Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tạo hứng thú học tập và và rèn luyện kỹ năng tư duy cho học sinh qua sử dụng công nghệ thông tin, hình ảnh trực quan trong

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (802.5 KB, 19 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ngày nay trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển như vũ bão, xu thế
quốc tế hóa đang là xu thế chủ đạo trên thế giới, việc giáo dục Lịch sử càng
được quan tâm đẩy mạnh hơn nữa nhằm giữ vững bản sắc dân tộc, không hòa
tan vào thế giới..
Tuy nhiên có một thực trạng đáng buồn hiện nay là chất lượng giáo dục
nói chung, bộ môn lịch sử nói riêng ngày càng bị giảm sút. Trong giai đoạn xã
hội phát triển nhanh theo hướng hiện đại hóa, cơ chế thị trường đã làm xuất hiện
lối sống thực dụng, một bộ phận không nhỏ học sinh ở trường phổ thông không
còn coi trọng kiến thức lịch sử, dẫn đến việc học đối phó, học trước quên sau, có
thái độ hời hợt khi học lịch sử. Bộ môn Lịch sử mất dần vị trí trong nhà trường,
trở thành môn học phụ. Vì vậy việc tạo hứng thú học tập môn Lịch sử cho học
sinh là một trong những biện pháp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ
môn Lịch sử một cách có hiệu quả.
Trong quá trình dạy Lịch sử giáo viên là người đóng vai trò chủ đạo bởi
giáo viên là người chủ động về nội dung kiến thức giảng dạy và lựa chọn
phương pháp truyền đạt, tổ chức hoạt động của học sinh trong giờ học, điều
khiển giờ học một cách linh hoạt, sinh động. Muốn quá trình dạy học đạt kết quả
cao giáo viên cần nắm được đặc điểm tâm lý của học sinh diễn ra trong quá trình
nhận thức để có những tác động phù hợp về mặt sư phạm nhằm kích thích hoạt
động tư duy độc lập của học sinh, tạo ra hứng thú học tập, say mê môn học, kích
thích hoạt động học tập độc lập, sáng tạo của học sinh.
Trong những năm gần đây, dạy và học Lịch sử đang thu hút sự quan tâm
chú ý của toàn xã hội, đặc biệt khi Bộ giáo dục và Đào tạo có chủ trương tích
hợp môn Lịch sử với môn Giáo dục công dân và Giáo dục quốc phòng- an ninh
thành một môn học Công dân với Tổ Quốc. Dư luận xã hội phản đối và Quốc
hội đã phải lên tiếng về vai trò của việc dạy và học môn Lịch sử trong tình hình
hiện nay. Trước sự quan tâm ấy, chúng tôi- những giáo viên dạy bộ môn Lịch sử
luôn luôn trăn trở về việc dạy của mình : Làm sao để nâng cao chất lượng dạyhọc lịch sử, làm sao để học sinh yêu thích môn Lịch sử và học môn Lịch sử ngày
càng có hiệu quả hơn.


Phương pháp dạy học theo mô hình, sơ đồ, sử dụng công nghệ thông tin
thuộc nhóm phương pháp dạy học trực quan. Sử dụng phương pháp này phối hợp
với phương pháp thuyết trình hoặc vấn đáp sẽ giúp học sinh hiểu sâu sắc và vận
dụng tri thức một cách có hiệu quả. [1]
Sử dụng hình ảnh trực quan sinh động là hướng đổi mới phương pháp
giảng dạy và học tập phù hợp tính đặc thù đối với môn học và phù hợp đối
tượng học sinh hiện nay.[1]
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài nhằm tạo ra một cái nhìn mới về sự thay đổi
phương pháp giảng dạy, học tập của giáo viên và học sinh, đồng thời tạo ra sự
hứng thú, tích cực trong quá trình học tập bộ môn lịch sử, cũng như đem lại
những hiệu quả tốt cho công tác giảng dạy của giáo viên trong thời kì mới.
1


