Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng môn học giáo dục quốc phòng – an ninh cho học sinh trường THPT hà văn mao năm 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.49 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc
dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân nhằm thống nhất nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng con
người mới XHCN có sự phát triển toàn diện; là môn học chính khóa trong
chương trình giáo dục, đào tạo trung học phổ thông đến đại học và các trường
chính trị, hành chính, đoàn thể. Trong đó học sinh là một đối tượng đông đảo
của giáo dục quốc phòng - an ninh. Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ
hết sức quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho
thế hệ trẻ những kiến thức cơ bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta
và kỹ năng quân sự để sẵn sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Việc GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong hệ
thống giáo dục quốc gia, góp phần bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những kiến thức cơ
bản về đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng ta và kỹ năng quân sự để sẵn
sàng tham gia lực lượng vũ trang khi cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong tình hình mới. GDQP-AN cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng,
cấp bách trong chiến lược đào tạo con người mới XHCN, nhằm giáo dục cho thế
hệ trẻ nói chung, học sinh nói riêng lòng yêu nước, yêu CNXH, ý thức tổ chức
kỷ luật, tinh thần tập thể, tư duy và kiến thức quân sự, chuẩn bị nhân lực và đào
tạo nhân tài cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc là một trong những nội dung giáo dục
toàn diện trong nhà trường, góp phần hình thành nhân cách con người mới
XHCN. Mặt khác, GDQP- AN còn trang bị cho học sinh một số hiểu biết về
truyền thống vẻ vang của dân tộc ta trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, lịch sử,
truyền thống của Quân đội và Công An nhân dân Việt Nam; xây dựng nền quốc
phòng toàn dân, an ninh nhân, về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phòng chống chiến lược “ diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực
thù địch hiện nay và một số kỹ năng quân sự cần thiết..., tạo điều kiện để học
sinh tham gia vào các hoạt động về công tác quốc phòng, quân sự trong nhà



trường và địa phương, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ công dân đối với sự nghiệp
Bảo vệ Tổ quốc.
Sau nhiều năm giảng dạy môn Giáo dục quốc phòng - an ninh theo
phương pháp mới, bản thân tôi nhận thấy trong một tiết dạy giáo viên phải
chuyển tải nhiều kiến thức đồng thời phân chia thời gian học lý thuyết cũng như
thực hành phải hợp lý khoa học mới giải quyết được hết trọng tâm nội dung bài
dạy. Đồng thời không để học sinh học phần lí thuyết cũng như thực hành một
cách thờ ơ, xem thường và cũng tránh sự nhàm chán trong tập luyện đó là yếu tố
chủ quan, đòi hỏi giáo viên phải vận dụng phát huy tốt việc đổi mới phương
pháp giảng dạy.
Mặt khác, đối với giáo viên giáo dục quốc phòng - an ninh, công việc
giảng dạy phải gắn liền với nghiên cứu khoa học. Đây là con đường ngắn nhất
để không ngừng tích luỹ kiến thức, nâng cao trình độ, gọt sắc tư duy, góp phần
tìm ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức tới người học.
Cần lưu ý rằng, để phục vụ đắc lực cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy,
hướng nghiên cứu của các giáo viên giáo dục quốc phòng - an ninh nên tập trung
trực tiếp vào nội dung kiến thức môn học hay những yếu tố tham gia vào quá
trình dạy và học như: Đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới nội dung chương
trình học tập...
Đổi mới mạnh mẽ sâu rộng phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm
tra, đánh giá: Giáo viên cần phải đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng
tích cực hoá hơn nữa quá trình học tập của học sinh, phải tạo ra được cơ chế
buộc học sinh phải tham khảo tài liệu, chủ động nắm bắt nội dung môn học,
nhằm hiểu sâu hơn nữa kiến thức. Đồng thời, cần cải tiến phương pháp học tập
của học sinh, bởi hoạt động của giáo viên trên lớp đã bao hàm hoạt động của học
sinh; cũng như vậy, hoạt động học của học sinh luôn chứa đựng vai trò giảng
dạy của giáo viên. Để dự báo năng lực học tập, tự giáo dục của học sinh, năng
lực giảng dạy của giáo viên, từ đó điều chỉnh, cải tiến phương pháp học tập của
học sinh, phương pháp giảng dạy của thầy. Có như vậy, chúng ta mới thực sự

biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo.


Với vị trí, vai trò rất quan trọng của môn học hiện nay chính vì thế tôi
chọn đề tài này nhằm tìm hiểu sâu sắc hơn “ Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng môn học Giáo dục quốc phòng - An ninh cho học sinh
trường THPT Hà Văn Mao năm học 2017 - 2018”
1.2. Mục đích Nghiên cứu:
+ Tìm hiểu những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng môn học Giáo dục
quốc phòng – An Ninh cho học sinh trường THPT Hà Văn Mao
+ Nghiên cứu để có thể làm tài lệu tham khảo và làm cơ sở để giảng dạy sau
này.
+ Để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu đề tài cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ trọng tâm sau:
- Về thực trạng đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng - an ninh.
- Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy môn
Giáo dục quốc phòng - An ninh.
- Nâng cao chất lượng chuẩn bị bài giảng
- Đổi mới nội dung bài giảng.
- Đổi mới phương pháp dạy học môn học Giáo dục quốc phòng - An ninh.
- Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập.
1.3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
1.3.1. Khách thể nghiên cứu:
Học sinh lớp 11A1 với 42 HS và lớp11A2 với 44 HS trường THPT Hà Văn
Mao.
1.3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng môn học Giáo dục quốc
phòng - An ninh cho học sinh trường THPT Hà Văn Mao
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận.

1.4.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp điều tra đánh giá.


- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
- Phương pháp đối chiếu kết quả so sánh.
1.5. Cơ sở, phạm vi, thời gian nghiên cứu.
- Khả năng ứng dụng đề tài vào thực tế cao.
- Chương trình Giáo dục Quốc phòng – AN Ninh.
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018
2. Nội dung của sáng kiến
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.
2.1.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện Chỉ thị 12-CT/TW ngày 03/5/2007 của Bộ Chính trị về Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác GDQP-AN trong tình hình mới;
Chỉ thị số 417/CT-TTg ngày 31/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ vế việc tăng
cường chỉ đạo, thực hiện công tác GDQP - AN năm 2010 và những năm tiếp
theo; Nghị định 116/2007-NĐ - CP về GDQP - AN cùng nhiều văn bản quy
phạm pháp luật khác làm cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN trong
các trường THPT. Với mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển
toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển
năng lực khả năng, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị
cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc”; Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết
định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Đào
tạo cũng đã nêu : “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều
kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng

hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Trường THPT Hà Văn Mao tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện cuộc vận
động “Hai không” với bốn nội dung trọng tâm: Nói không với tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích; nói không với vi phạm đạo đức nhà giáo và việc cho học


sinh ngồi nhầm lớp. Gắn kết với việc triển khai tổ chức thực hiện Chỉ thị số 06CT/TW ngày 07/6/2006 của Bộ Chính trị về cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để đạt được mục tiêu đề ra là đảm bảo
chất lượng giáo dục ổn định và phát triển vững chắc. Ngay từ đầu năm học
Trường THPT Hà Văn Mao đã chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền đến toàn
thể cán bộ, giáo viên, học sinh và các bậc phụ huynh hiểu rõ mục đích, yêu cầu
của việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
Hiện nay, nền giáo dục nước ta đang ở vào giai đoạn, mà việc đổi mới
phương pháp giảng dạy, đang là một vấn đề cấp bách được đặt ra. Phải khuyến
khích tự học phải vận dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo. Để thực hiện tốt chủ trương này thì cần
phải đào tạo khả năng tự học cho học sinh. Nói đến giáo dục quốc phòng – an
ninh. Trường THPT Hà Văn Mao là một trong những đơn vị trong huyện có điều
kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện sân bãi đáp ứng số lượng tiết học
giáo dục quốc phòng – an ninh cho gần 1000 học sinh. Tiết học giáo dục quốc
phòng – an ninh chính khóa đã truyền thụ cho các em học sinh những tri thức cơ
bản của nền Giáo dục quốc phòng toàn dân, những hiểu biết về tổ chức QĐND
Việt Nam, về nhà trường quân đội, về lịch sử QĐND Việt Nam, truyền thống
đấu tranh dựng nước giữ nước của dân tộc và Luật biên giới Quốc gia. Đó là
những kiến thức rất bổ ích, thiết thực với học sinh phổ thông trước ngưỡng cửa
cuộc đời. Học sinh còn được làm quen với tác phong quân đội qua các bài học
về điều lệnh, đội ngũ, các tư thế vận động cơ bản trong chiến đấu, băng bó, cứu
thương....làm quen với các phương tiện chiến đấu như ném lựu đạn, cách bắn
súng tiểu liên AK ... Qua học tập môn Giáo dục quốc phòng – an ninh đã giáo

dục cho học sinh lòng yêu nước - tự hào dân tộc, nâng cao tinh thần cảnh giác,
chống mọi âm mưu diễn biến hoà bình của kẻ thù. Toàn bộ chương trình học tập
của từng khối được xây dựng theo chương trình hướng dẫn của Bộ GD&ĐT,
đảm bảo dạy đủ môn, đủ tiết, đúng phân phối chương trình. Vì vậy các tiết học
giáo dục quốc phòng - an ninh học sinh tham gia học đầy đủ tích cực sôi nổi và
hào hứng.


Giáo dục quốc phòng – an ninh trong trường THPT là môn học chính
khóa, là bộ môn khoa học tổng hợp có phạm vi vô cùng rộng lớn và khá phức
tạp, nên không thể đơn giản, sơ sài mà nó phải được coi là một hệ thống chương
trình và phải được quán triệt trong tất cả các môn học trong mọi hoạt động của
học sinh, ở mọi lúc, mọi nơi, có vậy mới có thể đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
quốc phòng hiện tại và tương lai.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
2.1.2.1. Khó khăn.
Trường THPT Hà Văn Mao đóng trên địa bàn của một trong 64 huyện
nghèo của cả nước, đời sống của nhân dân trong khu vực còn rất nhiều khó
khăn. Trình độ dân trí còn thấp nên việc quan tâm tới việc học của con em mình
còn nhiều hạn chế. Môn học giáo dục quốc phòng – an ninh là môn học mới
được đưa vào học chính khóa và lại là môn học phụ nên mức độ quan tâm đâu tư
chú ý của các em học sinh có phần coi nhẹ. Mặt khác đa phần giáo viên giảng
dạy đều là giáo viên giáo dục thể chất chuyển qua giảng dạy giáo dục quốc
phòng – an ninh, thời gian đào tạo chỉ có 6 tháng nên chưa đáp ứng được yêu
cầu của môn học. Ngoài ra hệ thống cơ sở vật chất dụng cụ và thiết bị dạy học
của môn giáo dục quốc phòng – an ninh còn thiếu nhiều và chất lượng chưa
cao.
Trong thực tế học sinh được tiếp xúc với vũ khí trang bị quân sự rất hạn
chế. Đặc biệt ở độ tuổi học sinh việc trực tiếp được thực hành bắn đạn thật đối
với súng quân dụng do đó việc trải nghiệm với súng đạn là rất mới mẻ, khó khăn

trong việc hình thành tư duy trực quan.
2.1.2.2. Thuận lợi
Được sự quan tâm, sự đánh giá đúng đắn của Ban giám hiệu về vị trí, vai
trò môn học GDQP-AN, nhà trường đã quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên,
chương trình giảng dạy, cơ sở vật chất phù hợp với điều kiện thực tế nhà trường.
* Đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy:
Hiện nay, nhà trường có 02 giáo viên tham gia giảng dạy bộ môn GDQPAN đều có trình độ từ Đại học trở lên và được qua đào tạo qua 6 tháng giáo viên


