Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP dạy học TÍCH cực vào GIẢNG dạy một số nội DUNG cụ THỂ của môn GDCD lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.22 KB, 16 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGUYỄN HOÀNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

TÊN ĐỀ TÀI

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC
VÀO GIẢNG DẠY MỘT SỐ NỘI DUNG CỤ THỂ
CỦA MÔN GDCD LỚP 10

Người thực hiện: Phạm Ngọc Sơn
Chức vụ:
Giáo viên
SKKN môn:
GDCD

THANH HÓA NĂM 2018

1


NỘI DUNG

TRANG

I. Phần mở đầu

1


1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN

4

2.3. Các giải pháp vận dụng để giải quyết vấn đề


5

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

9

III. Kết luận, kiến nghị

11

3.1. Kết luận

11

3.2. Kiến nghị

11

Tài liệu tham khảo

13

Danh mục các đề tài SKKN đã được xếp loại

14

2


I. MỞ ĐẦU

1.1 Lý do chọn đề tài.
Từ xưa đến nay, giáo dục bao giờ cũng được coi trọng trong tất cả mọi thể chế
xã hội và là điều kiện tiên quyết nếu xã hội ấy muốn thịnh vượng và phát triển.
Sách Lễ ký viết: “ Ngọc không giũa không thành đồ, người không học không thành
đạo ”. Kinh Lễ viết : “ dựng nước, giữ dân lấy học làm đầu ” ; Quản tử nói : “ Kế
hoạch 1 năm không gì bằng trồng lúa, kế hoạch 10 năm không gì bằng trồng cây,
kế hoạch trọn đời không gì bằng trồng người”. Tùy theo điều kiện hoàn cảnh lịch
sử, điều kiện phát triển thực lực của mình mà quốc gia nào cũng xây dựng cho
mình một chiến lược giáo dục gốc rễ và lâu dài.
Nước ta chỉ một tháng sau ngày độc lập, tháng 10/1945 theo chỉ đạo của chủ
tịch Hồ Chí Minh, bộ giáo dục đã tuyên bố nêu rõ mục đích cao cả, phương pháp
của nền giáo dục mới là: “ Tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện ý chí, phát triển tài
năng của mọi người để phụng sự đoàn thể và góp phần vào cuộc tiến hóa chung
của nhân loại. Phương pháp của nền giáo dục mới là xóa bỏ lối học nhồi sọ, hình
thức, chú trọng phần thực học, phần học về chuyên môn nghề nghiệp chiếm một vị
trí quan trọng, hết sức đề cao tinh thần khoa học nhằm giúp cho học sinh (HS) có
lối nhận thức khoa học, phát triển óc phê bình, óc phân tích và “ tổng hợp”, tinh
thần sáng tạo và óc thực tế ”. Từ đó, trải qua rất nhiều những biến động của lịch sử,
thăng trầm của đất nước, nền giáo dục của nước ta đã thực hiện nhiều chương trình
cải cách lớn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Trong đó ngành giáo dục và
đào tạo đã chú trọng nhiều hơn đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ giáo
viên (GV), thực hiện đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy các môn ở
trường phổ thông, trong đó môn giáo dục công dân (GDCD) đang từng bước được
coi trọng.
Vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm mọi phương pháp tối ưu nhất, để thông qua
môn GDCD sẽ góp phần bồi dưỡng nguồn lực con người phát triển cao về mặt trí
tuệ, cường tráng về thể chất, hướng các em thấy được cơ sở, cách thức hình thành
con người mới xã hội chủ nghĩa (XHCN) “ vừa hồng vừa chuyên”.
Việc phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm cho HS là một quá trình được
tiến hành một cách lâu dài và thường xuyên. Vì vậy, phẩm chất và năng lực người

thầy cùng với phương pháp giáo dục phù hợp đóng vai trò quan trọng có tác dụng
tích cực đối với quá trình giáo dục HS.
Nhưng hiện nay, chất lượng dạy và học môn GDCD ở trường phổ thông còn
chưa cao. Có nhiều nguyên nhân trong đó nguyên nhân cơ bản là do đội ngũ giáo
viên còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm còn yếu.
Phương pháp giảng dạy môn GDCD lại chủ yếu là phương pháp truyền thống,
truyền đạt một chiều, thầy đọc trò chép, HS tiếp thu kiến thức một cách thụ động,
chưa phát huy được tính tích cực chủ động của HS.
Ngày nay, đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ từng ngày,
3