Nghiên cứu đề tài còn nhằm thúc đẩy sự phát triển tư duy, trí tuệ của học
sinh trong quá trình tự vận động để tiếp cận, tìm tòi và khám phá tri thức một
cách chủ động, tích cực nhất.
Thông qua việc tiến hành đề tài này ở một số lớp 11 tại trường THPT
Vĩnh Lộc, để thấy được việc sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực
trong các bài giảng đem lại hiệu quả như thế nào trong quá trình dạy và học.
Vì vậy, tôi xin trình bày một số vấn đề về: “Tạo hứng thú học tập và rèn
luyện kĩ năng tư duy cho học sinh qua sử dụng công nghệ thông tin, hình
ảnh trực quan dạy học trong bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới 1918- 1939.( Lịch sử 11)”.
Với việc nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo
viên có một giờ dạy học có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác,
chủ động, ngày càng yêu thích môn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện được bài dạy theo thiết kế của mình, tôi chọn các lớp 11, tại

Trường Trung học phổ thông Vĩnh Lộc, năm học 2017- 2018 mà tôi đang trực
tiếp giảng dạy để thực nghiệm, đó là lớp 11A2 và 11A3.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp sưu tầm tài liệu, tranh ảnh, sơ đồ phục vụ bài giảng.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu, điều tra, khảo sát thực tế.
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp sử dụng phương tiện trực quan.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận.
“Lịch sử như một câu chuyện dài với nhiều sự kiện, nhiều chương, hồi
được liên kết logic với nhau theo trật tự thời gian và luôn có mối quan hệ nhân
quả. Lịch sử đem lại cho chúng ta những suy ngẫm rất quý giá về cuộc sống.
Nếu hiểu được điều ấy và biết học Sử một cách có phương pháp, các em học
sinh sẽ không còn thấy đây là một môn học khô khan nữa”(TS. Nguyễn Quang
Liệu - giảng viên Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXH&NV). Vì vậy, việc học tập
lịch sử cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường, nhất là ở nhà trường
THPT nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học,
phẩm chất đạo đức, chính trị cho học sinh. Dạy Lịch sử tốt sẽ giúp các em say
mê với dân tộc, say mê và tự hào về những giá trị truyền thống của dân tộc.
Để có thể giảng dạy và học tập bộ môn Lịch sử trong trường phổ thông có
hiệu quả, thông qua việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực, thì cả giáo viên
và học sinh cần phải hiểu phương pháp dạy học tích cực là phương pháp như thế
nào, thực hiện ra sao, kết quả thu được là gì?
Theo luật Giáo dục năm 2005 nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới
phương pháp dạy và học theo hướng tích cực. Trong việc đổi mới phương pháp
dạy và học theo hướng tích cực thì phương pháp học của học sinh là mối quan
tâm hàng đầu.
Phương pháp dạy và học tích cực là đề cập đến các hoạt động dạy và học
nhằm tích cực hoá hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học.

2


Trong đó, các hoạt động học tập được tổ chức, được định hướng bởi giáo viên,
người học không thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình
tìm kiếm, khám phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn
đề trong thực tiễn, qua đó lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng
tạo [1].
Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở
hợp tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy và học tích cực không phải
là một phương pháp dạy học cụ thể, mà là một khái niệm, bao gồm nhiều
phương pháp, hình thức, kĩ thuật cụ thể khác nhau nhằm tích cực hoá, tăng
cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa
khả năng học tập, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề.
Phương pháp dạy và học tích cực đem lại cho người học hứng thú, niềm
vui trong học tập. Việc học đối với học sinh khi đã trở thành niềm hạnh phúc sẽ
giúp các em tự khẳng định mình và nuôi dưỡng lòng khát khao sáng tạo. Như
vậy, dạy và học tích cực nhấn mạnh đến tính tích cực hoạt động của người học
và tính nhân văn của giáo dục [1].
Từ thực tế trên cho thấy, việc sử dụng phương pháp dạy và học tích cực
là rất cần thiết. Bởi thông qua mỗi bài học, học sinh có thể tự học, tự khai thác
kiến thức theo sự hướng dẫn của giáo viên một cách chủ động nhất.
Trong mỗi bài giảng, cần sử dụng các phương pháp dạy và học tích cực
khác nhau. Tuy nhiên, phương pháp dạy học và giải quyết vấn đề, dạy học theo
nhóm là được sử dụng hầu hết các bài. Và tôi đã áp dụng hai phương pháp dạy
học tích cực này để dạy bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới 1918- 1939.( Lịch sử 11), để giúp học sinh có thể tự học, tự khai
thác kiến thức về lịch sử một cách hiệu quả.
2.2. Thực trạng của vấn đề.
Trên thực tế, khi tôi dạy bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai cuộc