GDQP-AN. Đủ đáp ứng như cầu giảng dạy môn GDQP-AN theo phân phối
chương trình (1 tiết/tuần).
100% giáo viên biết sử dụng máy vi tính và các đồ dùng, thiết bị dạy học
hiện đại như máy tính, máy chiếu, máy bắn tập MBT-03,… Thường xuyên được
tập huấn kiến thức quốc phòng vào đầu mỗi năm học. Ngoài ra các giáo viên đều
có kiến thức và trình độ tin học, được học tập bồi dưỡng kiến thức tin học và tự
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn và trình độ tin học.
Tất cả các giáo viên đều có sử dụng CNTT trong các tiết dạy, các tiết thao
giảng; đã quen với việc ứng dụng CNTT làm đồ dùng dạy học soạn giáo án điện
tử và bài giảng điện tử. Điều này đã được đánh giá bằng chất lượng của giáo
viên tham dự các hội thi và chuyên đề giáo dục trong nhà trường.
*Cơ sở vật chất:
Cơ sở vật chất là yếu tố quan trọng và quyết định việc định hướng tổ chức
công tác giảng dạy. Giai đoạn đầu tiên khi mới tiến hành dạy rãi môn GDQP-AN
(năm học 2006-2007) cơ sở vật chất phục vụ cho công tác GDQP-AN luôn là
điều trăn trở, bức thiết, với tất cả những người làm công tác giáo dục. Từ năm
học 2007-2008 đến nay, do Bộ giáo dục và đào tạo có sự thay đổi và cải cách
SGK và chương trình giảng dạy nên nhà trường đã có được sự đầu tư của cấp
trên tương đối đầy đủ về cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ công tác
GDQP-AN. Hiện nay, cơ sở vật chất phục vụ công tác GDQP-AN nhà trường có
01 phòng học chuyên môn, 01 phòng đựng các dụng cụ và thiết bị, 01 máy bắn

tập (MBT-03), 10 khẩu súng tiểu liên AK cấp 5, lựu đạn cắt bổ, lựu đạn tập,
bông, băng, nẹp, cáng cứu thương, sân tập luyện rộng rãi có nhiều cây xanh
bóng mát, tranh ảnh đầy đủ,… Hàng năm, vào đầu mỗi năm học nhà trường
cũng có kế hoạch để sửa chữa, mua sắm thêm các trang thiết bị, dụng cụ phục vụ
giảng dạy và học tập môn GDQP-AN.
Như vậy, xuất phát từ thực tế nhà trường cho thấy Ban giám hiệu luôn luôn
quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện đại
giúp cho giáo viên có thể tiếp cận nhanh với CNTT nhằm ứng dụng vào đổi mới
phương pháp giảng dạy môn GDQP-AN, các hoạt động ngoại khóa và tập luyện


môn GDQP-AN. Đồng thời Ban giám hiệu luôn chỉ đạo sát sao giáo viên về
chuyên môn, thường xuyên dự giờ thăm lớp để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các lớp học ngoại khóa nâng cao trình độ
chuyên môn và trình độ tin học.
3. Giải pháp thực hiện
3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy nội dung môn học
GDQP- AN
3.1.1 Về thực trạng đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng- an ninh.
Trong những năm qua các ngành chức năng, trực tiếp nhất là ngành giáo
dục - đào tạo đã có những chủ trương, giải pháp, cơ chế chính sách, nhằm xây
dựng đội ngũ giáo viên, GDQP-AN và bước đầu đã đạt được kết quả nhất định.
Tuy nhiên qua tổng kết 10 năm (2001-2010) thực hiện nhiệm vụ GDQP-AN đã
nêu rõ “ đội ngũ giáo viên, GDQP-AN còn thiếu về số lượng và bất cập về chất
lượng, thực tế về số lượng, trong khi số học sinh ngày càng tăng nhanh, song
nguồn bổ sung giáo viên giáo dục quốc phòng- an ninh rất hạn chế . Năm 2000
đề án “ Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên giáo dục quốc phòng các trường Trung học
phổ thông và Trung cấp chuyên nghiệp” đã được ban hành theo Quyết định số
16/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 18/5/2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
nhưng việc thực hiện đề án chỉ dừng lại ở mục tiêu đào tạo Giáo viên Giáo dục

quốc phòng ngắn hạn 6 tháng cho giáo viên đã có một bằng đại học chuyên môn
đã được biên chế hoặc hợp đồng giảng dạy ở một số trường Trung học phổ
thông.
Việc đào tạo theo hình thức ghép môn Giáo dục quốc phòng cũng được
triển khai ở một số trường, trong đó Giáo dục quốc phòng là ngành thứ 2 ghép
với giáo dục thể chất, giáo dục công dân hoặc lịch sử. Hiện nay, số lượng giáo
viên Giáo dục quốc phòng được đào tạo ngắn hạn đã được biên chế ở các trường
Trung học phổ thông cần phải tiếp tục đào tạo để đạt chuẩn theo quy định của
Luật giáo dục. Đối với giáo viên Giáo dục quốc phòng ghép môn, vì giáo dục
quốc phòng được xác định là ngành thứ 2 nên giữa việc đào tạo và sử dụng để


