Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn toán lớp 6 trường THCS nguyễn hồng lễ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.72 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Phần mở đầu

Trang
2

1.1. Lý do chọn đề tài.

2

1.2. Mục đích nghiên cứu.

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu.

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu.

3

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

4
4

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng
sáng kiến kinh nghiệm.



5

2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm, giải pháp đã
sử dụng để giải quyết vấn đề.

6

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với
hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. Kết luận, kiến nghị.

18
20

3.1. Kết luận.

20

3.2. Kiến nghị.

20

Tài liệu tham khảo

22

Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng sáng kiến kinh nghiệm
ngành giáo dục và đào tạo huyện, Tỉnh và các cấp cao hơn xếp loại từ C trở
lên


23

1


1. MỞ ĐẦU.

1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong chương trình THCS, toán học chiếm một vai trò rất quan trọng.
Với đặc thù là môn khoa học tự nhiên, toán học không chỉ giúp học sinh phát
triển tư duy, óc sáng tạo, khả năng tìm tòi và khám phá tri thức, vận dụng những
hiểu biết của mình vào trong thực tế cuộc sống mà toán học còn là công cụ giúp
các em học tốt các môn học khác và góp phần giúp các em phát triển một cách
toàn diện...
Việc tìm ra lời giải của một bài toán khó, phương pháp mới, độc đáo của
một bài toán gây nên sự hào hứng, phấn chấn... điều đó có ý nghĩa to lớn trong
việc vun đắp lòng say mê học toán và ước mơ vươn tới vinh quang trong lĩnh
vực nghiên cứu, khám phá, phát minh những vấn đề mới.Điều này rất cần thiết
trong BDHSG.
Ngôi trường tôi đang dạy Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ tập trung hầu
hết học sinh giỏi của Thành phố Sầm Sơn. Trách nhiệm bồi dưỡng học sinh giỏi
là trách nhiệm của tất cả các giáo viên trong nhà trường. Để đáp ứng được nhu
cầu học tập của học sinh đòi hỏi trong giảng dạy chúng ta phải biết chắt lọc kiến
thức, phải đi từ dễ đến khó, từ cụ thể đến trừu tượng và phát triển thành tổng
quát giúp học sinh có thể phát triển tốt tư duy toán học.
Đối với học sinh khá giỏi, việc rèn luyện cho các em tính linh hoạt, tính
độc lập, tính sáng tạo, tính phê phán của trí tuệ là những điều kiện cần thiết vô
cùng trong việc học toán. Chính vì vậy, bồi dưỡng học sinh khá, giỏi không đơn
thuần chỉ cung cấp cho các em một số vốn hiểu biết thông qua việc làm bài tập

càng nhiều, càng khó mà cần phải hướng dẫn các em tự học tự tìm tòi phải chủ
động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
Đối với các em học sinh khối 6 mới bắt đầu tiếp cận với chương trình
THCS các em còn quen với cách học ở Tiểu học. Dạy như thế nào để học sinh
không những nắm chắc kiến thức cơ bản một cách có hệ thống mà phải được
nâng cao để các em có hứng thú, say mê học tập là một câu hỏi mà mỗi thầy cô
chúng ta luôn đặt ra cho mình.
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự nghiệp giáo dục cũng không
ngừng đổi mới. Các nhà trường đã ngày càng chú trọng hơn đến chất lượng giáo
dục toàn diện bên cạnh sự đầu tư thích đáng cho giáo dục mũi nhọn. Với vai trò
là môn học công cụ, bộ môn toán đã góp phần tạo điều kiện cho các em học tốt
các bộ môn khoa học tự nhiên khác.
Bản thân tôi, trong 2 năm học vừa qua được nhà trường phân công dạy
toán lớp 6. Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu tôi rất chú trọng đến việc
nâng cao tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh trong việc học môn Toán
Giúp các em say mê yêu thích môn Toán ham tìm hiểu, tìm tòi ra nhiều cách giải
điều này rất cần thiết trong công tác BDHSG.
Vì lẽ đó, qua thời gian dài tìm tòi, nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm, tôi
mạnh dạn đưa ra đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng môn Toán lớp 6
2


ở Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ” nhằm góp một phần nhỏ trong việc nâng cao
chất lượng đại trà và bồi dưỡng học sinh khá, giỏi lớp 6.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong khuôn khổ đề tài này bản thân tôi sẽ trình bày “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng môn Toán lớp 6 ở Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ”Cụ thể
là :
Mục đích của phương pháp này giúp nâng cao chất lượng môn Toán cho
học sinh lớp 6, rèn luyện cho học sinh phải tích cực chủ động biết tự học tự tìm

hiểu thêm ngoài những kiến thức SGK, phải tham khảo thêm nhiều tài liệu.
Người giáo viên không phải chỉ đưa ra kiến thức mà phải hướng dẫn các em tự
học tự tìm tòi. Điều này đặc biệt quan trọng cần thiết trong công tác BDHSG,
muốn thành công được khả năng tự học của học sinh phải tốt, học sinh say mê
yêu thích môn Toán, mỗi bài toán tìm tòi nhiều cách giải khác nhau, tăng
cường khả năng tự học, tự sáng tạo của học sinh điều này rất có ích trong
BDHSG ở Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu qua các tiết dạy Toán trong SGK Toán 6, Trong các
buổi học thêm buổi chiều, trong các buổi ôn thi HSG.
Đối tượng khảo sát : Học sinh lớp 6A2, 6A3 Đội tuyển HSG lớp 6
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp thực hành
- Đúc rút 1 phần kinh nghiện qua các đồng nghiệp và bản thân khi dạy
môn Toán lớp 6
1.5. Những điểm mới của sáng kiến:
- Bồi dưỡng theo định hướng phát triển năng lực người học đối với từng
chủ đề, từng dạng Toán. Tạo hứng thú niềm say mê học Toán cho học sinh.
- Dạy cho học sinh phương pháp tư duy phát huy khả năng tự học tự
nghiên cứu.