chiến tranh thế giới 1918- 1939 ở các lớp 11A7 và 11A9, vẫn còn áp dụng
phương pháp truyền thống là lấy thầy làm trung tâm, tức là dạy học theo hình
thức truyền thụ một chiều, giáo viên là chủ thể của hoạt động, người truyền đạt
“mang” kiến thức, “đổ” kiến thức cho người học, hình thức dạy chủ yếu là đọcchép, người học lĩnh hội kiến thức một cách thụ động.
Qua quá trình giảng dạy của bản thân và dự giờ đồng nghiệp ở trường phổ
thông nơi tôi công tác, tôi nhận thấy các giáo viên đã ý thức được việc nâng cao
hứng thú học tập lịch sử cho học sinh. Tuy nhiên ở vấn đề này giáo viên cũng
còn gặp một số khó khăn: tranh ảnh, lược đồ trong thư viện chưa đầy đủ, phòng
máy chiếu ít,...
Về phía học sinh: Đa số học sinh rất ngại học lịch sử vì quá dài, khó nhớ
các sự kiện và nhàm chán khô khan. Mặt khác trong sự phát triển của xã hội, đa
số học sinh coi lịch sử là môn học phụ, các em còn để dành thời gian cho các
môn học chính, các môn dự thi vào đại học, cao đẳng. Học sinh có học cũng
mang tính chất đối phó với các bài kiểm tra thường xuyên và kiểm tra định kỳ
nên chất lượng không cao.
Việc tạo hứng thú cho học sinh giáo viên phải kết hợp nhiều phương pháp
trong giảng dạy như: sử dụng tranh ảnh, lược đồ, công nghệ thông tin, kiến thức
3


về văn học, địa lý,... đòi hỏi giáo viên phải có thời gian chuẩn bị kỹ càng giáo án
trước khi lên lớp.
Từ thực trạng trên, bản thân tôi là một giáo viên dạy Lịch sử đã luôn cố
gắng tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm để đổi mới phương pháp dạy học nâng
cao chất lượng giảng dạy. Tôi nhận thấy, việc nâng cao hứng thú học tập môn
lịch sử cho học sinh là rất cần thiết, điều này có tác dụng không nhỏ đến quá
trình tiếp thu tri thức, giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cũng như phát triển
tư duy cho học sinh.
Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng
sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư

duy, động não, không có bài tập thực hành,... Ngoài ra, do quan niệm sai lệch về
vị trí, chức năng của môn Lịch sử trong đời sống xã hội. Một số học sinh và phụ
huynh có thái độ xem thường bộ môn lịch sử, coi đó là" môn phụ", môn học
thuộc lòng, không cần đầu tư công sức nhiều dẫn đến hậu quả học sinh không
nắm được những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là
hiện tượng khá phổ biến trong thực tế ở nhiều trường. Đây là một trong những
nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học.
Trong điều kiện hiện nay, việc giảng dạy và học tập bộ môn lịch sử vẫn
còn nhiều bất cập như: Chương trình sách giáo khoa khá nặng nề, quá tải về kết
cấu các nội dung, về thời lượng của chương trình. Chương trình còn nặng về lí
thuyết, trong mỗi bài dạy lại có quá nhiều sự kiện làm cho học sinh ít hứng thú
học Lịch sử vì khó nhớ, khó thuộc. tạo hứng thú học tập cho học sinh là sử dụng
công nghệ thông tin kết hợp với các hình ảnh trực quan sinh động. Trên cơ sở
đó, bản thân tôi đã lựa chọn đề tài nhỏ về
Qua nhiều năm giảng dạy Lịch sử, bản thân tôi luôn trăn trở để tìm ra
những phương pháp giúp học sinh hứng thú học tập bộ môn và đạt kết quả cao
hơn. Một trong những phương pháp có hiệu quả tôi đã thực hiện đổi mới phương
pháp dạy học: “Tạo hứng thú học tập và rèn luyện kĩ năng tư duy cho học
sinh qua sử dụngcông nghệ thông tin, hình ảnh trực quan trong bài 11: Tình
hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1918- 1939 ( Lịch sử
lớp 11).
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện.
2.3.1. Một số kinh nghiệm chung khi “sử dụng phương pháp dạy học tích cực
để hướng dẫn học sinh tự học, tự khai thác kiến thức và tạo hứng thú học
tập, rèn luyện kỹ năng tư duy cho học sinh trong bài 11: Tình hình các nước
tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1918- 1939 ( Lịch sử lớp 11).
Trong số các phương pháp dạy và học tích cực như phương pháp dạy học
đặt và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm, dạy học theo hợp đồng, dạy học
theo góc, dạy học theo dự án, dạy học vi mô, thì đối với bài 11: Tình hình các
nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1918- 1939 tôi lựa chọn hai

phương pháp chủ yếu: Dạy học đặt và giải quyết vấn đề, dạy học theo nhóm là
phù hợp nhất và dễ dàng giúp học sinh có kĩ năng tự học, tự khai thác kiến thức
qua bài học một cách đầy đủ và chính xác nhất.
* Đối với phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề cần tiến hành
theo các bước sau:
4


Bước 1: Chọn nội dung để đặt vấn đề.
Việc lựa chọn nội dung trong loại phương pháp đặt vấn đề là hết sức quan
trọng, bởi vì:
Nội dung được lựa chọn để đặt vấn đề phải bao hàm hai mặt của một vấn
đề.
Nội dung được lựa chọn thường phải là những phần trọng tâm của bài
học mang tính chất nhận thức cao về bản chất của vấn đề cần nhận định.
Bước 2: Đặt câu hỏi có vấn đề.
Câu hỏi trong phương pháp đặt vấn đề đưa ra phải hàm chứa các nhận
định mang chiều hướng trái ngược nhau, từ đó hình thành nên hai trường phái có
quan điểm và nhận định khác nhau về cùng một vấn đề được đặt ra trước đó [4].
Bước 3: Kích thích và điều khiển học sinh giải quyết vấn đề.
Khi câu hỏi được đặt ra, giáo viên phải là người đóng vai trò khởi sướng
để kích thích tư duy của học sinh và khuyến khích học sinh nhận định vấn đề và
bảo vệ quan điểm của vấn đề mà mình vừa nhận định.
Lúc này lớp học sẽ tự động chia ra thành hai nhóm đối lập nhau về quan
điểm nhìn nhận vấn đề, giáo viên phải đóng vai trò là trọng tài ở giữa để điều
khiển sự tranh luận của các bên thông qua những ý kiến lập luận nhằm chứng
minh và bảo vệ cho quan điểm của nhóm mình [4].
Bước 4: Kết luận vấn đề.
Từ kết quả kiểm chứng các giả thuyết đã nêu, học sinh trao đổi để phân
tích, đánh giá các kết quả thu được, khẳng định hay bác bỏ giả thuyết đã nêu,