giảng dạy theo chuyên ngành giáo dục quốc phòng trên thực tế đã nảy sinh nhiều
yếu tố bất cập, chưa đáp ứng thực tế yêu cầu môn học.
3.1.2 Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy môn
Giáo Dục Quốc Phòng An ninh.
- Phải có sự phối hợp thống nhất chặt chẽ và đồng bộ giữa các ngành có
liên quan, nhất là Bộ Nội vụ, Bộ Giáo dục- Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh
& Xã hội, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính trong việc quy hoạch, sắp xếp, đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng và chế độ chính sách cho đội ngũ giáo viên GDQP-AN. Đây
là vấn đề mấu chốt, có ý nghĩa quyết định đến cả số lượng và chất lượng đội ngũ
giáo viên GDQP-AN. Giải quyết tốt vấn đề này sẽ tạo điều kiện cho các địa
phương, nhà trường chủ động trong việc đào tạo và sử dụng có hiệu quả đội ngũ
giáo viên GDQP-AN vừa đảm bảo cho nhiệm vụ trước mắt, vừa tính toán sử
dụng lâu dài.
- Công tác đào tạo giáo viên chuyên ngành GDQP-AN trình độ đại học cũng
cần có sự điều chỉnh cho phù hợp, phải tiến hành khảo sát, đánh giá toàn diện,
đúng thực trạng đội ngũ giáo viên, giảngviên GDQP-AN hiện nay. Trên cơ sở đó
xây dựng kế hoạch tổng thể và có kế hoạch cụ thể đối với từng địa phương, nhà
trường trong việc quy hoạch, đào tạo, sử dụng đội ngũ giáo viên GDQP-AN;

tránh tình trạng khi đào tạo ra bị mất cân đối cả về số lượng và cơ cấu. Về
chương trình đào tạo cần được chuẩn hóa cả về kiến thức và kỹ năng, đáp ứng
yêu cầu xã hội hóa và hội nhập quốc tế để khi ra trường đội ngũ giáo viên này có
đủ khả năng giảng dạy và quản lý, chỉ đạo công tác giáo dục quốc phòng - an
ninh trong các nhà trường.
- Quan tâm đầu tư kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập,
trường bắn, phòng học chuyên dùng đáp ứng cho yêu cầu đào tạo giáo viên
GDQP-AN; đồng thời trang bị đủ giáo trình, tài liệu cho dạy học và nghiên cứu
khoa học về Giáo dục quốc phòng- an ninh.
- Có cơ chế chính sách phù hợp nhằm động viên và phát huy cao nhất khả
năng của đội ngũ giáo viên GDQP-AN, trong đó đặc biệt chú trọng việc xây


dựng hệ thống thang bảng lương, phụ cấp trách nhiệm, chế độ bồi dưỡng giờ
giảng, chế độ trang phục... để họ yên tâm giảng dạy môn học và khuyến khích
họ nỗ lực phấn đấu vươn lên.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân, có nội
dung phù hợp với từng đối tượng
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm bảo vệ tổ quốc cho toàn dân là vấn đề
mang tính chiến lược, là việc làm không thể xem nhẹ của cả hệ thống chính trị;
nhằm làm cho mọi công dân nắm vững và thực hiện đúng quan điểm, đường lối
quân sự của Đảng về xây dựng nền Quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận
chiến tranh nhân dân; nâng cao sức mạnh tổng hợp bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ
mới.
Hoạt động giáo dục quốc phòng - an ninh là hoạt động đặc biệt nhằm
nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi người dân về nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình hiện nay. Đảng ta khẳng định: “ Tăng
cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của
đất nước.” Với chủ trương “ Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác

giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và
cho toàn dân, có nội dung phù hợp với từng đối tượng. Chú trọng giáo dục nhận
thức về đối tượng và đối tác, nắm vững quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ tổ
quốc trong tình hình mới”.
Từ nghiên cứu thực trạng sau hơn 10 năm thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về GDQP-AN, bên cạnh việc đạt
được những kết quả quan trọng như đã tạo sự chuyển biến tích cực; nhận thức,
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên các cấp, các
ngành, học sinh, sinh viên và các đối tượng khác về GDQP - AN được nâng
lên…, thì công tác này còn bộc lộ một số khuyết điểm, yếu kém. Cụ thể như
việc quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản của Đảng, Nhà nước về công tác
GDQP-AN có nơi chưa sâu, chưa đầy đủ, nhận thức của một bộ phận cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả cán bộ chủ chốt chưa toàn diện; cá biệt một số bộ,


ngành Trung ương, doanh nghiệp còn xem nhẹ công tác này, vì vậy việc tổ chức
thực hiện còn hạn chế, thiếu toàn diện, chất lượng không cao. Có chính sách đãi
ngộ phù hợp đối với những người làm công tác giáo dục QP-AN, những cá
nhân, đơn vị có thành tích tốt trong công tác này. Chính sách đãi ngộ là nhân tố
quan trọng, tác động trực tiếp vào ý thức, trách nhiệm của cả người làm công tác
giáo dục QP-AN và đối tượng giáo dục; là động lực thúc đẩy mọi tiềm năng sẵn
có trong mỗi công dân về lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc.
Đối với những người làm công tác GDQP-AN, nhất là những nơi khó
khăn và đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo…, vừa giáo dục
vừa vận động, giúp đỡ đối tượng giáo dục, đồng thời vừa phải đấu tranh với các
đối tượng chống phá. Nếu không có chính sách đãi ngộ thích đáng thì sẽ làm ảnh
hưởng đến hiệu quả công tác này, thậm chí còn có thể có những tác động xấu đối
với cả người giáo dục và đối tượng giáo dục. Chính vì vậy, cần có chính sách đãi
ngộ xứng đáng để tạo động lực cho những người làm công tác giáo dục nói
chung và ở những vùng đặc biệt khó khăn nói riêng.

