành đổi mới qua nhiều năm nhưng trong quá trình thực hiện nhiều giáo viên còn
lúng túng, tổ chức chưa mấy hiệu quả. Giáo viên mặc dầu đã có ý thức đổi mới
phương pháp dạy học văn nhưng việc thực hiện đôi khi còn mang tính chất hình
thức, thử nghiệm chứ chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Vẫn không tránh
khỏi hiện tượng một bộ phận giáo viên ngại đổi mới, vẫn giữ thói quen dạy học
3


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều: giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe,
ghi nhớ và nhắc lại những điều giáo viên đã truyền đạt. Từ đó vô tình biến học sinh
thành " bình chứa", thiếu sự chủ động, học theo lối "học vẹt", không phát huy vai
trò cá nhân. Giờ học tác phẩm văn chương vì thế vẫn chưa thu hút được sự chú ý
của người học.
Thực hiện chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin, rất nhiều giáo viên đã
cố gắng ứng dụng CNTT vào dạy học. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy vẫn

còn nặng về hình thức, mang tính trình diễn với những hình ảnh, hiệu ứng rối mắt.
Nhiều giờ dạy còn ôm đồm, tham lam nhồi nhét các loại thông tin, phim, ảnh làm
mất thời gian nhiều mà hiệu quả giờ dạy vẫn nhiều hạn chế. Một số hình thức, kĩ
thuật dạy học mới đã được giáo viên áp dụng, nhất là hoạt động nhóm- hoạt động
tích cực nhưng giáo viên áp dụng chưa hiệu quả, vẫn chỉ mang tính hình thức.
Chương 2: Thực trạng vấn đề mà nội dung sáng kiến kinh nghiệm đề cập đến.
I. Khái niệm về phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực.
PPDH tích cực là cách thức hoạt động của thầy và trò nhằm tích cực hoá hoạt
động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong đó các hoạt động học
tập được tổ chức, định hướng bởi giáo viên, người học không thụ động chờ đợi mà
tự lực tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận
dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn qua đó lĩnh hội nội dung học tập
và phát triển năng lực sáng tạo.
Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp
tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy học tích cực không phải là một
phương pháp dạy học cụ thể mà là một khái niệm bao gồm nhiều phương pháp,
hình thức, kĩ thuật khác nhau nhằm tích cực hoá, tăng cường sự tham gia của người
học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học tập, năng lực sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
4


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Phương pháp dạy học chia làm ba cấp độ: cấp độ vĩ mô (Quan điểm dạy
học), cấp độ trung gian (Phương pháp dạy học cụ thể) và cấp đô vi mô (Kĩ thuật
dạy học). Vậy kĩ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của giáo
viên và học sinh trong các tình huống hoạt động nhằm thực hiện giải quyết một
nhiệm vụ, nội dung cụ thể.

Để đáp ứng các phương pháp, kĩ thuật trong dạy học đạt hiệu quả, tích cực
hoá học sinh, ngoài việc tuân thủ các quy trình mang tính đặc trưng của phương
pháp, kĩ thuật dạy học còn đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo và nghệ thuật sư phạm của
người giáo viên. Một phương pháp dạy học nào đó tự nó không tích cực hay tiêu
cực. Đồng thời phương pháp nào cũng gắn liền với người sử dụng nó. Cho nên, một
phương pháp dạy học có phát huy được tính tích cực học tập của học sinh hay
không còn tuỳ thuộc vào năng lực của người giáo viên sử dụng nó. Tức là, bất kì
cách thức tổ chức dạy học nào được thực hiện tạo nên những "chấn động", khiến
các em có những vận động trí tuệ, cảm xúc đều là phương pháp dạy học tích cực.
" Không nên đặt đối lập những nguyên tắc dạy học cổ điển với những
nguyên tắc, lí luận dạy hoc gọi là mới. Mỗi nhóm nguyên tắc đó có một ý nghĩa,
bản chất, và nếu suy nghĩ sâu sắc về từng hệ thống những nguyên tắc đó thì sẽ thấy
chúng đều nhấn mạnh từ những khía cạnh khác nhau sự cần thiết phát huy tính tích
cực của học sinh trong quá trình học tập. Vì thế không thể coi những nguyên tắc
dạy học cổ điển hình như đã lỗi thời cũng như không nên tưởng rằng chỉ dựa vào
những nguyên tắc lí luận dạy học "mới" mới có thể giải quyết được mọi vấn đề và
mọi khó khăn của dạy học". Vận dụng các phương pháp dạy học thế nào, phát huy
được tính tích cực của học sinh hay không và phát huy đến mức độ nào là tuỳ thuộc
rất lớn vào trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vào khả năng tổ chức học sinh hoạt
động học tập của giáo viên.