tìm được giả thuyết đúng trong các giả thuyết để rút ra kết luận, những vấn đề
mới về kiến thức, kĩ năng, thái độ.
* Đối với phương pháp dạy học theo nhóm cần tiến hành theo các bước
sau:
Bước 1: Chuẩn bị nội dung thảo luận.
- Trước hết giáo viên cần chọn vấn đề thích hợp cho học sinh thảo luận.
Những vấn đề thảo luận trong bài thường là những vấn đề không khó về mặt nội
dung, nhưng được nhiều người quan tâm, có nhiều cách giải quyết khác nhau,
đặc biệt phải gần gũi với học sinh. Nhất thiết không nên chọn những vấn đề mà
cách giải quyết đã rõ. Việc thảo luận trong trường hợp này, sẽ biến thành một
cuộc tham gia minh họa, làm rõ thêm vấn đề.
Vấn đề thứ hai cần lưu ý khi chọn nội dung thảo luận là phải nghiên cứu
xem học sinh đã biết gì, cảm thấy gì, sẽ suy nghĩ gì về chủ đề sẽ nêu ra.
Khi đã chọn được vấn đề thảo luận đúng yêu cầu, giáo viên cần báo cho
học sinh chuẩn bị, ý kiến phát biểu của học sinh phải được ghi ra giấy. Từ đó,
học sinh sẽ ý thức được yêu cầu, nội dung của đề tài, các nguồn tài liệu chính,
phương pháp tiến hành, kế hoạch thực hiện và nhiệm vụ của tập thể cũng như
của từng cá nhân. Học sinh cần nghiên cứu sách báo và tài liệu có liên quan, nếu
cần thì phải tiến hành quan sát, tham quan các đối tượng cần thiết, phải thí
nghiệm, phải đàm thoại với những người có thể cung cấp những thông tin có
ích, phải thu thập hiện vật có thể minh họa khi thảo luận.
Trước khi tiến hành thảo luận, giáo viên phải kiểm tra tới từng chi tiết:
Học sinh chuẩn bị nội dung như thế nào? Tâm, thế đã sẵn sàng tham gia thảo
5


luận hay chưa? Các điều kiện khác đã được chuẩn bị ra sao? Ví dụ: Việc kê bàn
ghế, ánh sáng... [1].
Bước 2: Tiến hành thảo luận.
- Khi tiến hành thảo luận, giáo viên nên thông báo về chủ đề, nội dung cần

thảo luận, quy trình và thủ tục thảo luận.
- Giáo viên phân công nhóm học tập và bố trí vị trí hoạt động của nhóm
phù hợp theo thiết kế: Nhóm trưởng, thư kí và các thành viên. Tùy theo nhiệm
vụ có thể có các cách tổ chức khác nhau: Cặp hai học sinh, nhóm 3 học sinh
hoặc nhóm đông hơn 6- 10 học sinh.
Trong hoạt động nhóm, học sinh ngồi đối diện nhau để tạo ra sự tương
tác trong quá trình học tập, tránh trường hợp chia 2 dãy bàn một nhóm, học sinh
bàn sau chỉ nhìn vào lưng của học sinh bàn trước.
Nên chú ý tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều có thể tham gia vai trò là
nhóm trưởng, thư kí qua các hoạt động, để tạo cơ hội phát triển kĩ năng học tập
và kĩ năng lãnh đạo, điều khiển cho tất cả học sinh.
- Giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm học sinh: có thể giao cho mỗi nhóm học
sinh một nhiệm vụ riêng biệt trong gói nhiệm vụ chung hoặc tất cả các nhóm
cùng thực hiện một nhiệm vụ. Giáo viên cần nêu rõ thời gian thực hiện và yêu
cầu rõ sản phẩm của mỗi nhóm.
- Hướng dẫn hoạt động của nhóm học sinh: Nhóm trưởng điều khiển hoạt
động nhóm. Học sinh hoạt động cá nhân, theo cặp, chia sẻ kinh nghiệm và thảo
luận, thống nhất kết quả chung của nhóm, thư kí ghi kết quả của nhóm, phân
công đại diện trình bày kết quả trước lớp [4].
- Trong quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần phải chú ý:
+ Làm nhiệm vụ quan sát, theo dõi mà không tham gia ý kiến thảo luận,
không cắt ngang lời học sinh, không phản ứng nếu câu trả lời, tranh luận không
đúng với ý mình. Tuy nhiên, để nhằm tăng thêm hứng thú của cuộc thảo luận,
giáo viên cũng có thể đưa ra các câu hỏi hoặc nêu ra cách thảo luận để tạo không
khí sôi nổi cho buổi thảo luận (nếu cần).
+ Nên tiếp xúc với học sinh bằng ánh mắt, nụ cười và có cử chỉ thân mật
với những học sinh đang trả lời hoặc với học sinh nêu câu hỏi để khuyến khích
học sinh. Nhạy cảm đối với thái độ của lớp học, tạo sự thích nghi dễ dàng với
buổi thảo luận đó.
+ Khuyến khích sự tham gia của mỗi cá nhân học sinh, biểu thị sự hài