Đối với những cá nhân, đơn vị có thành tích tốt trong hoạt động GDQPAN cần phải có những động viên kịp thời, thông qua sơ kết, tổng kết định kỳ
hàng năm và cả những trường hợp đặc biệt thì không nhất thiết phải chờ đến sơ
kết, tổng kết mà có thể động viên, biểu dương khen thưởng ngay khi lập được
thành tích tốt về công tác GDQP- AN.
Xây dựng đội ngũ giáo viên, giáo dục quốc phòng - an ninh có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng- an ninh
cho học sinh. Tuy nhiên đây là công việc không thể giải quyết một sớm, một
chiều; do đó cần có lộ trình, bước đi phù hợp; quan trọng hơn cả là có hệ thống
giải pháp đồng bộ, hiệu quả và sự nỗ lực của các cấp các ngành.
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chuẩn bị bài giảng
3.2.1 Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng bài giảng.
Đây là khâu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
dạy học. Thực tế, trong thời gian qua, việc chuẩn bị bài giảng, nhất là thiết kế bài


giảng điện tử ở 1 số trường còn hạn chế; chưa tích cực nghiên cứu, bổ sung, cập
nhật những thông tin, tư liệu mới vào bài giảng. Vì vậy, bài giảng thường khô
khan, thiếu sự mở rộng thông tin, thiếu sinh động và chưa chọn lọc nội dung cho
phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp tương lai của từng đối tượng học sinh. Từ đó,
học sinh thấy không có điểm nào mới, hấp dẫn hơn so với tài liệu đã có trong tay,
học sinh thường nhàm chán, không chú ý lắng nghe, nghiên cứu, thậm chí có học
sinh trốn học, bỏ học....
Nâng cao chất lượng bài giảng là biện pháp hữu ích nhất có thể thu hút sự
chú ý học tập của học sinh. Khi bài giảng có chất lượng đa dạng bằng nhiều
phương pháp sẽ giúp học sinh dễ tiếp thu bài hơn, sinh động hơn, cho phép giải
quyết một lượng kiến thức lớn hơn rộng hơn.
3.2.2 Đổi mới nội dung bài giảng.
Đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương trình theo hướng: cơ bản, thiết thực.
Đổi mới nội dung bài giảng phải thực hiện đồng thời đổi mới các phương tiện và
hình thức triển khai phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các

phương pháp truyền thống và vận dụng linh hoạt một số phương pháp dạy - học
tiên tiến. Lựa chọn phương pháp dạy và chỉ ra cho học sinh phương pháp học
phù hợp với đặc thù của môn học Giáo dục quốc phòng.
Trên cơ sở nội dung, chương trình quy định, hằng năm nhà trường tổ chức
giao lưu với các trường khác học tập trao đổi kinh nghiệm. Nội dung học tập tập
trung vào những quan điểm cơ bản của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về QP- AN; về âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”
của các thế lực thù địch. Bên cạnh đó, học sinh còn được trang bị những kỹ năng
quân sự cần thiết và rèn luyện tư thế, tác phong, làm quen với nếp sống kỷ luật
của Quân đội. Từ đó, góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo
toàn diện của nhà trường, giúp học sinh xây dựng bản lĩnh chính trị, lòng yêu
nước, tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức cảnh giác cách mạng, nhận rõ trách nhiệm,
nghĩa vụ công dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN.


Quán triệt những vấn đề phát triển trong Nghị quyết Đại hội XI và các
nghị quyết của Đảng, Nhà trường chú trọng bổ sung, điều chỉnh nội dung, thời
gian cho phù hợp. Ví dụ: điều chỉnh, bổ sung những nội dung mới về công tác
QP- AN, đưa Luật Biển Việt Nam vào giảng dạy và tăng thời gian giảng dạy về
xây dựng nền quốc phòng toàn dân – an ninh nhân dân, về bảo vệ chủ quyền
biên giới quốc gia và chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.
Trên cơ sở nội dung giáo dục QP-AN quy định, nhà trường còn chú trọng khơi
dậy truyền thống yêu nước; giáo dục ý thức độc lập tự chủ, lòng tin vào chế độ
XHCN.
3.3. Đổi mới phương pháp dạy học môn học Giáo Dục Quốc Phòng.
3.3.1 Thực trạng các phương pháp dạy học hiện nay.
Phương pháp dạy học các bài lý thuyết chủ yếu vẫn là “Thầy đọc, trò chép”,
nên không tạo được sự hứng thú, tích cực cho người học. Quá trình đào tạo của nhà
trường và trong từng bài học, môn học, người thầy phải dạy cho học sinh cách tự

học, tự nghiên cứu; người thầy giáo phải là chuyên gia giỏi hướng dẫn, tổ chức
cho học sinh tự học, tự lĩnh hội kiến thức dưới sự hướng dẫn của thầy. Điều này
đặt ra yêu cầu người dạy phải tích cực đổi mới phương pháp dạy- học để thầy
giáo không chỉ là người đi truyền tải kiến thức đến người học mà quan trọng hơn,
phải là người hướng dẫn, tổ chức, thiết kế cho học sinh biết cách tự học, tự tiếp
thu kiến thức; biến kiến thức trong sách vở thành kiến thức của bản thân mình.
Thực tế quá trình giảng bài, thầy giáo chỉ vận dụng phương pháp thuyết trình,
truyền tải thông tin một chiều với những nội dung gần như nguyên văn trong tài
liệu thì số học sinh nghe giảng, ghi chép là rất ít. Vì vậy, quá trình biên soạn bài
giảng, thiết kế trình chiếu PowerPoint không nên đưa nhiều chữ theo kiểu “thầy
đọc, trò chép”; cần chọn lọc nội dung, thiết kế nội dung dạy học thành các vấn
đề, các câu hỏi cần phải giải quyết và tăng cường đàm thoại, trao đổi giao tiếp
giữa thầy- trò, buộc người học phải tập trung nghiên cứu, phải suy nghĩ để trả
lời.