3


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Môn Toán là môn học mà chúng ta cần phải học và vận dụng vào trong
cuộc sống sau này, cho dù làm bất cứ công việc gì cũng có sự tín toán mới đạt
được mục đích và yêu cầu mà mình mong muốn. Học toán giúp các em từng

bước phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp và kĩ năng suy luận,
khêu gợi khả năng quan sát, phỏng đoán, tìm tòi, rèn phong cách làm việc của
người lao động như cẩn thận, chu đáo, vượt khó, giúp các em luyện tập, củng cố
và vận dụng các kiến thức đã học vào trong thực tiễn.
Tất cả mọi dạng toán đều đòi hỏi HS nắm vững kiến thức cơ bản. Phân
tích quan hệ giữa các kiến thức đó và vận dụng phù hợp, linh hoạt vào các tình
huống giải toán cụ thể.
Căn cứ vào định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Toán trong giai đoạn
hiện nay, đã được xác định là “ Phương pháp dạy học Toán trong nhà trường các
cấp phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của người học; hình thành và
phát triển năng lực tự học, trau dồi các phẩm chất linh hoạt, độc lập, sáng tạo
của tư duy”- ( chương trình giáo dục phổ thông môn Toán của Bộ GD & ĐT ban
hành theo quyết định số 16/2006/QĐ-BGD&ĐT).
Theo phương hướng đổi mới phương pháp dạy học này, giáo viên phải là người
tổ chức, điều khiển; phát huy tính tích cực chủ động trong lĩnh hội tri thức Toán
học của học sinh; còn học sinh là chủ thể nhận thức, đòi hỏi phải có hứng thú
trong học tập, từ đó mới tích cực tự học, tự rèn luyện và có được các năng lực
cần thiết trong học tập cũng như trong lao động sản xuất.
Do đặc điểm tâm sinh lí ở lứa tuổi học sinh lớp 6 cũng có những khác
biệt: học sinh dễ bị phân tán, mất tập chung chú ý; những kiến thức thoáng qua,
không hấp dẫn lôi cuốn các em sẽ mau quên; vốn kiến thức và hiểu biết còn ít;
khả năng diễn đạt còn hạn chế; nhất là với những học sinh yếu, nhận thức chậm
các em dễ tự ti, không dám mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình do sợ sai.v.v…
Nếu giáo viên nói với các em là việc học đối với các em là một bổn phận: các
em phải học bài, phải làm bài tập về nhà, các em phải đi học phụ đạo.v.v…thì
hiệu quả mang lại cũng không nhiều vì ở lứa tuổi các em chưa thể nhận thức
được tầm quan trọng của việc học một cách đầy đủ.
Bám sát định hướng chung của ngành trong việc đổi mới phương pháp
dạy học Toán ở trường THCS là tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh,
khơi dậy và phát triển năng lực tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích

cực, độc lập sáng tạo, nâng cao năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, rèn
luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại
niềm say mê, hứng thú học tập cho các em. Đặc biệt những năm học gần đây
toàn ngành đang thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực” thì việc tạo hứng thú học tập cho học sinh cũng chính là tạo cho
các em có niềm tin trong học tập, khơi dậy trong các em ý thức “ mỗi ngày đến
4


trường là một ngày vui”. Đó chính là cơ sở để khẳng định tạo hứng thú cho học
sinh trở thành một đòi hỏi đối với người làm công tác giảng dạy.
Đối tượng HS lớp 6 thuộc lứa tuổi thích khám phá, thích thể hiện khả
năng sáng tạo tìm tòi của bản thân nên việc thực hiện đề tài cũng có nhiều thuận
lợi nhất định.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trên thực tế, khi dạy môn Toán lớp 6, đa phần GV đã có sự định hướng cho
HS về kiến thức cũng như phương pháp. Tuy nhiên, để đi sâu khai thác, phân
tích các dạng toán từ đó hình thành cho HS một “cái nhìn” tổng quan về kiến
thức và các dạng bài toán cũng như các hướng khai thác bài toán thì GV cần có
sự đầu tư thích đáng. Hơn nữa GV chưa thật chú trọng rèn luyện cho HS thói
quen xem xét kết quả của một bài toán hay rèn luyện các cách phát biểu khác
nhau cho cùng một vấn đề hoặc sử dụng các tính chất đã học để khai thác bài
toán.
Mặt khác, đối với HS Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ đa phần đối tượng
học sinh khá, giỏi tiếp thu tốt tuy nhiên vẫn còn có không ít học sinh có tâm lý
ngại học Toán đặc biệt là đối với những bài toán khó phải dành thời gian nhiều
để tìm ra lời giải, nhiều em chưa thật sự say mê với Toán học. HS thường bị bối
rối khi thay đổi các câu hỏi theo các cách khác nhau với cùng một yêu cầu của
bài toán. Khi ôn tập HS cũng chưa thật sự chú ý đến mối quan hệ giữa các kiến
thức liên quan do đó HS chưa tìm ra được “sợi chỉ” xuyên suốt, xâu chuỗi các

kiến thức đó với nhau.Hơn nữa đối với học sinh lớp 6 chưa quen với cách học ở
THCS các em học nhiều môn hơn, môn Toán nhiều dạng bài tập hơn. Do đó còn
nhiều học sinh hầu như chỉ giải được những dạng Bài tập mà thầy đã dạy
rồi.Điều này rất bất lợi cho học sinh đặc biệt là trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp
Thành phố đòi hỏi khả năng tự học tự sáng tạo của học sinh rất cao.
Kết quả kiểm tra đầu năm Môn Toán khi chưa áp dụng phương pháp này
như sau:
Năm học 2017-2018:
Lớp
6A3

Số
HS

Kiểm tra đầu năm học
Khá
TB

Giỏi

40

Yếu

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

10

55

19

42.5

11

2.5

0

0

Khảo sát đội tuyển học sinh giỏi lần 1 đầu năm học:

Lớp


6

Số
HS

35

Từ 18
đến 20

Khảo sát đội tuyển lần 1
Từ 16
Từ 14
Từ 12
Từ 10
đến dưới đến dưới dến dưới đến dưới
18
16
14
12