5


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

II. Yêu cầu vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học bám sát chuẩn kiến thức,
kĩ năng.
- Để dạy học đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng, giáo viên cần bám sát vào tài

liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng, nhất là các mục II và III: trọng
tâm kiến thức, kĩ năng và hướng dẫn thực hiện để thiết kế dạy học nhằm đạt được
các yêu cầu cơ bản, tối thiểu của giờ học, tránh lệ thuộc hoàn toàn vào SGK hay
máy móc dạy hết toàn bộ nội dung mà sách giáo viên nêu ra dẫn đến tình trạng
thiếu thời gian, quá tải, nặng về thuyết trình. Mặt khác, cần căn cứ vào khả năng
tiếp thu của học sinh, vào mục tiêu bồi dưỡng học sinh năng khiếu...giáo viên phải
điều chỉnh, bổ sung để dạy, kiểm tra vượt chuẩn, trên chuẩn, sao cho vẫn đảm bảo
đủ kiến thức chính xác mà vẫn làm bật trọng tâm kiến thức kĩ năng của bài học.
- Nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để xác định kiến thức
minh hoạ cho chuẩn kiến thức – kĩ năng (chuẩn KT- KN).
- Dựa vào chuẩn KT- KN để thiết kế các hoạt động trong học tập trên lớp.
Nhưng như ta đã biết, để tổ chức các hoạt động học tập (nhất là các hoạt
động trí tuệ, cảm xúc bên trong của học sinh), giáo viên phải sử dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học. đặc biệt là phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực. Bởi hoạt
động học tập nói chung, hoạt động nhận thức nói riêng ở học sinh chỉ thực sự diễn
ra khi nó được" kích hoạt", điều khiển bởi các biện pháp tác động của người dạy.
Trong một bài học, giáo viên có thể vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học
tích cực. Tuy nhiên, để vận dụng kĩ thuật dạy học tích cực vào bài học thì giáo viên
phải chọn lựa
Một bài học có thể vận dụng một hoặc hai hoặc hơn hai kĩ thuật dạy học để tạo
điểm nhấn cho bài học.
Chương 3: Những giải pháp mang tính khả thi
6


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

1. Phân tích ngữ liệu, hình thành khái niệm một cách tích cực, sáng tạo thông
qua phương pháp vấn đáp.

Vấn đáp là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra câu hỏi để học sinh trả lời,
qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Đây là phương pháp dạy học phổ
biến thông dụng nhất. Căn cứ vào tính chất hoạt động nhận thức, người ta phân biệt
các loại phương pháp vấn đáp là vấn đáp tái hiện, vấn đáp tìm tòi, vấn đáp giải
thích minh hoạ.
- Vấn đáp tái hiện: Yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết hoặc tái hiện
nội dung miêu tả, nội dung sự kiện...trong bài học. Vấn đáp tái hiện không được
xem là phương pháp có giá trị sư phạm cao bởi nó chỉ hướng người học tới tư duy
bậc thấp. Tuy nhiên riêng với phân môn tiếng Việt lớp 6 thì phương pháp này lại có
thể được sử dụng thường xuyên vì hầu hết các kiến thức Tiếng việt trong chương
trình lớp 6 là các em đã được tìm hiểu ở tiểu học. Vì vậy để học sinh nhớ lại kiến
thức buộc giáo viên phải sử dụng phương pháp này. Phương pháp này đắc dụng khi
giúp học sinh tái hiện tri thức tạo cơ sở cho các hoạt động tư duy cấp cao sẽ diễn ra
tiếp theo.
Ví dụ: Khi dạy bài " Tính từ và cụm tính từ"- Ngữ văn 6, câu hỏi tái hiện đầu
tiên giáo viên có thể sử dụng là: Dựa vào kiến thức đã học về tính từ ở tiểu học em
hãy cho biết tính từ là gì?
Để có câu trả lời buộc học sinh phải nhớ lại kiến thức về tính từ đã được học ở lớp
dưới. Sự tái hiện ở phần này sẽ giúp học sinh có những kiến thức đầu tiên về tính
từ. Qua đó, học sinh có thể tiếp tục trả lời câu hỏi tiếp theo của giáo viên ở mức độ
cao hơn, đó là câu hỏi nhận biết về tính từ.
- Vấn đáp giải thích- minh hoạ: Giáo viên đưa ra những câu hỏi hướng dẫn
học sinh giải thích chứng minh làm sáng rõ nội dung nào đó.
7