từng giờ, đòi hỏi giáo dục và đào tạo phải đào tạo lớp người trẻ năng động, sáng
tạo, nhạy bén, thích ứng nhanh. Điều đó phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp dạy
học, giáo dục của người thầy.
Thực hiện những chủ trương của Đảng và nhà nước, phương pháp dạy học
tích cực được đưa vào giảng dạy trong các môn học ở trường phổ thông nói chung
và môn GDCD nói riêng như là một yếu tố quan trọng trong cải cách giáo dục ở
nước ta. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD dưới
sự hướng dẫn, gợi ý, tổ chức của người thầy sẽ giúp cho HS tự tìm kiếm, khám phá
những tri thức mới, hình thành phát triển nhân cách, phẩm chất tốt đẹp. Đó sẽ là
những công dân tương lai, những người lao động mới phát triển hài hoà trên tất cả
các mặt Đức dục, Trí dục, Mỹ dục, Thể dục, lao động; những người sẽ xây dựng
đất nước ngày càng phồn vinh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn GDCD ở trường phổ
thông.
Quá trình vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn
GDCD lớp 10 nói riêng và môn GDCD nói chung ở trường phổ thông cần được
tìm hiểu, nghiên cứu, từ đó có những nhận xét, đánh giá, tổng kết rút ra kinh

nghiệm và được sử dụng rộng rãi.
Vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài “ Vận dụng phương pháp dạy học tích
cực vào giảng dạy một số nội dung cụ thể của môn GDCD lớp 10”.
Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần làm rõ hơn lý luận
về một số phương pháp dạy học tích cực và vận dụng nó trong dạy học môn
GDCD lớp 10. Mong muốn tìm ra giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học
môn GDCD lớp 10 nói riêng và môn GDCD nói chung ở trường trung học phổ
thông .
1.2 Mục đích nghiên cứu.
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu các phương pháp dạy học thảo luận nhóm, đóng
vai, giải quyết vấn đề vào tổ chức dạy học một số nội dung cụ thể của môn
GDCD lớp 10, góp phần nâng cao việc vận dụng các phương pháp dạy học vào tổ
chức dạy và học môn GDCD; đồng thời làm tư liệu tham khảo cho cho quá trình
dạy học môn GDCD lớp 10.
1.3 Đối tượng nghiên cứu.
- Nghiên cứu lý luận chung về một số phương pháp dạy học tích cực. Từ đó
rút ra nhận xét, đánh giá góp phần nâng cao công tác giảng dạy môn GDCD lớp 10
ở trường THPT.
- Vận dụng các phương pháp : thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề
vào giảng dạy một số nội dung cụ thể của chương trình môn GDCD lớp 10 gồm:
Phần kiến thức “Nhân phẩm” trong “bài 11. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức
học”; đơn vị kiến thức “Hôn nhân” và “ Mối quan hệ gia đình và trách nhiệm các
thành viên” trong “bài 12. Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình”; đơn vị
4


kiến thức “ cộng đồng và vai trò của cộng đồng đối với dời sống con người” và
phần kiến thức “ Hòa nhập” trong “ bài 13. Công dân với cộng đồng”.
1.4 Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp: được thể hiện qua việc tổng hợp các tài liệu, sách báo

có liên quan đến nội dung đề tài.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục : thế hiện ở việc tìm hiểu, nghiên
cứu rút ra những nhận xét, đánh giá, kinh nghiệm.
- phương pháp logic…
II- NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Là một môn khoa học xã hội, môn GDCD cùng với tất cả các môn học khác,
nó góp phần hình thành và phát triển dần dần nhân cách, năng lực, phẩm chất.
Khác với môn khoa học khác môn GDCD góp phần đào tạo những người lao động
mới, vừa có tri thức khoa học, vừa có đạo đức, vừa có năng lực hoạt động thực
tiễn, có phẩm chất chính trị, tư tưởng, vừa có ý thức trách nhiệm đối với cộng
đồng, với gia đình và đối với bản thân mình, nó gắn liền với đường lối xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
Môn GDCD có nhiệm vụ góp phần đào tạo học sinh thành những người lao
động mới, hình thành những phẩm chất tốt đẹp, tích cực của người công dân tương
lai có thế giới quan khoa học, nhân sinh quan tiên tiến, có đạo đức trong sáng, ra
sức thực hiện đường lối, nhiệm vụ cách mạng đúng đắn của Đảng và nhà nước,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Việc giáo dục phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức cho học sinh do tất cả
các môn học, các hình thức giáo dục của nhà trường thực hiện. Song môn GDCD
có nhiệm vụ hết sức quan trọng trong việc giáo dục đó, nó có thể trực tiếp giáo dục
cho học sinh những tri thức về thế giới quan một cách tương đối có hệ thống, toàn
diện. Giúp cho học sinh hiểu đúng quy luật phát triển tất yếu của tự nhiên, của xã
hội và của tư duy; giúp cho học sinh nhận thức đúng đắn cuộc sống của cá nhân và
cộng đồng phải phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển của lịch sử xã
hội, biết sống trong điều kiện cụ thể của bản thân, gia đình và xã hội, luôn có ý
thức vươn tới những cái đẹp. Trên cơ sở những tri thức đó, học sinh sẽ dần hình
thành những quan điểm mới, những khuynh hướng tư tưởng mới, động cơ, hoài
bão, lòng tin và hành vi tốt đẹp của con người. Đồng thời, thông qua tri thức của
môn GDCD sẽ hình thành từng bước phương pháp nhận thức, tư duy khoa học và

phương pháp hành động đúng quy luật khách quan. Đặc biệt trong thời đại ngày
nay việc định hướng đúng đắn suy nghĩ và do đó, việc định hướng đúng trong hành
động có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi cá nhân.