Dưới 10

SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

0

0

3

8.5

5

14,3

11


31,4

9

25,7

7

20,1

5


Năm học 2018-2019:
Lớp
6A2

Số
HS

Kiểm tra đầu năm học
Khá
TB

Giỏi

37

Yếu


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

8

21.6

16

43,2

13

35,2

0


0

Khảo sát đội tuyển học sinh giỏi lần 1 đầu năm học:

Lớp

6

Số
HS
35

Từ 18
đến 20

Khảo sát đội tuyển lần 1
Từ 16
Từ 14
Từ 12
Từ 10
đến dưới đến dưới dến dưới đến dưới
18
16
14
12

Dưới 10

SL


%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

0

0

1

2.9


5

14.3

12

34.3

9

25.7

7

22,8

Trên cơ sở nắm vững lý luận và nắm bắt rõ thực tế tôi đề xuất giải pháp
thực hiện như sau:
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn
đề.
2.3.1. Với hoạt động giảng dạy của giáo viên lớp chính khóa :
Qua các tiết học, Tôi đã thực hiện nhiều biện pháp kết hợp; dành sự quan
tâm đặc biệt đến đối tượng học sinh; tăng cường việc vận dụng đổi mới các
phương pháp dạy học nhằm phát huy được tính tích cực, chủ động và sáng tạo
của học sinh ; tạo cho mình có những phương pháp dạy học đặc trưng, qua đó
tạo sự hứng thú cho các em trong việc học tập bộ môn Toán 6 một cách có hiệu
quả .Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải thực hiện một số biện pháp sau:
+ Giáo viên giảng dạy môn Toán 6 phải biết tạo ra các tình huống có vấn đề một


cách dí dỏm, nhẹ nhàng; nêu câu hỏi đặt vấn đề; câu hỏi dẫn dắt gợi mở phù hợp
với đối tượng học sinh yếu; giảng kĩ; chỉ bảo một cách tỉ mỉ như: cách ghi chép
bài và nghe giảng; cách viết, cách đặt phép toán cho đúng và chính xác; cách
học bài và làm bài tập về nhà; việc chuẩn bị bài, đọc bài mới trước khi đến lớp;
qua đó giúp học sinh biết cách tự học hiệu quả; biết cách phân tích tìm ra lời giải
của bài toán; biết cách giải những bài toán có nội dung tương tự; rèn luyện được
cho học sinh có tính cẩn thận chính xác trong học tập và tạo được hứng thú cho
các em. Từ việc học sinh biết cách giải bài tập, tôi hướng dẫn và tập cho các em
6


biết cách trình bày lời giải của bài toán là: các kết luận; các khẳng định đều phải
có căn cứ; dùng từ ngữ phải rõ ràng; đầy đủ các bước.
+ Trong giờ học, tôi chủ động tạo không khí vui vẻ, gần gũi; chia sẻ; giúp đỡ
học sinh; khuyến khích học sinh bộc bạch những lo lắng; khó khăn; những kiến
thức chưa hiểu rõ; để phát hiện ra những kỹ năng học sinh còn yếu kém; những
“lỗ hổng” kiến thức của học sinh; từ đó có kế hoạch tổ chức phụ đạo thêm cho
học sinh vào buổi chiều: giúp đỡ các em ôn tập lại các kiến thức có liên quan; bù
đắp những lỗ hổng kiến thức ở các lớp dưới.
+ Tôi đã thường xuyên tổ chức những trò chơi nhỏ dưới hình thức vui học Toán
như: chia một bài tập nào đó ra thành nhiều phần; nhiều ý; nhiều bước nhỏ đơn
giản; sau đó hướng dẫn học sinh giải bằng cách chia nhóm; phổ biến luật chơi;
giáo viên sẽ làm trọng tài, sau đó cho các nhóm thi đua với nhau. Kết thúc trò
chơi, giáo viên dùng hình thức động viên khen ngợi, cho điểm. Khi chia nhóm,
tôi chia thành các nhóm hỗn hợp gồm cả học sinh khá giỏi; qua các hoạt động đó
giúp các em học sinh có sự tự tin hơn vào bản thân mình, mạnh dạn xung phong
lên bảng làm và chữa bài tập.v.v…
+ Cũng thông qua nội dung các bài học, có những bài toán có liên quan đến thực
tế cuộc sống của các em. Giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy được vai trò, tác
dụng của kiến thức này; áp dụng được gì từ kết quả bài toán đó vào thực tiễn đời

sống của các em.
+ Với mỗi tiết học, Tôi vẫn thường xuyên kiểm tra đánh giá học sinh về ý thức
và thái độ học tập bằng các phương pháp quen thuộc như: kiểm tra bài cũ; kiểm
tra sự chuẩn bị bài của học sinh; kiểm tra đồ dùng học tập của học sinh; kiểm tra
vở ghi chép bài của học sinh xem có đầy đủ hay không ?. Kết hợp với việc theo
dõi việc nghe giảng và học bài trên lớp của học sinh. Từ đó, điều chỉnh phương
pháp giảng dạy, điều chỉnh việc giao bài tập về nhà cho phù hợp với từng đối
tượng học sinh; khi hướng dẫn bài tập về nhà giáo viên nêu cụ thể những nội
dung cần học của học sinh ở nhà và sự chuẩn bị cần thiết cho tiết học sau.
7