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Vẫn tiếp tục với ví dụ trên, giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu học sinh giải

thích, minh hoạ: (?) Tại sao em lại cho rằng các từ em vừa tìm được là các tính từ?
Em hãy lấy một tính từ khác cùng có chức năng như các tính tờ vừa tìm được?
- Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí
để hướng dẫn học sinh từng bước phát hiện ra bản chất sự vật, tính quy luật của
hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn hiểu biết. Trong vấn đáp tìm tòi,
giáo viên giống như người tổ chức tìm tòi, còn học sinh giống như người tự lực
phát hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc cuộc đàm thoại, học sinh có được
niềm vui của sự khám phá trưởng thành thêm một bước về trình độ tư duy. Vẫn
theo ví dụ trên, giáo viên tổ chức học sinh khám phá về các chức năng khác của
tính từ ngoài các chức năng các em đã biết ở tiểu học về tính từ: Chức năng ngữ
pháp, khả năng kết hợp của tính từ để tạo thành cụm tính từ...
(?) Tính từ thường giữ chức vụ ngữ pháp gì trong câu?
(?) Nó thường kết hợp với những từ nào về phía trước? Từ nào về phía sau?
+ Thường làm vị ngữ. Riêng làm chủ ngữ thì hạn chế hơn
+ Thường kết hợp với các từ: đã, sẽ, đang, cũng, vẫn, còn....
Khi hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu, hình thành khái niệm giáo viên
thường sử dụng phương pháp vấn đáp với hệ thống câu hỏi phù hợp. Thực chất của
phương pháp này là giáo viên thiết kế một hệt hống câu hỏi lô gíc, chặt chẽ, dẫn dắt
HS đi từ tái hiện đến phát hiện, phân tích, rút ra kết luận và vận dụng thực tiễn.
Để thực hiện tốt công việc này, câu hỏi phải có tính hướng đích rõ ràng. Câu
hỏi cần cụ thể nhưng không vụn vặt, sáng lời nhưng không lộ ý, vừa gợi mở, vừa
thách thức trí tuệ học sinh (HS). Điều quan trọng nhất là các câu hỏi ấy phải nhằm
tích cực hoá các hoạt động tư duy của học sinh chứ không phải để thách đố học trò
hay biến câu trả lời của học trò thành bước đệm để thầy thông báo kiến thức.
8


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.


Trong phương pháp vấn đáp giáo viên (GV) chú ý kĩ thuật đặt các loại câu hỏi theo
các cấp độ nhận thức:
+ Câu hỏi biết
+ Câu hỏi hiểu
+ Câu hỏi phân tích
+ Câu hỏi đánh giá
+ Câu hỏi áp dụng
+ Câu hỏi sáng tạo
2. Phương pháp trò chơi
Phương pháp trò chơi là phương pháp tổ chức cho học sinh tìm hiểu một vấn
đề hay thể nghiệm những hành động, những thái độ, những việc làm thông qua một
trò chơi nào đó.
Quy trình thực hiện:
- GV phổ biến tên trò chơi, nội dung và luật chơi cho HS.
- Chơi thử ( nếu cần thiết).
- HS tiến hành chơi.
- Đánh giá sau trò chơi.
- Thảo luận về ý nghĩa giáo dục của trò chơi.
Ví dụ: Khi dạy bài Câu ghép – Ngữ văn 8, GV có thể tổ chức cho HS chơi
trò chơi “Thi đặt câu ghép có sử dụng quan hệ từ”.
Chuẩn bị: GV chuẩn bị 1 bảng phụ ghi các cặp quan hệ từ dùng để đặt câu:
a. vì.....nên
b. nếu ....thì
9


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

c. tuy....nhưng

d. không những.....mà còn
Tiến hành:
- GV chia lớp thành 2 nhóm
- Yêu cầu nhóm 1 đặt vế 1, nhóm 2 đặt vế 2, sau đó đảo ngược lại.
- Sau 10 giây nếu nhóm nào không ứng đối kịp thì nhóm đó sẽ bị thua.
- Trò chơi tiếp tục đến khi đặt hết các cặp quan hệ từ trên bảng phụ.
- GV tổng kết, khuyến khích, động viên.
Hoặc khi dạy bài “Tổng kết từ vựng”- Ngữ văn 9, tôi tổ chức cho học sinh chơi
trò chơi “Ai nhanh hơn” khi ôn tập phần Thành ngữ.
- Đội chơi: 2 đội.
- Nội dung chơi: Tìm thành ngữ có yếu tố chỉ động vật và thành ngữ chỉ
thực vật.
- Thời gian chơi: 5 phút.
- Hình thức chơi: tiếp sức.
Khi trò chơi kết thúc, giáo viên cùng 2 đội chơi kiểm tra kết quả, khuyến
khích đội thắng cuộc. Qua trò chơi, học sinh hiểu rõ hơn đặc điểm của thành ngữ,
tăng thêm vốn thành ngữ cho mình; giáo dục tinh thần đồng đội, ý thức tổ chức kỉ
luật...
3. Phương pháp dạy học nhóm.
Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp
tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó HS của một lớp học được chia thành các
nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm
10


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm
sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.