5


-Với phương pháp dạy học truyền thống là những cách dạy học quen thuộc
được truyền từ lâu đời và được bảo tồn, duy trì qua nhiều thế hệ. Về cơ bản,
phương pháp dạy học này lấy hoạt động của người thầy là trung tâm. Thực hiện lối
dạy này, giáo viên là người thuyết trình, diễn giảng, là “kho tri thức “ sống, học
sinh là người lắng nghe, nhớ, ghi chép và suy nghĩ theo. Với phương dạy học
truyền thống, giáo viên là chủ thể, là tâm điểm, học sinh là khách thể, là quỹ đạo.
Như vậy, phương pháp dạy học truyền thống chủ yếu là học sinh thụ động tiếp thu
kiến thức, giờ dạy dễ đơn điệu, buồn tẻ, kiến thức thiên về lý luận, ít chú ý đến kỹ
năng thực hành của người học, do đó kỹ năng hành dụng vào đời sống thực tế bị
hạn chế.
- Ngược lại, phương pháp dạy học tích cực xuất hiện ở các nước phương tây
từ đầu thế kỷ XX và được phát triển mạnh từ sau nửa thế kỷ, ảnh hưởng sâu rộng
tới các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Đó là cách thức dạy học theo lối
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Ở đó giáo viên là người giữ vai trò
hướng dẫn, gợi ý, tổ chức, giúp cho người học tự tìm kiếm, khám phá những tri
thức mới theo kiểu tranh luận, hội thảo theo nhóm, giải quyết các vấn đề, các bài
toán, những thực tế thường gặp trong cuộc sống.
- Dạy học theo phương pháp dạy học tích cực , giáo viên là người nêu tình
huống, kích thích hứng thú, suy nghĩ và phân xử các ý kiến đối lập của học sinh; từ
đó hệ thống hóa các vấn đề, tổng kết bài học, khắc sâu những tri thức cần nắm
vững. Ưu điểm của phương pháp dạy học này là rất chú trọng kỹ năng thực hành,
vận dụng giải quyết các vấn đề thực tiễn, coi trọng rèn luyện và tự học.
- Phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy giáo viên không chỉ nhằm

mục đích truyền thụ tri thức mới cho người học mà thông qua đó xây dựng phương
pháp tư duy khoa học, hình thành và phát triển năng lực nắm bắt những thành tựu
mới của khoa học và vận dụng chúng vào thực tiễn. Đó chính là việc tổ chức hoạt
động nhận thức cho học sinh, dạy cho học sinh tìm ra chân lý. Cốt lõi của phương
pháp dạy học tích cực là hướng đến hoạt động học tập một cách chủ động chống lại
thói quen học tập theo lối thụ động.
Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang có những biến đổi mạnh mẽ và
sâu sắc; khi mọi mặt của đời sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc
thì tri thức khoa học của loài người nhờ đó cũng được bổ sung, nhận thức của con
người cũng ngày càng phát triển. Đất nước ta hiện nay đang có những biến đổi toàn
diện thì vị trí của môn GDCD ngày càng trở nên quan trọng, chính vì thế nội dung
giảng dạy, phương pháp giảng dạy trong nhà trường phải ngày càng đổi mới. Vì
vậy, nếu nhà giáo dục chỉ sử dụng phương pháp dạy học truyền thống trong giảng
dạy các môn học nói chung và môn GDCD nói riêng, sẽ không thể giúp người học
có đầy đủ năng lực tiếp thu những tri thức khoa học mới và ngày càng nhiều; học
sinh rất khó có thể áp dụng những tri thức khoa học được học vào thực tiễn đời
sống xã hội.
Do đó, việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực vào môn GDCD là một
yêu cầu cấp thiết trong quá trình nâng cao chất lượng dạy và học.
6


2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Qua nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi luôn tìm tòi, suy nghĩ vận dụng
những kinh nghiệm từ thực tiễn , những phương pháp những cách thức…làm thế
nào để dạy học đạt kết quả cao nhất, gây hứng thú cho HS nhằm giúp các em khắc
sâu kiến thức đã học đồng thời biết vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn
cuộc sống.
Tôi nhận thấy rằng, trong những năm học trước đây,người giáo viên dạy theo
phương pháp truyền thống “ Thầy đọc trò chép” .Với cách học như vậy sẽ không