Trong việc giảng dạy cần lưu ý đến định hướng phát triển năng lực của học sinh,
không chỉ chú trọng truyền tải hết nội dung SGK là đủ mà cần phải mở rộng
nâng cao cho phù hợp với đối tượng học sinh, khi khen chê học sinh cũng phải
phù hợp với đối tượng người học.
2.3.2. Hoạt động của giáo viên khi dạy bồi dưỡng học sinh giỏi
- Trước hết người giáo viên phải có lòng nhiệt tình say mê lăn lộn với
phong trào, biết trăn trở trước những bài toán khó để tìm ra đường lối giải, phải
luôn luôn có ý thức tự rèn luyện, tích luỹ tri thức và kinh nghiệm, trau dồi
chuyên môn, luôn xứng đáng là “người dẫn đường tin cậy” cho học sinh noi
theo. Phải thường xuyên tìm tòi các tư liệu, các kiến thức nâng cao trên các
phương tiện, đặc biệt là trên mạng internet. Lựa chọn trang Web nào hữu ích
nhất, tiện dụng nhất, tác giả nào hay có các chuyên đề hay, khả quan nhất để sưu
tầm tài liệu…
Do đó ta phải xác định vai trò của người thầy là hết sức quan trọng. Bởi
vì người thầy có vai trò chỉ đạo và hướng dẫn học sinh, gợi ý, dẫn dắt học sinh
để đi đến các phương pháp học nói chung và giải toán nói riêng. Nếu học sinh có
kiến thức cơ bản tốt, có tố chất thông minh mà không được bồi dưỡng, nâng cao
tốt thì sẽ ít có hiệu quả hoặc không có hiệu quả. Đồng thời giáo viên lại phải lựa

chọn đúng đối tượng học sinh vào bồi dưỡng và phải soạn thảo chương trình bồi
dưỡng một cách hợp lý, khoa học và sáng tạo.
Trong quá trình dạy BDHSG khối 6 tôi rút ra một số giải pháp sau nhằm
nâng cao chất lượng BDHSG:
a. Về xây dựng chương trình bồi dưỡng
Hiện nay, chương trình bồi dưỡng không có sách hướng dẫn chi tiết, cụ
thể từng tiết, từng buổi học như trong chương trình chính khoá. Hơn nữa, hầu
hết sách nâng cao, sách tham khảo hiện nay không soạn thảo theo đúng trình tự
như chương trình học chính khoá, mà thường đi theo các dạng. Trong khi đó, các
trường thường tổ chức học sinh vừa học chính khoá vừa phối hợp nâng cao. Vì
thế soạn thảo chương trình bồi dưỡng là một việc làm hết sức quan trọng và rất
khó khăn nếu như chúng ta không có sự tham khảo, tìm tòi và chọn lọc tốt.
Điều cần thiết là giáo viên cần phải nắm vững nội dung, chương trình học,
cần phải soạn thảo nội dung dẫn dắt học sinh từ cái cơ bản của nội dung chương
trình học chính khoá, tiến tới chương trình nâng cao (tức là, trước hết phải khắc
8


sâu kiến thức cơ bản của nội dung học chính khoá, từ đó vận dụng để nâng cao
dần).
Cần soạn thảo chương trình theo vòng xoáy: Từ cơ bản đến nâng cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Đồng thời cũng phải có ôn tập, củng cố.
- Cần phải soạn thảo nội dung chương trình cho việc bồi dưỡng đảm bảo
thời lượng: Tiết, tuần, tháng, học kì, cả năm.
Tuy nhiên, việc soạn thảo chương trình còn tuỳ thuộc vào mức độ tiếp thu
của từng học sinh (làm sao cho các em có thể “tiêu hoá” được).
Cần giúp các em tổng hợp các dạng bài, các phương pháp giải. Vì hầu hết
các em chưa tự mình tổng hợp được mà đòi hỏi phải có sự hướng dẫn, giúp đỡ
của giáo viên.
Để các em vững vàng kiến thức, mở rộng được nhiều dạng bài tập thì mỗi

dạng bài cần phải luyện tập nhiều lần, đưa ra nhiều cách giải. Đồng thời thỉnh
thoảng phải củng cố, tổng hợp lại để khắc sâu.
Giáo viên cần phải đầu tư nhiều thời gian, tham khảo nhiều tài liệu để đúc
rút và cô đọng nội dung chương trình bồi dưỡng, phù hợp với đối tượng học sinh
và thời gian ôn luyện.
Giáo viên còn phải biên soạn chương trình cho học sinh tự học tự nghiên
cứu ở nhà, việc hướng dẫn học sinh tự học ở nhà rất quan trọng, nhất là đối với
việc BDHSG mà không phải dạng bài tập nào thầy cũng dạy hết ở trên lớp
được.Giúp bồi dưỡng tư duy sáng tạo cho học sinh giúp cho học sinh linh hoạt
hơn trong giải toán để khi đi thi có những bài các em chưa gặp bao giờ các em
cũng có hướng tư duy để giải toán.
b .Tài liệu bồi dưỡng :
- Giáo viên sưu tầm các bộ đề thi các cấp trong tỉnh nhà và các tỉnh khác
thông qua công nghệ thông tin nhằm giúp các em tiếp xúc làm quen với các
dạng đề, luôn tìm đọc, tham khảo các tài liệu hay định hướng cho học sinh.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh các tài liệu, sách vở, phù hợp với trình độ
của các em để tự rèn luyện thêm ở nhà. Đồng thời cung cấp hoặc giới thiệu các
địa chỉ trên mạng để học sinh có thể tự học, tự nghiên cứu, bổ sung kiến thức.
c). Bồi dưỡng kĩ năng và năng lực giải toán.
* Bồi dưỡng năng lực định hướng đường lối giải bài toán
9


Công việc định hướng tìm đường lối giải bài toán là một vấn đề khó khăn
cho những học sinh . Để giải quyết tốt bài toán thì cần phải có định hướng giải
đúng. Do đó việc định hướng giải bài toán là một vấn đề rất cần thiết và rất quan
trọng.
Việc xác định đường lối giải chính xác sẽ giúp cho HS giải quyết các bài
toán một cách nhanh chóng, dễ hiểu, ngắn gọn và tránh mất được thời gian.
Chính vì vậy, đòi hỏi mỗi GV cần phải rèn luyện cho HS khả năng định hướng

đường lối giải bài toán là điều không thể thiếu trong quá trình dạy học toán.
Các ví dụ minh họa
Ví dụ 1 ( Ví dụ 62 ôn tập Toán 6 tr 94 )
Tính: S =

1
1
1
1
+
+
+ ... +
2.3 3.4 4.5
19.20

Định hướng giải bài toán
Đối với những bài toán như thế này thì chúng ta không thể tiến hành quy
đồng mẫu để tính tổng được vì làm như vậy chỉ làm mất thời gian của ta. Khi
chúng ta gặp những bài toán như thế này thì cần phải tìm ra quy luật của nó.
GV: Hãy phân tích số hạng thứ nhất thành hiệu ?
HS:

1
1 1
= −
2.3 2 3

GV: Tương tự hãy phân tích các số hạng tiếp theo.
1 1 1
1

1 1
= − ;
= − ; ... ;
3.4 3 4 4.5 4 5
HS:
1
1 1
= −
19.20 19 20

Giải
1
1 1 1 1 1
1
1 1
1
1 1
= − ;
= − ;
= − ; ... ;
= −
2.3 2 3 3.4 3 4 4.5 4 5
19.20 19 20
1
1
1
1
1 1 1 1
1 1
+

+
+ ... +
= − + − + ... + −
2.3 3.4 4.5
19.20 2 3 3 4
19 20
1 1 10 1
9
= −
=

=
2 20 20 20 20

S=

Bài toán này nhằm tăng khả năng tư duy và lập luận cho HS một cách
chặt chẽ. Tìm ra được qui luật chung để giải hợp lí và nhanh hơn.
10


Ví dụ 2 ( Bài 7 Em học giỏi Toán 6 tr 92 )
Một số có ba chữ số, chữ số tận cùng bên trái là 4. Nếu chuyển chữ số 4
này xuống cuối thì được một số mới bằng

3
số ban đầu. Tìm số đó.
4

Phân tích bài toán

GV: Bài toán yêu cầu làm gì ?
HS: Tìm số có ba chữ số thỏa mãn bài toán.
GV: Theo đề bài, ban đầu ta có số có ba chữ số nào ?
HS: 4ab
GV: Các em viết số có ba chữ số đó dưới dạng tổng của các số ?
HS: 4.100 + 10.a + b = 400 +10a + b.
GV: Nếu ta đổi chữ số 4 sang phải thì ta được số có ba chữ số nào ?
HS: ab4
GV: Các em viết số có ba chữ số đó dưới dạng tổng của các số ?
HS: a.100 + 10.b + 4 = 100a +10b + 4
GV: Giữa số ban đầu và số mới có quan hệ như thế nào ?
3
4

HS: ( 400 +10a + b ) . = ( 100a +10b + 4 )
Giải
Số ban đầu là 4ab = 4.100 + 10.a + b = 400 +10a + b
Số mới là ab4 = a.100 + 10.b + 4 = 100a +10b+ 4
3
4

Theo đề bài ( 400 +10a + b ) . = ( 100a +10b + 4 )
( 400 + 10a + b).3 = 4(100a + 10b + 4)
1200 + 30a + 3b = 400a + 40b + 16
1200 − 16 = 400a − 30a + 40b − 3b
370a + 37b = 1184
10a + b = 32 hay ab = 32

Vậy số cần tìm là 432.


11


Tóm lại: Công việc định hướng giải bài toán cho HS là một công việc
quan trọng đầu tiên của một bài giải, nó đòi hỏi phải định hướng đúng nên GV
cần rèn luyện thường xuyên cho HS nhằm làm tăng khả năng suy luận, lập luận
một cách logic, giải quyết bài toán một cách nhanh chóng và tránh được mất
thời gian khi giải bài toán.
* Phân loại bài toán để bồi dưỡng năng lực giải toán cho các đối tượng HS
Bồi dưỡng năng lực phân loại bài toán cũng được coi là một bước quan
trọng để bồi dưỡng cho từng đối tượng HS một cách hợp lí nhất. Khi chúng ta
làm tốt công việc này sẽ giúp nhiều cho việc học tập của HS, nó cũng giúp HS
nắm vững các kiến thức đồng thời tăng khả năng giải toán cho các em và gây
được hứng thú nhu cầu ham học toán ở tất cả các đối tượng HS.
Các ví dụ minh họa
Ví dụ Ví dụ 1 ( Ví dụ 62 ôn tập Toán 6 tr 94 )
Tính: S =

1
1
1
1
+
+
+ ... +
2.3 3.4 4.5
19.20

Đây là bài toán chúng ta giàng cho đối tượng học sinh Trung bình. Đối
với học sinh Khá ta có thể mở rộng thay đổi khoảng cách hai nhân tử, chiều dài

dãy tăng lên.
1
4

Ví dụ : Tính S = +

1
1
1
+ + ... +
27 70
3904

Đối với học sinh giỏi kết hợp 2 dãy, 3 đãy, các bất đẳng thức....Hoặc cần
tìm đưa về quy luật đã biết.
Ví dụ: Chứng minh rằng

1 1 1 1
1
1
< 2 + 2 + 2 + ... +
< .
2
6 5 6 7
100
4

Tóm lại: Trong quá trình dạy học GV cần thực hiện phân loại bài toán vì làm
như vậy sẽ giúp ít cho HS trong quá trình học tập và cũng gây được hứng thú
học tập cho HS.

* Bồi dưỡng năng lực phân tích, tổng hợp và so sánh
Nói đến năng lực phân tích, tổng hợp, so sánh thì chúng ta cũng đã biết
gần như mọi ngành nghề, mọi cấp học đều sử dụng đến nó. Đặt biệt với sự thay
đổi phương pháp dạy học hiện nay thì năng lực này càng được chú trọng. Năng
lực phân tích, tổng hợp, so sánh này không thể thiếu được trong toán học vì nó
giúp cho học sinh tăng khả năng suy luận, sáng tạo trong giải toán và tự chiếm
12


lĩnh tri thức. Qua đó cũng giúp cho HS hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu rộng về vấn đề
toán học.
Các ví dụ minh họa
Ví dụ 1 ( Ví dụ 71 Toán bồi dưỡng HS lớp 6 tr 65 )
Tìm số bị chia và số chia biết rằng thương bằng 5, dư bằng 12 và tổng của
số bị chia, số chia, số dư bằng 150.
Phân tích bài toán ( theo sơ đồ đoạn thẳng )