Khi sử dụng phương pháp dạy học nhóm cần chú ý các kĩ thuật:
*. Kĩ thuật chia nhóm
Có nhiều cách chia nhóm khác nhau:
- Theo số điểm danh, theo các màu sắc, theo các loài hoa, các mùa trong
năm…
- Theo biểu tượng
- Theo hình ghép
- Theo sở thích
- Theo tháng sinh
- Theo trình độ
- Theo giới tính
- Ngẫu nhiên
....
*. Kĩ thuật giao nhiệm vụ
Giao nhiệm vụ phải cụ thể, rõ ràng:
- Nhiệm vụ giao cho cá nhân/nhóm nào?
- Nhiệm vụ là gì?
- Địa điểm thực hiện nhiệm vụ ở đâu?
- Thời gian thực hiện nhiệm vụ là bao nhiêu?
- Phương tiện thực hiện nhiệm vụ là gì?
11


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

- Sản phẩm cuối cùng cần có là gì?
- Cách thức trình bày/ đánh giá sản phẩm như thế nào?
Nhiệm vụ phải phù hợp với:
+ Mục tiêu hoạt động

+ Trình độ học vấn
+ Thời gian, không gian hoạt động
+ Cơ sở vật chất, trang thiết bị
Ví dụ: Khi dạy Khi dạy văn bản ”Cụm danh từ”- Ngữ văn 6, tôi sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm: sau khi học sinh tìm được một số cụm danh từ, HS
sẽ tiến hành thảo luận. Tiến hành:
- Chia nhóm: 4 nhóm (2 bàn 1 nhóm)
- Nội dung thảo luận: Nội dung của phần phụ trước và phần phụ sau trong
cụm danh từ.
- Thời gian: 2 phút.
HS sẽ nhận thức được: phần phụ trước trong cụm danh từ bổ sung ý nghĩa về
mặt số và lượng, phần phụ sau nêu lên đặc điểm của sự vật mà danh từ biểu hiện
hoặc xác định vị trí của sự vật đó trong không gian và thời gian.
4. Kĩ thuật học theo góc
Là một phương pháp tổ chức hoạt động học tập theo đó học sinh thức hiện
được các nhiệm vụ khác nhau tại các vị trí cụ thể trong không gian lớp học đảm
bảo cho HS học sâu và học thoải mái.
Các bước dạy học theo góc
Bước 1: Lựa chọn nội dung bài học phù hợp
12


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Bước 2: Xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng góc
Bước 3: Thiết kế các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ ở từng góc bao gồm
phương tiện, tài liệu (tư liệu nguồn, văn bản hướng dẫn làm việc theo góc; bản
hướng dẫn theo mức độ hỗ trợ, bản hướng dẫn tự đánh giá,…)
Bước 4: Tổ chức thực hiện học theo góc

- HS được lựa chọn góc theo sở thích
- HS được học luân phiên tại các góc theo thời gian quy định (ví dụ 10’ - 15’
tại mỗi góc) để đảm bảo học sâu
Bước 5: Tổ chức trao đổi/chia sẻ (thực hiện linh hoạt)
Trong giờ tiếng Việt giáo viên cũng có thể vận dụng kĩ thuật học theo góc ở
một số bài về từ loại hoặc các phép tu từ. Giáo viên có thể cho các em lựa chọn góc
học theo sở thích.
Ví dụ: Hoạt động tìm hiểu về Cụm danh từ – Ngữ văn 6, giáo viên tổ chức ba góc:
góc quan sát, góc phân tích và góc trải nghiệm.
Góc quan sát: Giáo viên cho HS xem một số bức tranh, hình ảnh và có cụm
danh từ đi kèm để rút ra đặc điểm của cụm danh từ.
Góc trải nghiệm: Trên cơ sở hiểu biết về cụm danh từ, giáo viên cho học rút
ra khái niệm về cụm danh từ.
Góc phân tích: Cho học sinh lấy ví dụ về cụm danh từ rồi phân tích đặc điểm
cấu tạo.
Để hoạt động học theo góc có kết quả, trên cơ sở bài học đã thiết kế, giáo viên bố
trí không gian lớp học theo số góc phù hợp. Tốt nhất những giờ học sử dụng kĩ
thuật học theo góc giáo viên có thể tổ chức cho các em học ở phòng nghe nhìn.