đem lại kết quả như mong muốn, không khắc sâu được kiến thức cơ bản nên khi áp
dụng vào kiểm tra các em sẽ mau quên, kết quả làm bài thấp.
Xuất phát từ thực tiễn dạy học như vậy và từ chính kinh nghiệm giảng dạy
của bản thân, tôi nhận thấy rằng với sự phát triển như vũ bão của KHCN hiện nay
cần đào tạo con người một cách toàn diện. Muốn vậy,các em phải hứng thú say mê
trong học tập. Để làm được điều đó, bản thân giáo viên phải kích thích năng lực tư
duy sáng tạo của HS qua các bài học bằng các phương pháp mới. Chính vì vậy, tôi
đã chọn phương pháp giảng dạy này làm đề tài nghiên cứu của mình.

2.3 Các giải pháp đã vận dụng để giải quyết vấn đề.
Bài 11. Một số phạm trù đạo đức cơ bản của đạo đức học (2 tiết)
Vận dụng phương pháp giải quyết vấn đề vào giảng dạy phần kiến thức “
Nhân phẩm”.
+ Đặc trưng kiến thức.
Đây là một trong những khái niệm đạo đức căn bản của đạo đức học, gần gũi
với học sinh. Tuy nhiên để phát huy tính tích cực của học sinh giáo viên nên dẫn
dắt học sinh tiếp cận kiến thức cụ thể bằng phương pháp giải quyết vấn đề, từ đó
giúp học sinh giải quyết vấn đề cụ thể gặp phải trong cuộc sống hàng ngày.
+ Vận dụng như sau:
- Giáo viên chuyển ý từ phần kiến thức trước sang phần kiến thức “ nhân
phẩm”. Giáo viên nêu tình huống có vấn đề:
“ Tan học ra cổng trường A và B nhặt được một chiếc cặp trong đó có tiền
và một số giấy tờ, sách vở. Bạn A đưa ra ý kiến là mang chiếc cặp nộp lại cho cô
hiệu trưởng để cô tìm người trả lại. Bạn B lại cho rằng không cần đưa đi nộp cho
cô, mình lấy tiền rồi vứt cặp đi ai mà tìm thấy được”.
- Sau đó giáo viên nêu câu hỏi:
1) Em đồng tình với ý kiến của bạn nào? Vì sao?
7



2) Nếu em là người nhặt được chiếc cặp đó, em sẽ làm gì?
- Học sinh cả lớp phát biểu đưa ra các ý kiến trả lời. Sau đó giáo viên nhận xét
các ý kiến. Từ đó tạo biểu tượng về khái niệm Nhân phẩm bằng cách giải
thích từ. Giáo viên kết hợp giảng giải khái niệm Nhân phẩm là toàn bộ
những phẩm chất mà mỗi người có được. Nó là phạm trù nói đến giá trị làm
người, con người nhân phẩm là con người có đạo đức, là sản phẩm của quá
trình giáo dục và tự giáo dục. Trong thức tế, nhìn chung mọi người đều có ý
thức quan tâm và giữ gìn nhân phẩm của mình, trừ một số kẻ xấu xa coi
thường nhân phẩm của chính mình để đạt được một mục đích thấp hèn nào
đó. Khi giảng giải khái niệm, giáo viên cần chú ý nhấn mạnh tính khách
quan và chủ quan của nhân phẩm.
- Giáo viên chỉ cho học sinh thấy rõ người có nhân phẩm bao giờ cung là
người có văn hóa, do đó được xã hội, cộng đồng đánh giá cao và kính trọng.
- Giáo viên có thể nêu một số câu ca dao, tục ngữ thể hiện con người có nhân
phẩm và biết giữ gìn nhân phẩm.
- Giáo viên tiếp tục giảng giải cho học sinh hiểu người có nhân phẩm là người
có lương tâm, có nhu cầu vật chất và tinh thần, luôn thực hiện tốt các nghĩa
vụ đạo đức đối với xã hội và mọi người, biết tôn trọng các quy tắc, chuẩn
mực đạo đức tốt đẹp, tiến bộ.
Vận dụng phương pháp đóng vai vào giảng dạy phần kiến thức “ Danh dự ”.
- Trước hết GV tạo biểu tượng bằng cách giải thích từ “danh” và “dự”. Khi
giảng giải khái niệm GV nhấn mạnh cho HS hiểu được Danh dự giống như tờ giấy
chứng nhận giá trị làm người của con người. Người có danh dự luôn chịu trách
nhiệm trước mọi người, các hành vi của bản thân. Để có Danh dự thì mỗi cá nhân
phải rèn luyện, kiên trì để tạo ra giá trị cho bản thân mình, khi được xã hội công
nhận thì cá nhân phải biết giữ gìn.
- GV nhấn mạnh khi một cá nhân biết tôn trọng và bảo vệ Danh dự của mình
thì người đó được coi là có lòng tự trọng.
- GV dẫn dắt HS đi đến khái niệm tự trọng và tự ái, phân biệt 2 khái niệm
này, sau đó yêu cầu HS lấy ví dụ.