Các nội dung môn học thực hành ngoài thao trường, bãi tập cần phải được
tổ chức và duy trì chặt chẽ, nghiêm túc. Trong điều kiện thao trường bãi tập tận
dụng trong khuôn viên sân trường, gần các lớp học, với số lượng học sinh khá
đông, để buổi học có chất lượng, cần tổ chức và duy trì nghiêm túc về thời gian,
tác phong, kỷ luật cho học sinh. Quá trình tập luyện cần tuân thủ nghiêm túc quy
trình tập luyện từ giới thiệu động tác, làm mẫu, phân tích và tổ chức luyện tập,
hội thao đánh giá kết quả.
Quá trình học sinh luyện tập cần phân công theo dõi uốn nắn, kiểm tra
trực tiếp các nhóm học sinh. Thực tế những năm học vừa qua, bằng cách làm
này, chất lượng các buổi tập luyện về động tác đội ngũ đơn vị, cấp cứu ban đầu
các tai nạn thong thường và băng bó vết thương, kỹ thuật tháo lắp súng, kỹ thuật
bắn súng tiểu liên AK- súng trường CKC, các tư thế động tác vận động trên
chiến trường, lợi dụng địa hình địa vật của nhà trường đạt kết quả khá tốt.
3.3.2 Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.

Trước hết, nhà trường đẩy mạnh đổi mới dạy - học theo phương pháp tích
cực, tập trung khắc phục triệt để việc truyền thụ một chiều “thầy đọc - trò ghi”
bằng việc tăng cường gợi ý, hướng dẫn, trao đổi giữa thầy và trò, tổ chức thảo
luận và kết hợp phát huy vai trò tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Mặt khác,
trong quá trình dạy - học giáo viên tích cực khai thác, ứng dụng công nghệ thông
tin nhằm nâng cao hiệu quả các giờ dạy.
Các tài liệu cần có khi giảng dạy theo phương pháp đổi mới môn Giáo
dục quốc phòng:
- Ngân hàng câu hỏi thi theo hình thức trắc nghiệm
- Tập bài giảng trình chiếu bằng powerpoint.
- Băng ghi hình (những hình ảnh thực tế về lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của Ông cha ta, về chiến tranh Việt Nam về Quân đôi, công an.....)
- Đĩa CD hoặc DVD ghi lại các bài giảng trình chiếu, hình ảnh minh họa, tài liệu
tham khảo...
- Bài giảng điện tử, giáo trình điện tử


- Các loại mô hình, giáo cụ trực quan

.

.

- Các tài liệu khác hỗ trợ cho môn học đã được thu thập được từ internet, các
phương tiện thông tin đại chúng khác .
Thực hiện đổi mới PPDH:
- Xác định mục tiêu dạy học của môn học và từng bài học cụ thể
- Xác định nội dung cốt lõi cần giảng dạy trên lớp, nội dung nào chỉ dẫn
học sinh tự học mình và hoàn cảnh cụ thể lớp học; thực hiện biên soạn các tài
liệu dạy học thích hợp với các phương pháp đã lựa chọn.

- Xây dựng một số bài kiểm tra, đánh giá ngắn có thể dùng trong quá trình
lên lớp làm cho giờ học sinh động hơn.
- Giao yêu cầu thực hiện, nhiệm vụ cụ thể cho học sinh ở phần nội dung
yêu cầu tự học tự tập luyện ở nhà.
- Sau khi giảng dạy mỗi tiết học nên dành thời gian từ 5 – 10 phút lấy ý
kiến phản hồi của học sinh để tiếp tục điều chỉnh, cải tiến phương pháp dạy học.
Bên cạnh đó, nhà trường nên tổ chức các hoạt động ngoại khóa cho học
sinh, như: tham quan các đơn vị quân đội, bảo tàng quân sự, các địa danh, di tích
lịch sử, tổ chức kể chuyện truyền thống, giao lưu với các đơn vị khác; tham gia
các hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, hiến máu nhân đạo; hoạt động văn hóa - văn
nghệ, thể dục – thể thao, v.v. Để hình thành tác phong quân sự cho học sinh,
trong thời gian học tập môn giáo dục QP- AN, nhà trường chú trọng quản lý, rèn
luyện học sinh theo nếp sống quân sự, duy trì nghiêm điều lệnh, điều lệ và các
chế độ trong ngày, trong tuần.
3.3.3. Đổi mới PPDH là một yêu cầu khách quan
Đổi mới PPDH là một yêu cầu khách quan của bộ môn. Đổi mới PPDH
không phải là gạt bỏ, thay thế PPDH hiện có mà vận dụng một cách sáng tạo các
phương pháp hiện có để đạt mục tiêu của môn học. Riêng môn GDQP - AN
không chỉ đổi mới về phương pháp mà còn phải đổi mới về cách sắp xếp nội


dung một tiết học, đổi mới về tổ chức lên lớp... nghĩa là phải đổi mới toàn diện ở
mọi hoạt động trên lớp.
3.3.3.1. Đổi mới quan điểm dạy học, lấy học sinh làm trung tâm trong quá trình
dạy học:
- Hướng dẫn học sinh tham khảo, đọc tài liệu phân tích kỹ thuật động tác,
luyện tập ở nhà.
- Sử dụng câu hỏi, nêu tình huống có vấn đề để học sinh tổ chức thảo luận, tổ
chức khám phá, tổ chức luyện tập trước.
- Cho học sinh thường xuyên tham gia kiểm tra, tự kiểm tra, tự đánh giá.