13


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Phòng học này bàn ghế dược kê sẵn theo số góc quy định. Mỗi góc có đủ tài liệu đồ
dùng, phương tiện học tập phù hợp với nhiệm vụ học của góc đó.
Trước khi HS chọn góc, giáo viên giới thiệu bài học, phương pháp học theo
góc, nhiệm vụ tại mỗi góc, thời gian tối đa để thực hiện nhiệm vụ tại các góc và
cho phép học sinh chọn góc xuất phát. HS lắng nghe, tìm hiểu, quyết định chọn góc

theo sở thích. Tuy nhiên giáo viên sẽ phải điều chỉnh nếu như có số HS quá đông
cùng chọn một góc. Giáo viên phát phiếu học tập ghi yêu cầu sau khi hoạt động ở
mỗi góc. HS thực hiện nhiệm vụ tại các góc, giáo viên quan sát, hỗ trợ.
Hết thời gian hoạt động tại mỗi góc, giáo viên yêu cầu HS luân chuyển góc,
HS luân chuyển theo chiều nhất định, theo vòng tròn để đảm bảo học sâu. Kết thúc
giờ học tại các góc, giáo viên yêu cầu đại diện các góc trình bày kết quả, các góc
khác nhận xét, đánh giá. Cuối cùng là nhận xét của giáo viên về kết quả học tập của
HS, chốt lại kiến thức trọng tâm của chủ đề.
* Lưu ý khi thực hiện kĩ thuật học theo góc: Nhiệm vụ ở các góc phải rõ ràng
cụ thể, thời gian cần được quản lí và phân bổ phù hợp với nhiệm vụ của mỗi góc và
quĩ thời gian của bài học. Giờ học 45 phút thì thời gian hoạt động tối đa của HS ở
mỗi góc là 10 phút. Trong học theo góc, HS có thể làm việc cá nhân hoặc theo cặp,
hoặc theo nhóm tại mỗi góc. Nếu làm việc theo nhóm thì yêu cầu HS bầu nhóm
trưởng, thư kí của nhóm.
Học theo góc có ưu thế khác biệt với các phương pháp dạy học truyền thống
là tăng cường sự tham gia, nâng cao hứng thú và cảm giác thoải mái của HS. HS
được chọn góc theo sở thích theo phong cách và tương đối độc lập trong thực hiện
các nhiệm vụ nên tạo được sự hứng thú và thoải mái cho HS. Hơn nữa HS được
học sâu và hiệu quả bề vững: HS được tìm hiểu một nội dung theo các cách khác
nhau (quan sát, thực nghiệm, phân tích, ứng dụng...) do đó HS hiểu sâu nhớ lâu hơn
so với phương pháp thuyết trình.
14


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Tuy nhiên, để thực hiện được kĩ thuật này thì không phải không gian lớp học
nào cũng tiến hành được. Đây là vấn đề khó khăn trong trang thiết bị của nhà
trường. Thứ hai, hoạt động này cần nhiều thời gian nên trong một tiết học giáo viên

phải lựa chọn hoạt động cho phù hợp.
Kĩ thuật học theo góc phù hợp với hoạt động tìm hiểu kiến thức mới trong
bài học. Giáo viên không nên sử dụng kĩ thuật này trong các tiết ôn tập, hệ thống
hoá kiến thức.
5. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”.
- Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt
động cá nhân và nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường
tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS, phát triển mô hình có sự tương tác giữa
các HS.
- Tác dụng đối với HS: HS được học cách tiếp cận với nhiều giải pháp và
chiến lược khác nhau. Rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề; HS
đạt được mục tiêu học tập cá nhân cũng như hợp tác; sự phối hợp làm việc cá nhân
và làm việc nhóm tạo cơ hội nhiều hơn cho học tập có sự phân hoá. Nâng cao mối
quan hệ giữa HS, tăng cường sự hợp tác giao tiếp, học cách chia sẻ kinh nghiệm và
tôn trọng lẫn nhau; nâng cao hiệu quả học tập.
- Cách tiến hành: Chia HS thành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ
giấy A0. Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính và các phần xung
quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm. Mỗi người ngồi
vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh.
- Thực hiện kĩ thuật "khăn phủ bàn" qua 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn HS hoạt động độc lập: Các thành viên trong nhóm ngồi vào vị
trí hoạt động tư duy tập trung vào câu hỏi (hoặc chủ đề,...), mỗi cá nhân làm việc
15