- Để khắc sâu kiến thức phần này, GV cho các em tham gia trò chơi đóng
vai.
Tình huống đóng vai như sau:
Tình huống 1: Trong giờ kiểm tra toán, bạn A loay hoay không tìm ra kết
quả. Bạn B đã đưa bài cho bạn A chép, bạn A suy nghĩ không biết có nên chép hay
không?
Tình huống 2: từ chiến trường trở về chú A được phân công làm cán bộ tổ
chức. Có người đã biếu chú tiền để xin việc làm…
- GV chia nhóm đóng vai, HS chuẩn bị lời thoại, phân vai sau đó tiến hành
diễn kịch.
- Cả lớp theo dõi, nhận xét, sau đó Gv đặt câu hỏi:
1) Em có đồng tình với cách xử lý trong tình huống trên không? Vì sao?
8


2) Nếu là em, em sẽ xử lý như thế nào trong tình huống đó? Em học được gì
qua 2 tình huống trên?
GV nhận xét, bổ sung qua các ý kiến của HS.
GV đánh giá, tuyên dương các vai diễn và giúp HS rút ra bài học.
GV chuyển ý sang phần kiến thức tiếp theo.
Bài 12. Công dân với tình yêu, hôn nhân và gia đình (2 tiết)
Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy đơn vị kiến thức “
Hôn nhân”.
+ Đặc trưng kiến thức
Đây là phần kiến thức tuy chưa thật gần gũi với học sinh nhưng các em đang
ở độ tuổi tiền hôn nhân. Vì vậy, sử dụng phương pháp thảo luận nhóm sẽ giúp
trang bị cho các em những kiến thức về hôn nhân, chế độ hôn nhân của nước ta
quy định như thế nào?
+ Vận dụng như sau:
Giáo viên chuyển ý từ nội dung kiến thức “tình yêu chân chính”: tình yêu

chân chính sẽ dẫn tới hôn nhân, hôn nhân được đánh dấu bằng sự kiện kết hôn.
Giáo viên hướng dẫn cho học sinh thảo luận. Giáo viên chia nhóm thảo luận,
vị trí ngồi, thời gian thảo luận, sau đó đưa câu hỏi, tình huống cho học sinh thảo
luận.
Nhóm 1: Chưa tốt nghiệp phổ thông, 16 tuổi An đã lên xe hoa về nhà chồng,
chồng An là Tuấn 18 tuổi chưa có việc làm.Vì có chú làm cán bộ xã nên chính
quyền địa phương đã cho qua việc này. Em có nhận xét gì về tình huống trên?
Nhóm 2: Anh A và chị B đã sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không
đăng ký kết hôn. Theo em, quan hệ giữa họ về mặt pháp lý có được coi là vợ chồng
hay không? Tại sao?
Nhóm 3: Gia đình anh Nam hoàn cảnh rất khó khăn. Khi tổ chức đám cưới anh
đã bàn bạc với cha mẹ nên tổ chức tiết kiệm, trang trọng và vui vẻ. Nhưng gia đình
cô dâu không đồng ý và cho rằng làm như vậy giảm giá trị con gái của họ. Suy
nghĩ của em về vấn đề này như thế nào?
Nhóm 4: Bố mẹ Quân đã ly hôn, Bố và Mẹ Quân đều đi bước nữa, Quân ở với
ông bà nội. Ông bà nội già yếu, Quân không có ai chăm sóc dạy bảo nên đã theo
bạn bè xấu sa vào tệ nạn xã hội. Nêu ý kiến của em về tình huống trên?
- Học sinh các nhóm thảo luận sau đó cử đại diện nhóm trình bày, học sinh cả
lớp trao đổi, nhận xét,bổ sung . Giáo viên nhận xét , đánh giá, bổ sung rồi dẫn dắt
học sinh rút ra khái niệm Hôn nhân và chế độ hôn nhân ở nước ta hiện nay.
- Giáo viên chuyển ý sang phần kiến thức tiếp theo.
Vận dụng phương pháp đóng vai vào giảng dạy kiến thức “ mối quan hệ gia
đình và trách nhiệm các thành viên”
+ Đặc trưng kiến thức.
9