Đặt: a là số bị chia; b là số chia; r là số dư.
GV: Dựa vào sơ đồ hãy cho biết mối quan hệ giữa số bị chia và số chia ?
HS: a – r = 5b hay a = 5b + r.
GV: Tổng của số bị chia, số chia và số dư bằng bao nhiêu ?
HS: a + b + r = 150
GV: Ngoài cách biễu diễn đó, còn có cách nào thể hiện mối quan hệ của tổng đó
hay không ?
HS: 6b + r + r = 150 hay 6b = 150 – r - r = 150 -12 - 12 = 126
GV: Dựa vào đó ta có thể tìm được số chia b hay không ?
HS: b =

126
= 21 ( số chia )

6

GV: Khi tìm được số chia ta có thể tìm được số bị chia a hay không ?
HS: a = 5b + 12 = 5.21 + 12 = 117
Giải : Từ sơ đồ, ta thấy 6 lần số chia bằng 150 - 12 -12 = 126
Số chia bằng 126 : 6 = 21
Số bị chia bằng 21.5 + 12 = 117.
Vậy số chia cần tìm là 21 và số bị chia là 117.
Qua bài toán nhằm làm tăng khả năng phân tích bài toán cho HS, việc lựa
chọn phương pháp phân tích không phải vấn đề dễ do đó đòi hỏi GV và HS cần
13


phải rèn luyện thường xuyên. Vì vậy trong quá trình phân tích bài toán GV cần
lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp và làm cho HS dễ hiểu.
Việc giải bài toán có rất nhiều phương pháp đặt biệt là việc phân tích bài
toán. Do đó trong quá trình dạy học thì GV cần lựa chọn phương pháp phân tích
sau cho học sinh dễ hiểu. Đối với bài toán này thì lựa chọn phương pháp phân
tích bằng phương pháp trực quan sẽ mạng lại hiệu quả rất cao, thông thường các
dạng bài toán như thế này thì công việc phân tích bài toán được thể hiện ở
những hình ảnh trực quan và giúp cho HS dễ hiểu hơn vì các mối quan hệ giữa
các đại lượng được thể hiện một cách cụ thể.
* Bồi dưỡng năng lực giải toán bằng nhiều cách và biết lựa chọn phương
án tối ưu
Giải toán là một quá trình thúc đẩy tư duy phát triển. Việc đào sâu, tìm tòi
nhiều lời giải cho một bài toán chẳng những góp phần phát triển tư duy của HS
mà còn góp phần hình thành nhân cách cho HS. Giúp các em không dừng lại ở
một lời giải mà phải hướng tới nhiều lời giải và chọn ra một lời giải đẹp, hoàn
mĩ hơn trong lúc giải toán nói riêng cũng như trong việc rèn luyện nhân cách
sống của các em.

Trong quá trình giải toán cũng như bồi dưỡng HS giỏi, mỗi GV luôn
không ngừng tìm tòi nghiên cứu những những phương pháp dạy tối ưu nhất. Từ
đó giúp HS lĩnh hội các phương pháp giải toán hay, phát huy được tính sáng tạo
của mình. Tìm ra được nhiều cách giải hay và hợp lí.
Một số ví dụ minh họa
Ví dụ 1: Một người bán 1 giỏ cam trong 4 ngày. Ngày thứ nhất bán
thêm 1 quả. Ngày thứ hai bán

1
số cam và
2

1
số cam còn lại và thêm 1 quả. Ngày thứ ba bán
2

1
1
số cam còn lại và thêm 1 quả. Ngày thứ tư bán
số cam còn lại và thêm 1
2
2
quả thì vừa hết. Tính số cam người đó mang đi bán.
Cách 1.

Giải

1
số cam còn lại cộng thêm 1 quả thì vừa hết nên lần
2

thứ tư người đó đã bán 2 quả, số cam còn lại sau lần bán thứ ba là 2 quả.
Vì lần thứ tư bán

14


Suy ra

1
số cam ở lần bán thứ ba là: 2 + 1 = 3 quả
2

Số còn lại sau lần bán thứ hai là:

3 . 2 = 6 quả

1
số cam ở lần bán thứ hai là:
2

6 + 1 = 7 quả

Số cam còn lại sau lần bán thứ nhất là: 7 . 2 = 14 quả
1
số cam ở lần bán thứ nhất là:
2

14 + 1 = 15 quả

Số cam đã mang ra chợ bán là:


15 . 2 = 30 quả.

Cách 2. Giải theo sơ đồ ngắn gọn và rễ hiểu
Số cam
người đó
mang đi
bán

 1
.  1- ÷−1
 2

Số cam còn
lại sau
 1
.  1- ÷−1
ngày bán
 2
thứ nhất

(X)

(A)

Số cam còn
lại sau
 1
.  1- ÷−1
ngày bán

 2
thứ ba

Số cam còn
lại sau
ngày bán
thứ tư

(C)

Số cam còn
lại sau
 1
.  1- ÷−1
ngày bán
 2
thứ hai
(B)

=0

(D)

Tính ngược từ dưới lên, ta có:
 1
C = (0 + 1) :  1- ÷ = 2 quả
 2

D=0
 1

D = (2 + 1) :  1- ÷ = 6 quả
 2

 1
A = (6 + 1) :  1- ÷ = 14 quả
 2

 1
X = (14 + 1) :  1- ÷ = 30 quả
 2

15


Khi giúp HS nắm được đặc điểm của mỗi dạng toán và biết lựa chọn cách
giải nào cho phù hợp sẽ giúp các em ham thích học toán và tư duy ngày một
càng phát triển. Đây là một nhiệm vụ không thể thiếu trong quá trình giảng dạy
của mỗi GV.
* Bồi dưỡng năng lực sáng tạo ra bài toán mới
Trong quá trình giải toán HS thường lúng túng và thường không giải được
đối với những dạng toán mà HS cho là lạ. Chính vì vậy, khi kiểm tra hoặc các
em dự thi HS giỏi thường bị mất điểm đối với các dạng toán này. Vì thế trong
quá trình hướng dẫn giải bài tập GV cần giúp HS quy các dạng toán mà các em
cho là lạ về các dạng toán mà các em đã biết cách giải.
Trong quá trình dạy toán nói chung và bồi dưỡng HS giỏi nói riêng, mỗi
GV phải cố gắng không ngừng tìm tòi, nghiên cứu tìm ra phương pháp giảng
dạy mới nhất, hiệu quả nhất. Hướng dẫn HS pháp huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo, linh hoạt, huy động thích hợp các kiến thức và khả năng vào các tình
huống khác nhau, không dừng lại ở cái đã biết mà phải quy những cái chưa biết
về cái đã biết. Giúp các em hiểu được mình, tự làm chủ kiến thức toán học.