lòng hoặc thích thú với những câu trả lời hoặc bình luận chính xác, tập trung vào
những đóng góp tích cực của học sinh.
+ Một số học sinh cố tình đưa ra những thông tin ngoài lề hoặc những sự
kiện không thích hợp, hoặc hỏi những câu hỏi ngờ nghệch, giả vờ thú vị. Giáo
viên nên nhanh chóng làm cho học sinh nhận thức được sự không phù hợp của
những hành động đó mà không làm tổn thương đến cảm xúc của học sinh.
+ Khi thảo luận, giáo viên phải chú ý nghe những điều học sinh nói để họ
hiểu họ định nói gì. Nếu không sẽ rất khó nhớ để tổng kết các ý kiến thảo luận
của học sinh. Nên ghi chép lại những điểm cơ bản của mỗi ý kiến để phát hiện
những mâu thuẫn trong các ý kiến phát biểu, kịp thời nêu vấn đề cho học sinh
giải quyết, tránh được tình trạng thảo luận miên man ngoài lề.
6


- Tổ chức học sinh báo cáo kết quả và đánh giá:
Giáo viên yêu cầu mỗi nhóm sẽ hoàn thiện kết quả của nhóm và cử đại diện
nhóm báo cáo kết quả chia sẻ kinh nghiệm với nhóm khác, yêu cầu học sinh
khác lắng nghe, nhận xét, bổ sung. Giáo viên hướng dẫn học sinh lắng nghe và
phản hồi tích cực.
- Tổng kết thảo luận:
Sau khi học sinh nhận xét, phản hồi, giáo viên chốt lại kiến thức cơ bản,
tránh tình trạng giáo viên giảng lại toàn bộ các vấn đề học sinh đã trình bày làm
mất thời gian.
Như vậy, việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm có ý nghĩa rất to lớn.
Muốn sử dụng có hiệu quả thì cần phải thực hiện đầy đủ các bước trên. Bởi tất
cả các thao thao tác đó luôn luôn gắn bó với nhau, là những yếu tố quyết định
cho sự thành công của buổi thảo luận.
2.3.2. Tổ chức thực hiện:
Trong quá trình giảng dạy, để học sinh không bị nhàm chán, gò bó khi tiếp
thu kiến thức, thì trong mỗi bài giảng giáo viên cần tìm ra các phương pháp dạy

học tích cực, phù hợp. Ở mỗi bài lại phải lựa chọn từng phần, từng mục nên sử
dụng phương pháp nào đem lại hiệu quả cao nhất.
Với quan điểm, dạy học không phải là truyền thụ kiến thức một chiều,
thiên về lí thuyết, xa rời thực tiễn, mà dạy học phải thực sự quan tâm đến việc
hình thành thói quen tự học, tự khám phá kiến thức, phát triển tư duy, sáng tạo,
năng lực giải quyết vấn đề cho người học.
Trong mỗi bài giảng, giáo viên không chỉ là người mang kiến thức đến
cho học sinh mà cần dạy cho học sinh cách tìm kiếm, chiếm lĩnh kiến thức để
đảm bảo cho việc tự học suốt đời.
Để minh chứng cho những điều nói trên, tôi xin đưa ra một số kinh
nghiệm về việc Tạo hứng thú học tập và rèn luyện kĩ năng tư duy cho học
sinh qua sử dụngcông nghệ thông tin, hình ảnh trực quan trong bài 11: Tình
hình các nước tư bản giữa hai cuộc chiến tranh thế giới 1918- 1939 tại khối
lớp 11, năm học 2017- 2018.
Trước hết, giáo viên phải xác định được mục tiêu bài học, chuẩn bị của
giáo viên và học sinh, các hình thức tổ chức học tập.[2], [5], [3],[6], [7].
CHƯƠNG II: CÁC NƯỚC TƯ BẢN CHỦ NGHĨA GIỮA HAI CUỘC
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI (1918-1939)
Bài 11: TÌNH HÌNH CÁC NƯỚC TƯ BẢN GIỮAHAI CUỘC CHIẾN
TRANH THẾ GIỚI ( 1918-1939)
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
- Nắm được quá trình phát triển với nhiều biến động to lớn dẫn tới Chiến
tranh thế giới thứ II của các nước tư bản.
- Hiểu được sự thiết lập một trật tự thế giới mới theo hệ thống hòa ước
Véc-xai- Oa-sinh-tơn chứa đựng đầy mâu thuẫn và không vững chắc.
- Thấy rõ nguy cơ một cuộc chiến thế giới mới.
- Phong trào Mặt trận nhân dân chống phát xít và nguy cơ chiến tranh thu
được kết quả khác nhau ở các nước tư bản.
7