Là phần kiến thức thực tế đối với học sinh, bởi bản thân các em đang tham
gia vào các mối quan hệ gia đình, đồng thời cũng thực hiện nghĩa vụ của mình đối
với các thành viên trong gia đình. Vận dụng phương pháp đóng vai sẽ giúp các em

thực hành qua các tình huống cụ thể.
+Vận dụng như sau:
- Giáo viên chuyển ý từ phần kiến thức trước.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh đóng vai
Tình huống 1: Khi cha mẹ đối xử không tốt với ông bà.
Tình huống 2: Anh chị giúp em học tập.
- Giáo viên yêu cầu học sinh đóng vai theo nhóm, xây dựng kịch bản, lời
thoại, phân vai cụ thể, sau đó tiến hành diễn kịch.
- Cả lớp theo dõi sau đó nhận xét, đánh giá.
- Giáo viên đặt câu hỏi: em có đồng tình với cách cư xử trên không? Vì sao?
Nếu là em, em sẽ xử lý như thế nào?
- Học sinh nêu ra ý kiến của mình qua các tình huống. Từ đó giáo viên rút ra
nhận xét, đánh giá hướng học sinh đến cách xử lý đúng. Đồng thời rút ra bài
học cho học sinh qua các tình huống đó.
- Giáo viên khẳng định mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình là bình
đẳng, yêu thương đồng thời các thành viên phải có trách nhiệm với nhau
cùng hướng đến mục tiêu xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc.
Bài 13. Công dân với cộng đồng (2 tiết)
Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy đơn vị kiến thức”
Cộng đồng và vai trò của cộng đồng đối với cuộc sống của con người”.
+ Đặc trưng kiến thức.
Đây là phần kiến thức gần gũi với học sinh bởi các em cũng đang sống
trong gia đình mình ở một cộng đồng. Vì vậy sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm sẽ giúp các em ý thức mình là một thành viên trong cộng đồng và cũng như
biết được vai trò cộng đồng đối với gia đình mình nói riêng và cuộc sống con
người nói chung.
+ Vận dụng như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài, sau đó thuyết trình, giải thích cho học sinh hiểu
cụm từ “ cộng đồng”.
- Giáo viên tổ chức thảo luận , giáo viên chia nhóm, phân chia chỗ ngồi, thời

gian thảo luận và đưa ra câu hỏi.
Nhóm 1: Nêu ví dụ về cộng đồng mà em được biết?
Nhóm 2: Con người có thể tham gia nhiều cộng đồng không? Cho ví dụ.
Nhóm 3: Nêu những đặc điểm của cộng đồng?
Nhóm 4: Phân tích mối liên hệ giữa cộng đồng đối với đời sống con người?
- Học sinh các nhóm thảo luận, sau đó cử đại diện nhóm trình bày.
- Học sinh cả lớp trao đổi, nhận xét, bổ sung ý kiến.
10


- Giáo viên nhận xét, đánh giá. Giáo viên giải thích Con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội, cộng đồng là hình thức thể hiện mối liên hệ, quan hệ
giữa con người với con người.
- Giáo viên tổng kết phần thảo luận rút ra khái niệm và vai trò của cộng đồng
- Giáo viên chuyển ý sang phần kiến thức tiếp theo.
Vận dụng phương pháp giải quyết vấn đề vào giảng dạy phần kiến thức “
Hòa nhập”.
+ Đặc trưng kiến thức.
Là phần kiến thức cần thiết đối với học sinh vè các em đang sống trong cộng
đồng với gia đình, học tập trong tập thể vì thế cần có sự hòa nhập. Sử dụng
phương pháp này nhằm giúp cho học sinh ý thức được mình cần hòa nhập,
hợp tác với bạn bè, tập thể.
+ Vận dụng như sau:
- Giáo viên đặt vấn đề: Cộng đồng là môi trường xã hội để các cá nhân thực
hiện sự liên kết, hợp tác với nhau tạo nên đời sống của mình và cộng đồng.
Tuy nhiên không phải ai cũng hòa nhập được với cộng đồng.
- Giáo viên nêu tình huống có vấn đề
“ Bố bạn Minh đi bị đi tù, mẹ đi lấy chồng khác. Minh sống với ông bà nội.
Minh hay bị một nhóm bạn trong lớp chê bai, trêu chọc vì thế Minh luôn rất
mặc cảm , tự ti, xa lánh mọi người.”