* Các ví dụ minh họa
Ví dụ 1 ( Bài 9.3 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 )
1

1

1

a) Chứng tỏ rằng với n ∈ Ν, n ≠ 0 thì n(n + 1) = n − n + 1
b) Áp dụng kết quả câu a để tính nhanh A =

1
1
1
1
+
+
+ ... +
1.2 2.3 3.4
9.10

Tìm hiểu nội dung bài toán
GV gợi ý cho HS bằng hệ thống câu hỏi sau:
Đối với câu a
GV: Để chứng minh một đẳng thức ta có những phương pháp nào ?
HS: Chứng minh vế trái bằng vế phải, vế phải bằng vế trái, hai vế của đẳng thức
bằng biểu thức thứ ba.
GV: Trong trường hợp này ta làm thế nào ? Vì sao ?
HS: Ta chứng minh vế phải bằng vế trái. Vì vế phải phức tạp hơn.
GV: Ta biến đổi vế phải bằng kiến thức nào ?

16


HS: Vế phải ta có thể coi là phép trừ hai phân số không cùng mẫu. Do đó ta quy
đồng mẫu và thực hiện phép trừ hai phân số không cùng mẫu ta sẽ có kết quả.
Đối với câu b
GV: Để tính giá trị của biểu thức A ta phải làm gì ?
HS: Áp dụng kết quả của câu a ta phân tích.
1 1 1 1
1 1 1 1 1
1
1 1
= − ;
= − ;
= − ; ...;
= −
và sau đó thực hiện phép toán
1.2 1 2 2.3 2 3 3.4 3 4
9.10 9 10

cộng các phân số sẽ có kết quả.
Trình bài lời giải
1

1

n +1− n

1


a) VP = n − n + 1 = n(n + 1) = n(n + 1) = VT
b) A =

1
1
1
1
1 1 1 1 1 1
1 1 1 1
9
+
+
+ ... +
= − + − + − + ... + − = − =
1.2 2.3 3.4
9.10 1 2 2 3 3 4
9 10 1 10 10

Sáng tạo bài toán mới
Cùng với nội dung tính tổng ta có các bài toán sau:
Bài toán 1 ( Bài 9.4 SBT Toán 6 tập 2 tr 24)
1 1 1
1
1
1
+ + +
+
6 12 20 30 42 56

Tính nhanh A = +


HS quy lạ về quen như sau:

1
1
1
1
1
1
=
;
=
;...;
=
6 2.3 12 3.4
56 7.8

Chính vì vậy bài toán 1 đã biết cách giải: A =
A=

1
1
1
+
+ ... +
2.3 3.4
7.8

1 1 1 1
1 1 1 1 3

− + − + ... + − = − =
2 3 3 4
7 8 2 8 8

Bài toán 2 ( Bài 9.7 SBT Toán 6 tập 2 tr 24 )
Chứng tỏ rằng: D =

1 1 1
1
+ 2 + 2 + ... + 2 < 1
2
2 3 4
10

HS quy lạ về quen như sau:
HS dựa vào biểu thức trung gian để so sánh.
Biểu thức trung gian của D với 1 là: A =

1
1
1
1
+
+
+ ... +
. Chính vì
1.2 2.3 3.4
9.10

vậy bài toán 3 đã biết cách giải.

17


D=

1 1 1
1
1
1
1
1
1
9
+ 2 + 2 + ... + 2 <
+
+
+ ... +
= 1− = < 1
2
2 3 4
10
1.2 2.3 3.4
9.10
10 10

Việc giúp HS biết quy những bài toán lạ về các bài toán quen thuộc về các
bài toán đã biết cách giải. Người GV làm được điều này thì sẽ nâng cao được
năng lực giải toán của HS và giúp các em giành các thứ hạng cao trong các cuộc
thi toán học.
c) Hướng dẫn cách làm bài

Đây là việc làm cũng rất quan trọng mà giáo viên- những người trực tiếp
dạy bồi dưỡng không thể bỏ qua nó, bởi lẽ nếu giáo viên dạy nhiệt tình , nội
dung bài giảng phong phú, học sinh học tập tốt, thế nhưng khi đi thi thì các em
không biết cách làm bài, thì kết quả không thể theo mong muốn.
Theo tôi giáo viên lên hướng dẫn học sinh khi nhận đề thi nên dành từ một đến
hai phút để đoc đề, xác định yêu cầu bài, dạng bài, cố gắng hiểu đúng những yêu
cầu đề bài, câu nào dễ làm trước, câu nào khó làm sau.
d) Kiểm tra kiến thức và rút ra kinh nghiệm
Đây là giai đoạn cũng rất quan trọng trong quá trình bồi dưỡng học sinh
giỏi, bởi lẽ chúng ta chỉ dạy mà không kiểm tra thì ta sẽ không thể biết được sự
tiếp thu kiến thức của học sinh đạt đến mức độ nào.
Việc rút kinh nghiệm sau mỗi bài kiểm tra thật sự là cần thiết, từ những
lần rút kinh nghiệm học sinh nhận ra mình còn yếu ở phần nào để có thể khắc
phục, luyện thêm.
Để thực hiện khâu này chúng ta chuẩn bị các bài tập theo dạng đề thi
những năm trước cho học sinh làm, có quy định thời gian làm bài, có chấm
điểm, có khen thưởng nếu các em làm bài tốt, nhưng nếu các em làm bài chưa
tốt thì ta không nên quở trách mà chỉ nên động viên để các em cố gắng hơn lần
sau. Chúng ta nên đem đến cho học sinh sự hứng thú đối với môn học lẫn người
dạy, như vậy việc dạy của chúng ta mới thuận lợi hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Năm học qua, tôi đã cho áp dụng sáng kiến trên trong giảng dạy môn
Toán,cụ thể là áp dụng trong các tiết Luyện tập trên lớp, trong các buổi dạy thêm
, trong các buổi BDHSG, và hướng dẫn học sinh tự học ở nhà pháp nâng cao
tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh trong việc học môn Toán. Phần lớn
các em học sinh đã thực sự có hứng thú học Toán, đã tự độc lập tìm tòi ra nhiều
18



cách giải khác nhau mà không cần sự gợi ý của giáo viên. Kết quả thu được rất
khả quan, cụ thể năm học 2017-2018:
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm học 2017-2018 môn toán:

Lớp Số HS
6A3

40

Kiểm tra cuối năm học
Khá
TB

Giỏi

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

22

55

18

45

0

0

0

0

Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi khối 6 môn toán năm học 2017-2018:

Lớp

6

Số
Giải
34/34

Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi khối 6 năm học 2017-2018 cấp

TP
Nhất

Nhì

Ba

Không có
giải

KK

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL


%

4

11,76

10

29.41

12

35,29

8

23,54

0

0

Năm học 2018-2019
Kết quả kiểm tra cuối học kỳ I môn Toán

Lớp
6A2

Số
HS

37

Kiểm tra cuối học kỳ I
Khá
TB

Giỏi

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

21

56.76


16

43,24

0

0

0

0

Kết quả thi HSG cấp TP năm học 2018-2019 :

Lớp

6

Số
Giải
32/32

Kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi khối 6 năm học 2018-2019 cấp
TP
Nhất

Nhì

Ba


Không có
giải

KK

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

3

9.4

16


50

12

37,5

1

3.1

0

0

19


3. Kết luận, kiến nghị:
3.1. Kết luận:
Một số giải pháp trên áp dụng vào giảng dạy đã mang lại hiệu quả cao
trong việc nâng cao chất lượng đại trà và bồi dưỡng học sinh giỏi môn toán lớp
6. Nhiều học sinh đã chủ động tìm tòi, định hướng và sáng tạo ra nhiều cách giải
toán không cần sự hướng dẫn của giáo viên. Từ đó, các em phát triển năng lực
tư duy độc lập, khả năng sáng tạo, tính tự giác học tập, phương pháp giải toán
nhanh, kỹ năng phát hiện tốt. Các em học sinh lớp 6 vượt qua bỡ ngỡ ban đầu
tiếp cận tốt với chương trình THCS tạo tiền đề tốt cho những năm học sau.
Để làm được như vậy, mỗi giáo viên cần nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo
nhiều tài liệu để tìm ra các bài toán hay, với nhiều cách giải khác nhau.
Đối với học sinh của trường THCS Nguyễn Hồng Lễ, việc áp dụng

phương pháp trên đã làm thay đổi nhận thức học Toán của học sinh. Phần lớn
các em thích và say mê với Toán học hơn, đã có nhiều học sinh đạt giải Toán
trong kỳ thi học sinh giỏi cấp Tỉnh, cấp thành phố và hầu hết các em thi vào cấp
3 đạt điểm cao môn Toán.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với nhà trường:
Cần tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học,
tài liệu tham khảo phục vụ cho việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ
động sáng tạo cho học sinh.
Tổ chức các câu lạc bộ em yêu Toán nhằm bồi dưỡng niềm say mê học
toán, nâng cao tính tích cực chủ động sáng tạo cho học sinh trong việc học môn
Toán.
3.2.2. Đối với giáo viên:
Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy chú trọng phát huy tính tích cực
chủ động sáng tạo cho học sinh
Trong soạn giáo án và trong công tác giảng dạy giáo viên đưa ra hệ thống
câu hỏi và bài tập làm cho học sinh hứng thú say mê học tập.Người giáo viên
không phải chỉ đưa ra kiến thức mà phải hướng dẫn các em tự học tự tìm tòi.
Đối với học sinh khá giỏi ở Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ giáo viên
phải hướng dẫn cho các em trong các buổi học thêm hoặc BDHSG các tài liệu
như: Nâng cao và phát triển Toán 6, Toán nâng cao &các chuyên đề Đại số 6,
Toán nâng cao &các chuyên đề Hình học 6, Tài liệu chuyên Toán THCS Toán
6... Có thể ra bài tập về nhà trong các sách ấy.
20


Trong sinh hoạt tổ chuyên môn cần chú trọng sinh hoạt theo chủ đề giúp
giáo viên đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường tính tích cực chủ động sáng tạo
cho học sinh làm cho học sinh say mê yêu thích môn toán điều này rất có ích
trong công tác BDHSG.

Trong quá trình giảng dạy tôi đã nghiên cứu, đề xuất, và thực hiện “Một
số giải pháp nâng cao chất lượng môn Toán lớp 6 ở Trường THCS Nguyễn Hồng
Lễ” đã thu được kết quả nhất định. Bởi vậy tôi mạnh dạn trình bày kinh nghiệm
của mình đồng thời kính mong các đồng chí trong Hội đồng xét duyệt SKKN
các cấp, các bạn đồng nghiệp tham gia góp ý, bổ sung xây dựng để SSKN của
tôi hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sầm Sơn, ngày 08 tháng 04 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Hường

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS (Bộ
Giáo Dục và Đào Tạo)
2. SGK Toán 6 (nhà xuất bản giáo dục)
3. SGV Toán 6 (nhà xuất bản giáo dục)
4. Nâng cao và phát triển Toán 6
5. Toán nâng cao &các chuyên đề Đại số 6
6. Toán nâng cao &các chuyên đề Hình học 6

22



DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hường
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THCS Nguyễn Hồng Lễ

TT
1.

Tên đề tài SKKN
Một số giải pháp nâng cao

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Cấp Tỉnh

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

C

Năm học
đánh giá

xếp loại
2017-2018

tính tích cực chủ động sáng
tạo cho học sinh trong việc
học môn Toán Lớp 8 trường
THCS Nguyễn Hồng Lễ

23



×