- Khuyến khích các em tự do sáng tạo trong tư duy.
3.3.3.2. Đổi mới nội dung, chương trình:
- Khung chương trình đã được Bộ GD-ĐT quy định cụ thể, giáo viên nên tăng
cường thêm hoặc hàng năm tổ chức thêm các cuộc thi về hội thao giáo dục quốc
phòng – an ninh.
3.3.3.3. Đổi mới cách đánh giá, hình thức thi:
- Giáo viên kiểm tra đánh giá nên lồng ghép đánh giá cả ý thức thái độ trong
quá trình học tập của học sinh
- Tiến hành nhiều hình thức kiểm tra, thi: Tự luận, Trắc nghiệm, vấn đáp, sử
dụng đề mở...Khi kiểm tra thực hành nên kiểm tra cả thành tích lẫn kỹ thuât thực
hiện động tác.
- Có thang điểm (ở nội dung thực hành) phù hợp cho từng đối tượng, trình độ,
sức khỏe học sinh.
3.3.3.4. Thay đổi PPDH :
- Đẩy mạnh đổi mới dạy - học theo phương pháp tích cực.
- Tích cực khai thác, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong các giờ dạy.
- Khi giáo viên sử dụng nhóm phương pháp trực quan (làm mẫu, cho xem
tranh ảnh, biểu đồ, phim....)
- Chú ý đến vị trí làm mẫu, chọn hướng làm mẫu để học sinh có thể nhìn
rõ, nhìn thấy biên độ, góc độ động tác.


- Làm mẫu phải chính xác, tuân thủ nguyên tắc làm nhanh, làm chậm có phân
tích và làm tổng hợp.
- Tăng cường sử dụng tranh ảnh, biểu đồ... giúp cho học sinh nắm được kỹ
thuật một cách nhanh hơn mà không tốn thời gian và có thể tự so sánh giữa động
tác của mình với tranh ảnh kỹ thuật.
3.3.3.5 Sắp xếp nội dung một cách hợp lý :
- Kết hợp ôn tập, học mới, tập luyện, kiểm tra không nhất thiết phải thành một
mục riêng.

- Luân chuyển giữa các nội dung một cách hợp lý.
3.3.3.6 Áp dụng hình thức lên lớp một cách linh hoạt :
- Giờ lý thuyết áp dụng các phương pháp dạy học tích cực
- Giờ thực hành áp dụng các phương pháp, các hình thức lên lớp như: dòng
chảy, phân nhóm, phân nhóm xoay vòng. Tuỳ theo từng bài mà giáo viên áp
dụng phương pháp, hình thức cho linh hoạt.
3.4. Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập
Do đặc thù về điều kiện địa lý và khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của một
số nhà trường, thao trường, bãi tập, trang bị khí tài để tổ chức tập luyện cho học
sinh còn có mặt chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu huấn luyện môn học. Cần có
khu vực riêng có đủ điều kiện để tổ chức huấn luyện các nội dung về kỹ thuật,
chiến thuật, điều lệnh, bắn súng cho học sinh; tránh gây ảnh hưởng đến việc giảng
dạy của các lớp học khác.
Với số lượng thường từ 40 – 45 học sinh một lớp học, khi tổ chức huấn
luyện nội dung thực hành thao tác, sử dụng, tháo lắp, ngắm bắn tiểu liên AK, cần
có đủ số lượng (nhất là tiểu liên AK loại tháo lắp được) để tăng số lần được thực
hành luyện tập, tháo lắp, ngắm bắn của học sinh trong buổi học. Cần có kế hoạch
bổ sung, sửa chữa nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập.
4. Phân tích hiệu quả giáo dục của đề tài:
4.1. Trước thực nghiệm sư phạm:


Để đảm bảo tính khách quan và sự tin cậy, tôi tiến hành so sánh kết quả
học tập môn GDQP-An năm học 2016 - 2017 của hai nhóm thực nghiệm, nhóm
đối chứng. Kết quả tính toán được trình bày trên
LOẠI
Giỏi
Khá
TB
Y-K


NHÓM THỰC NGHIỆM(11A1)
TRƯỚC TN
Số lượng
%
3
16
21
2

7
38
50
5

NHÓM ĐỐI CHỨNG(11A2)
TRƯỚC TN
Số lượng
%
4
18
20
2

9
41
45
5

Qua bảng số liệu trên ta thấy các giá trị về kết quả môn học giáo dục

quốc phòng của hai nhóm đối chứng và thực nghiệm là tương đương nhau.
4.2. Sau thực nghiệm sư phạm:
Sau quá trình thực nghiệm ứng dụng các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng môn học giáo dục quốc phòng – an ninh vào nhóm thực nghiệm 11A1 với
42 học sinh. Nhóm đối chứng 11A2 với 44 học sinh không ứng dụng các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng môn học giáo dục quốc phòng – an ninh, Tôi
tiến hành kiểm tra kết quả học tập của môn giáo dục quốc phòng – an ninh năm
học 2017 - 2018 với hai nhóm đối chúng và thực nghiệm kết quả thu được như
sau.
LOẠI
Giỏi
Khá
TB
Y-K

NHÓM THỰC NGHIỆM(11A1)
TRƯỚC TN
Số lượng
%
11
20
11
0

26
47.6
26.4
0

NHÓM ĐỐI CHỨNG(11A2)