- Giáo viên nêu câu hỏi:
1) Em có đồng tình với việc làm của nhóm bạn đó không? Vì sao?
2) Nếu gặp trường hợp như Minh, em sẽ làm gì?
- Học sinh đưa ra ý kiến trả lời sau đó giáo viên nhận xét các ý kiến của học
sinh. Kết hợp giảng giải sống hòa nhập là như thế nào?. Giáo viên giảng giải
người sống hòa nhập với cộng đồng sẽ có thêm niềm vui và sức mạnh, vượt
qua khó khăn trong cuộc sống. Ngược lại nếu sống không hòa nhập sẽ cảm
thấy cô đơn, buồn tẻ. Đặc biệt giáo viên cần nhấn mạnh thanh niên, học sinh
cần phải sống hòa nhập với tập thể, trường học, cộng đồng nơi mình sống.
- Sau đó giáo viên cho học sinh tự liên hệ bản thân phải rèn luyện như thế
nào? Sau đó giáo viên có thể nêu một số câu tục ngữ nói về sống hòa nhập.
Giải thích một trong những câu tục ngữ đó nhằm khăc sâu nội dung kiến
thức.
- Giáo viên chuyển ý sang phần kiến thức “ Hợp tác”.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Kết quả điều tra khảo sát như sau:
- Về quan niệm của giáo viên theo phương pháp dạy học tích cực . Hầu hết GV
đều cho rằng : việc dạy học theo phương pháp trên sẽ giúp HS nắm bài tốt hơn, gây
11


hứng thú hơn khi tham gia thảo luận nhóm, thuyết trình, sắm vai hay làm các bài
tập tình huống.
- Về nhận thức của HS. Qua trao đổi, thăm dò trong lớp học cũng như ngoài lớp
học, đa số các em đều hứng thú và say mê học tập, chủ động, tích cực trong việc
lĩnh hội tri thức, không khí của lớp học rất sôi nổi, các em dễ tiếp thu bài và vì thế
chất lượng của tiết học cũng hiệu quả hơn rất nhiều.
Nhìn chung nhận thức về vị trí, tác dụng, ý nghĩa của phương pháp giáo dục
tích cực trong dạy học GDCD, đa số HS đều hào hứng với phương pháp này. Nó

góp phần cũng cố kiến thức cũ, cung cấp kiến thức mới, giúp HS hiểu sâu sắc hơn
nội dung bài học, rèn luyện cho các em khả năng tư duy cao để phát huy toàn diện
năng lực sẵn có của bản thân.
Hiệu quả mà tôi đã vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào dạy học
môn GDCD chính là kết quả học tập của các em ở năm học này so với năm học
trước là rất khả quan, có nhiều chuyển biến, tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ học sinh giỏi, khá
tăng lên, trung bình giảm, đặc biệt không còn học sinh yếu kém. Cụ thể như sau:
Khi vận dụng chưa thường xuyên các phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy bộ môn. ( Số liệu năm học 2016- 2017)
LỚP
10C1
10C2
10C3
10C4
TC

GIỎI
SL
TL
19
38%
5
9,5%
2
4,5%
0
0
26 13,3%

KHÁ

SL
TL
23
46%
22
4,5%
11 24,4%
7
14,6%
63 32,1%

TB
SL
7
22
20
22
71

TL
14%
41,5%
44,4%
45,8%
36,2%

YẾU
SL
TL
1

2%
4
7,5%
10 22,2%
14 29,2%
29 14,8%

KÉM
0
0
0
2
5
7

0
0
0
4,5%
10,4%
3,6%

Khi khai thác triệt để các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy bộ môn.
( Số liệu năm học 2017- 2018 )
LỚP
10C1
10C2
10C3
10C4
TC


GIỎI
SL
TL
19
22,2
20 46,5%
17 37,7%
12 30,8%
68 37,6%

KHÁ
SL
TL
31
70%
18 41,9%
21 46,7%
20 51,3%
90 49,7%

TB
SL
4
5
7
7
23

TL

8,8%
11,6%
15,6%
17,9%
12,7%

YẾU
SL
TL
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0

KÉM
0
0
0
0
0
0

0
0

0
0
0
0

12


Vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn GDCD là một
trong những phương tiện đạt hiệu quả cao. Cụ thể trong quá trình giảng dạy, tôi
nhận thấy:
- Bài giảng của GV đã thu hút sự chú ý của học sinh, các em đã có tinh thần
tham gia học tập say mê, chủ động, tích cực khám phá tri thức môn học.
- Học sinh lĩnh hội và nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng nhuần
nhuyễn và nhớ lâu kiến thức đã học.
- Có năng lực quan sát, so sánh, phân tích, lý giải một cách đúng đắn những
hiện tượng, những vấn đề diễn ra trong đời sống xã hội.
- Biết vận dụng kiến thức bài học vào hoạt động nhận thức và thực tiễn của
bản thân trong cuộc sống.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, với trình độ
nhận thức ngày càng cao của con người Việt Nam do những điều kiện kinh tế đưa
lại và những biến đổi sâu sắc nhanh chóng của đời sống xã hội. Vận dụng phương
pháp dạy học tích cực vào môn GDCD đóng một vai trò quan trọng. Trong giảng
dạy môn GDCD, nếu giáo viên sử dụng tốt các phương pháp dạy học tích cực sẽ
phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, giảm bớt thuyết trình, diễn giải,
tăng cường dẫn dắt, điều khiển, tổ chức, xử lý tình huống, giúp học sinh nắm vững
các khái niệm, phạm trù, quy luật mang tính trừu tượng khái quát cao. Góp phần
phục vụ và thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước đã đề ra thông qua