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi theo cách nghĩ,
cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phần giấy của mình được quy định

trong "khăn phủ bàn" độc lập tương đối với các thành viên khác.
+ Giai đoạn HS hoạt động tương tác: Trên cơ sở ý kiến của mỗi các nhân,
HS thảo luận nhóm thống nhất ý kiến sau đó viết ý kiến chung của cả nhóm vào ô
giữa tấm khăn phủ bàn.
+ Sau khi thống nhất ý kiến chung, đại diện các nhóm trình bày kết quả. Các
nhóm khác tham gia phản hồi góp ý kiến, giáo viên nhận xét, kết luận.
Vớ dụ: Khi dạy bài “Nghĩa tường minh và hàm ý”- Ngữ văn 9.
- Chia lớp thành 6 nhóm.
- Yêu cầu: tìm hàm ý trong các câu
Nhóm 1: Mưa rồi đấy.
Nhóm 2: Ôi nóng quá!
Nhóm 3: Bút của tớ hỏng rồi.
Nhóm 4: Tớ đau chân quá!
Nhóm 5: Xe đạp của tớ hỏng rồi.
Nhóm 6: Bài tập này khó quá.
- Học sinh viết ý kiến cá nhân vào ô. Sau đó cả nhóm tập hợp lại thảo luận thống
nhất chung.
Ví dụ trong câu “Ôi nóng quá” có thể đưa ra các hàm ý:
+ Mở cửa ra.
+ Bật quạt lên.
+ Bật quạt to lên
16


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

+ Đi tắm đi.
* Một số lưu ý khi tổ chức dạy học theo kĩ thuật khăn phủ bàn
Trong trường hợp số HS trong nhóm quá đông, không đủ chỗ trên khăn phủ

bàn, có thể phát cho HS những mảnh giấy nhỏ để HS ghi ý kiến cá nhân, sau đó
đính vào phần xung quanh khăn phủ bàn.
Trong quá trình thảo luận thống nhất ý kiến, ghi những ý kiến thống nhất vào
giữa khăn phủ bàn, những ý kiến trùng nhau có thể đính chồng lên nhau. Những ý
kiến không thống nhất, cá nhân có quyền bảo lưu và được giữ lại ở phần xung
quanh khăn phủ bàn.
Kĩ thuật khăn phủ bàn là một kĩ thuật dạy học đơn giản, dễ thực hiện, có thể
tổ chức trong tất cả các bài học giống như học theo nhóm. Tuy nhiên kĩ thuật khăn
phủ bàn khắc phục được những hạn chế của học theo nhóm. Trong học theo nhóm,
nếu tổ chức không tốt đôi khi chỉ có thành viên tích cực làm việc, các thành viên
khác thường hay ỷ lại trông chờ hoặc không hoạt động. Do đó mất nhiều thời gian
và hiệu quả học tập không cao.
Trong kĩ thuật khăn phủ bàn đòi hỏi tất cả các thành viên làm việc cá nhân,
suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp
hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Các cuộc thảo luận thường có sự tham gia
của tất cả các thành viên, các thành viên có cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm, tự
đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy hiệu quả
học tập bảo đảm và không mất thời gian cũng như giữ được trật tự trong lớp học.
Kĩ thuật khăn phủ bàn là một trong những kĩ thuật thông dụng, tích cực.
Trong giờ đọc văn giáo viên có thể sử dụng kĩ thuật này ở phần luyện tập, củng cố
và khắc sâu kiến thức của bài học. Phần luyện tập cuối giờ giáo viên đưa ra một số
bài tập, câu hỏi mở nhằm kiểm tra sự thông hiểu và khả năng vận dụng kiến thức
17


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

bài học trong thực tế của HS. Từ bài tập khăn phủ bàn giáo viên có thể kiểm tra
được việc lĩnh hội kiến thức của từng HS, đánh giá mức độ dưới chuẩn, đạt chuẩn

hoặc trên chuẩn. Từ đó mà điều chỉnh phương pháp dạy học cho phù hợp. Như vậy
yêu cầu về câu hỏi kiểm tra phải đảm bảo mức độ: nhận biết, thông hiểu và vận
dụng.
6. Sơ đồ KWL
Là kĩ thuật dạy học nhằm tạo điều kiện cho người học nêu được những điều
đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ đề trước khi học và
những điều đã biết sau khi học.Dựa trên sơ đồ KWL, người học tự đánh giá sự tiến
bộ của mình trong việc học đồng thời giáo viên biết được kết quả học tập của
người học, từ đó điều chỉnh việc học cho hiệu quả.
Để tạo tình huống có vấn đề, để kiểm tra việc chuẩn bị bài, mối quan tâm của
HS đối với nội dung bài học và kiến thức HS thu nhận được sau bài học, giáo viên
có thể vận dụng kĩ thuật KWL. Đây là kĩ thuật dạy học nhằm tạo điều kiện cho
người học nêu được những điều đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết
về chủ đề trước khi học và những điều đã học được sau khi học.
Cách tiến hành: Sau khi giới thiệu bài học mục tiêu cần đạt của bài học giáo
viên phát phiếu học tập "KWL", kĩ thuật này có thể thực hiện cho cá nhân hoặc cho
nhóm HS.