TRƯỚC TN
Số lượng
%
6
21
16
1

13.7
47.7
36.4
2.2

Qua bảng số liệu trên ta thấy sau khi ứng dụng các giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng môn học giáo dục quốc phòng – an ninh vào nhóm thực nghiệm
cho kết quả rất tốt, số học sinh yếu kém đã không còn, số học sinh khá giỏi tăng
lên rõ dệt. Từ đó cho thấy nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của môn
học giáo dục quốc phòng – an ninh mà tôi đưa ra đã phát huy hiệu quả rất tốt


5. Kết luận và kiến nghị
5.1. Kết luận
Nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của môn học giáo dục quốc
phòng – an ninh đã mang lại hiệu quả rõ rệt bởi tính ưu việt của nó được thể
hiện qua việc đổi mới phương pháp giảng dạy đã cùng một lúc đã sử dụng nhiều
kênh thông tin khác nhau giúp cho học sinh nhanh chóng nhận biết, hiểu và vận
dụng vào thực tế bài học. Như vậy nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy môn Giáo dục Quốc phòng – An Ninh theo hướng phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, đã tạo cho học sinh có năng lực tự
học, khả năng thực hành, kích thích lòng ham mê học tập và ý chí vươn lên, loại

bỏ thói quen học tập thụ động.
5. 2. Ý kiến đề xuất
5.2.1. Đối với Giáo dục và đào tạo.
- Tổ chức cho giáo viên giảng dạy Môn GDQP-AN có chứng chỉ 6 tháng đi
học văn bằng 2 về đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng – an ninh.
- Thường xuyên tổ chức các đợt tập huấn về đổi mới phương pháp giảng dạy
cũng như nội dung chương trình môn giáo dục quốc phòng.
- Có kế hoạch cấp phát các thiết bị môn học đảm bảo cho công tác dạy và
học của các nhà trường
5.2.2. Đối với nhà trường
- Quan tâm, tạo điều kiện cho giáo viên được thường xuyên được học hỏi
kinh nghiệm, giao lưu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
- Tạo điều kiện về cơ sở vật chất phòng máy để giáo viên được ứng dụng
công nghệ thông tin trong quá trình giảng dạy nhiều hơn.
Trên đây là một số nghiên cứu của cá nhân tôi về giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng môn học Giáo dục quốc phòng – An ninh cho học sinh
trường THPT Hà Văn Mao năm học 2017 - 2018. Qua đề tài tự bản thân tôi
đánh giá đã mang lại những hiệu quả thiết thực nhằm nâng cao chất lượng dạy
và học của môn học, xong không tránh khỏi những thiếu sót rất mong quí thầy


cô và đồng nghiệp đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn và có giá trị
trong dạy học nói chung và môn GDQP – AN nói riêng.
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hoá, ngày 20 tháng 05 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

NGƯỜI VIẾT

Lê Văn Long

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Một số kỹ năng cần thiết dành cho học sinh trung học phổ thông”. NXB
GD - Ths: Trần Minh Quốc và Ths: Bùi Ngọc Diệp.
2. “Đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục hiện đại”. NXB ĐHSP Hồ Chí
Minh – Lê Vinh Quốc.


3. Bộ Quốc Phòng, Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự, Từ điển bách khoa
quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản quân đội, Hà Nội, 2004.
4. Cộng hòa xã hội Việt Nam, Quốc Phòng Việt Nam (sách trắng quốc phòng
Việt Nam), NXB Thế giới, Hà Nội, 2004.
5. Học viện Quốc Phòng, Tài liệu tham khảo về phòng tránh, đánh trả.
6. Tạp chí khoa học Quân sự, Một số biện pháp phòng chống tiến công đường
không bằng vũ khí công nghệ cao, 4/2004.
7. Tạp chí Quốc Phòng toàn dân, Công nghệ quân sự thế kỷ XX và xu hướng
phát triển đầu thế kỷ XXI, 09/2000.
8. Cục nhà trường, Bộ Tổng tham mưu, Giáo trình lịch sử quân sự, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội - 1999.
9. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội – 1995
10. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội - 1995
11. Nhà trường quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, NXB
Quân đội nhân dân, Hà Nội 2004.
12. Quốc phòng toàn dân trong chiến tranh bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng Đất
nước, nhà xuất bản lao động – 2005.

MỤC LỤC

Tên mục
1. Mở đầu

Trang
1

1.1. Lý do chọn đề tài.

1

1.2. Mục đích Nghiên cứu:

2

1.3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:

3


1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

1.5. Đối tượng nghiên cứu , thời gian nghiên cứu.

3

2. Nội dung của sáng kiến

4


2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn.

4

2.1.1. Cơ sở lý luận

4

2.1.2. Cơ sở thực tiễn

5

2.1.2.1. Khó khăn.

6

2.1.2.2. Thuận lợi

6

3. Giải pháp thực hiện

7

3.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy nội dung môn học
GDQP- AN

7


3.1.1 Về thực trạng đội ngũ giáo viên giáo dục quốc phòng- an ninh.

8

3.1.2 Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giảng dạy

9

môn Giáo Dục Quốc Phòng An ninh.

10

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chuẩn bị bài giảng

11

3.2.1 Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng bài giảng.

11

3.2.2 Đổi mới nội dung bài giảng.

12

3.3. Đổi mới phương pháp dạy học môn học Giáo Dục Quốc Phòng.

13

3.3.1 Thực trạng các phương pháp dạy học hiện nay.
3.3.2 Tích cực đổi mới phương pháp dạy học.


14

3.3.3. Đổi mới PPDH là một yêu cầu khách quan

16

3.4. Cải thiện điều kiện cơ sở vật chất, thao trường, bãi tập

17

4. Phân tích hiệu quả giáo dục của đề tài

19

5. Kết luận và kiến nghị



×