hội nghị lần 2- ban chấp hành TW khóa 8 :“ Xây dựng những con người và thế hệ
trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức
trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực
tiếp thu các giá trị tinh hoa văn hóa nhân loại…làm chủ tri thức khoa học và công
nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành giỏi, có tác phong công
nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật , có sức khỏe, là những người thừa kế, xây dựng
chủ nghĩa xã hội “Vừa hồng vừa chuyên”.
Đề tài đã làm rõ cơ sở lý luận của một số phương pháp dạy học tích cực, cụ
thể là phương pháp thảo luận nhóm, đóng vai, giải quyết vấn đề. Đồng thời bước
đầu định hướng cách thức vận dụng hợp lý có hiệu quả các phương pháp này vào
giảng dạy một số nội dung cụ thể của môn GDCD lớp 10 ở trường THPT.
Với khả năng bản thân có hạn, chắc chắn đề tài không tránh khỏi thiếu sót,
chưa khai thác hết được ưu điểm các phương pháp dạy học tích cực. Kính mong
nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lý và đồng nghiệp đề đề tài được
hoàn chỉnh hơn.

13


3.2 Kiến nghị.
- Thực trạng việc sử dụng phương pháp giáo dục tích cực trong dạy học môn
GDCD khó có thế tiến hành thường xuyên, liên tục ở các khối lớp, các bài học. Đa
số GV đều nhất trí sử dụng phương pháp giáo dục tích cực trong dạy học GDCD
nhưng chỉ ở mức độ nhất định, điều này còn tùy thuộc vào nội dung biên soạn
trong SGK. Kết quả là GV rất khó khăn khi sử dụng phương pháp trên vì:
+ SGK lớp 10 phần triết học rất ngắn gọn, khó hiểu.
+ Tài liệu tham khảo, giáo trình cho bộ môn còn quá ít.
+ Trình độ nhận thức của HS chưa đồng đều, thụ động, lười suy nghĩ và có tư
tưởng học đối phó.

Qua đây tôi cũng xin có một số ý kiến để sớm hoàn chỉnh và áp dụng phương
pháp này một cách tốt hơn ở nhà trường phổ thông:
Một là: về SGK cần bổ sung thêm những phần HS tự nghiên cứu để rút ra kiến
thức của bài học, nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của HS.
Hai là: về tài liệu tham khảo của bộ môn đang còn thiếu, việc cập nhật kịp thời
những kiến thức mới, những thay đổi về chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước để giảng dạy cho phù hợp còn gặp nhiều khó khăn.
Ba là: đội ngũ giáo viên cần được tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao hơn nữa
về chuyên môn, và đặc biệt là phương pháp giảng dạy để môn GDCD thực sự trở
thành môn học được các em yêu thích, say mê tìm tòi và khám phá trong trường
phổ thông.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp giảng dạy môn GDCD ở trường THPT – Trường ĐHSP
Hà Nội-2003.
2. Sách giáo khoa GDCD 10- Nxb Giáo dục.
3. Sách giáo viên GDCD 10- Nxb giáo dục.
4. Hồ Thanh Diện “ thiết kế bài giảng GDCD 10” Nxb Hà Nội.
5. Các tài liệu có liên quan…

Xác nhận của thủ trưởng cơ quan

Tôi xin cam đoan, đây là đề tài nghiên
cứu của bản thân tôi, không copi của
người khác.
Hà trung, ngày 5 tháng 6năm 2018
Tác giả của SKKN:


Phạm Ngọc Sơn.

DANH MỤC
15


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI - CẤP SỞ GD&ĐT
Họ và tên tác giả: Phạm Ngọc Sơn
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THPT Nguyễn Hoàng

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Vận dụng phương pháp thảo luận
nhóm trong giảng dạy môn

2.

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm

học
đánh
giá xếp
loại

Sở GD- ĐT
Thanh hóa

C

20102011

Sở GD- ĐT
Thanh hóa

C

20112012

Sở GD- ĐT
Thanh hóa

C

20142015

Cấp đánh giá xếp
loại (Phòng, Sở,
Tỉnh...)


GDCD lớp 11.
Xây dựng một số bài tập vận
dụng bằng ca dao, tục ngữ qua
phần thứ nhất “ Công dân với
việc hình thành thế giới quan…”

3.

cho học sinh lớp 10.
Vận dụng văn học dân gian trong
dạy phần “Công dân với việc
hình thành thế giới quan” môn
GDCD 10 nhằm tạo hứng thú cho
học sinh.

16



×