Học sinh điền các thông tin vào phiếu như sau:
Tên bài học:................................
Tên học sinh: ....................................….Lớp: ......
Trường:....................................
18


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

K


W

L

Những điều đã biết Những điều muốn biết

Những điều đã học được
sau bài học

- ....

- ....

- ....

- ....

- ....

- ....

- ...

- ...

- ...

HS điền vào cột K những gì đã biết liên quan đến nội dung bài học hoặc chủ đề,
viết vào cột W những gì các em muốn biết về nội dung bài học. Sau khi kết thúc
bài học, HS điền vào cột L của phiếu những gì vừa học được.


Ví dụ: Khi dạy bài “Tính từ và cụm tính từ”- Ngữ văn 6, học sinh có thể điền vào
sơ đồ theo các câu hỏi gợi ý:
- Em biết thế nào là tính từ ?
- Em muốn biết những gì qua bài học?
- Em đã biết những gì sau khi học xong bài " Tính từ và cụm tính từ" ?

K

W

L

Những điều đã biết Những điều muốn biết

Những điều đã học được
sau bài học

- Là những từ chỉ - Tính từ thường đi kèm - ....
19


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

tính chất, đặc điểm với một số từ ngữ khác: - ....
trạng thái của hoạt rất, hơi, quá, lắm.. để tạo - ...
động....
thành cụm tính từ......


Trong giờ tiếng Việt giáo viên có thể vận dụng kĩ thuật này để kiểm tra việc
chuẩn bị bài của HS, để giới thiệu bài ở đầu tiết học và để chốt kiến thức ở cuối bài
học dựa trên chủ thể HS. Sơ đồ KWL có thể sử dụng trong tất cả các bài học với
các mức độ và nội dung khác nhau.
Sử dụng sơ đồ này sẽ phát huy được tác dụng là giúp cho HS xác định nhiệm
vụ, động cơ, ý thức học tập tự giác, biết đánh giá nhìn lại quá trình học tập của
mình và tự điều chỉnh cách học. Ví dụ sau bài học, HS thấy khó khăn khi điền kết
quả thu được vào cột L có nghĩa là HS chưa hiểu bài. Việc chưa hiểu bài có thể do
HS chưa tập trung chú ý hoặc chưa tham gia tích cực vào hoạt động học tập. Điều
đó sẽ giúp cho HS tự điều chỉnh hoặc cần nghiên cứu lại tài liệu, cần đề nghị giáo
viên hỗ trợ để bổ sung những kiến thức còn thiếu, chưa hiểu hoặc chưa rõ.
* Một số lưu ý khi tổ chức dạy học sử dụng kĩ thuật KWL: Giáo viên có
thể vận dụng sơ đồ với cá nhân HS hay với nhóm HS. Nếu sử dụng với nhóm HS
thì trước khi HS điền thông tin vào cột K, yêu cầu các em trao đổi thống nhất ý
kiến trong nhóm. Khi mới áp dụng kĩ thuật này, giáo viên có thể dùng những câu
hỏi gợi ý để HS có thể viết những điều đã biết, muốn biết và đã được học vào các
cột tương ứng. Để đảm bảo hiệu quả của hoạt động, sau khi HS điền những điều đã
được học, giáo viên nên tổ chức cho HS nhận xét chéo kết quả của nhau, cá nhân
hoặc nhóm. Sau đó giáo viên kết luận về kết quả học tập của HS. Đồng thời qua đó
giáo viên cũng đánh giá được kết quả giờ dạy của mình để điều chỉnh cách dạy.
Như vậy kiến thức được hình thành ở HS chắc chắn, bền vững.
Chương 4: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến
20


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

Kết quả thực nghiệm việc vận dụng một số phương pháp kĩ thuật dạy học tích
cực vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn

Kết quả thực nghệm

Bài thực nghiệm

Lớp đối chứng

Lớp thực nghiệm

(Lớp 8A: 31 học sinh)

(Lớp 8B: 31 học sinh)

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Giỏi

Khá

TB

Yếu

(%)


(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

(%)

Trường từ vựng

0.0

23.7

55.2

21.1

8.1

37,8

46.0


8.1

Nói quá

7.9

31.6

42.1

18.4

18.9

40.5

35.1

5.4

Câu ghép

2.6

34.2

50.0

13.2


21.6

27.0

46.0

5.4

III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến kinh nghiệm
- Những giải pháp mang tính khả thi của phương pháp dạy học tích cực vào giờ
dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn:
1. Phân tích ngữ liệu, hình thành khái niệm một cách tích cực, sáng tạo thông qua
phương pháp vấn đáp.
2. Phương pháp trò chơi
21


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

3. Phương pháp dạy học nhóm.
4. Kĩ thuật học theo góc
5. Kĩ thuật “khăn phủ bàn”.
6. Sơ đồ KWL
2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm nếu được triển khai, áp
dụng.
Quá trình thực hiện kinh nghiệm của tôi qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy
rằng với sáu phương pháp như vừa nêu trên đã mang lại hiểu quả đáng kể chí ít nó
giúp học sinh chủ động, tích cực trong các giờ học văn, không ngại học và làm văn.

Có một số em viết được những bài viết hay, được ghi nhận.
3. Khuyến nghị
3.1: Đối với sở giáo dục, phòng giáo dục
Mở nhiều lớp tập huấn, hội thảo chi tiết, cụ thể về việc vận dụng các phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giảng dạy. Có những bài giảng mẫu để giáo
viên học tập, rút kinh nghiệm.
3.2: Đối với nhà trường
- Cần tăng cường và hoàn thiện các phòng bộ môn, chức năng để vận dụng
các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực cho HS một cách dễ dàng.
- Động viên khuyến khích giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
* Kết luận chung
Tổ chức hoạt động học tập tích cực là một trong những nguyên tắc của dạy
học Ngữ văn theo tinh thần đổi mới. Phương pháp này thực sự cần thiết đối với bộ
môn Ngữ văn nói chung, dạy học tiếng Việt nói riêng. Đặc biệt trong thời đại
ngày nay đòi hỏi đào tạo lớp người năng động sáng tạo để đáp ứng nhu cầu của XH
22


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

thì việc đổi mới phương pháp dạy học càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, người giáo
viên cần phải tìm hiểu đối tượng HS mình dạy, biết sử dụng hệ thống câu hỏi đa
dạng phong phú, áp dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học,
sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý thì việc phát huy tính tích cực của HS mới có hiệu
quả cao. Đây cũng là một điều mà bản thân mỗi giáo viên đứng lớp còn trăn trở.
Như chúng ta đã biết, mỗi một phương pháp giảng dạy dù cổ điển hay hiện
đại đều nhấn mạnh lên một khía cạnh nào đó của cơ chế dạy-học hoặc nhấn mạnh
lên mặt nào đó thuộc về vai trò của người thầy. Tôi cho rằng, cho dù các phương
pháp thể hiện hiệu quả như thế nào thì nó vẫn tồn tại một vài khía cạnh mà người

học và người dạy chưa khai thác hết. Chính vì thế mà không có một phương pháp
giảng dạy nào được cho là lý tưởng. Mỗi một phương pháp đều có ưu điểm của nó
do vậy người thầy nên xây dựng cho mình một phương pháp riêng phù hợp với
mục tiêu, bản chất của vấn đề cần trao đổi, phù hợp với thành phần nhóm lớp học,
các nguồn lực, công cụ dạy-học sẵn có và cuối cùng là phù hợp với sở thích của
mình.
Vì điều kiện thời gian tôi mới dừng lại ở đề tài "Vận dụng một số phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào giờ dạy tiếng Việt môn Ngữ văn ". Trong
kinh nghiệm tôi cũng mạnh dạn vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học
góp phần phát huy tính tích cực của HS nhằm nâng cao chất lượng dạy học Ngữ
văn nói chung và dạy Tiếng việt nói riêng, giúp cho những giờ dạy tiếng Việt trở
thành sự quan tâm, hứng thú của mỗi HS. Tuy nhiên đây là năm đầu tiên thực hiện
dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng, vì vậy việc vận dụng một số phương pháp,
kĩ thuật mới là bước đầu nên không tránh khỏi những hạn chế, bất cập. Bởi vậy tôi
rất mong được sự đóng góp của các bạn đồng nghiệp để kinh nghiệm này thêm
hoàn chỉnh và góp phần nâng cao chất lượng Ngữ văn trong nhà trường.

23


Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
vào giờ dạy Tiếng Việt trong môn Ngữ văn.

IV. Phụ lục
- Tài liệu tham khảo:
Những vấn đề chung về đổi mới giáo dục Trung học cơ sở môn Ngữ Văn

24




×