2. Thái độ
- Nhìn nhận khách quan về quá trình phát triển và bản chất của chủ nghĩa
tư bản.
- Ủng hộ cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ và giải phóng của nhân dân thế
giới.
3. Kỹ năng
- Biết quan sát, khai thác bản đồ, tranh ảnh để phân tích và rút ra kết luận
- Biết tổng hợp, khái quát các sự kiện để rút ra con đường và nguyên
nhân dẫn đến cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai.
4. Định hướng phát triển năng lực
* Năng lực chung: Năng lực tự học, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực
giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy.
* Năng lực chuyên biệt: Tái hiện kiến thức, xác định mối quan hệ giữa các
sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhận xét, đánh giá.
II. THIẾT BỊ VÀ TÀI LIỆU DẠY- HỌC
1. Chuẩn bị của giáo viên:
- Các hình trong sách giáo khoa.
- Tranh ảnh, video về sự biến đổi bản đồ chính trị châu Âu 1914 - 1923 ...
- Lược đồ sự biến đổi bản đồ chính trị châu Âu 1914 – 1923.
- Tài liệu tham khảo.
2. Chuẩn bị của học sinh:
Sưu tầm các hình ảnh, thông tin về sự biến đổi bản đồ chính trị châu Âu
1914 – 1923, Hội nghị Véc-xai – Oa-sinh- tơn.
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG DẠY- HỌC.
A. Hoạt động tạo tình huống/ đặt vấn đề
- Mục tiêu
Học sinh nhận biết hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất thông qua hội
nghị Vecxai(để kiểm tra lại kiến thức cũ) và nguyên nhân dẫn đến chiến tranh

thế giới thứ hai.
- Phương thức
Giáo viên sử dụng tranh ảnh để giúp học sinh nhớ lại kiến thức cũ đồng
thời sử dụng câu hỏi gợi mở để học sinh nắm được nội dung của bài mới cần tìm
hiểu.
GV: Với hệ thống Véc-xai – Oa-sinh- tơn trật tự thế gới mới được thiết
lập như thế nào?
Nguyên nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế? Tại sao
nói: Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929- 1933 lại dẫn tới nguy cơ của một cuộc
chiến tranh mới?
Học sinh tìm hiểu SGK, tranh ảnh.
- Gợi ý sản phẩm
Từ 1918 - 1939, trong sự phát triển chung của các cường quốc, các nước
tư bản Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản đã trải qua một quá trình phát triển
với nhiều biến động to lớn dẫn tới chiến tranh thế giới thứ hai.Vậy quá trình phát
triển đó của các nước tư bản diễn ra như thế nào? Con đường (nguyên nhân) nào
8


đã đưa tới cuộc chiến tranh thế giới thứ hai? Chúng ta sẽ tìm hiểu ở bài học hôm
nay.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
HOẠT ĐỘNG 1: Tìm hiểu về thiết lập trật tự thế giới mới theo hệ thống
Vécxai- Oasinhtơn.( 15 phút)
- Mục tiêu: Học sinh trình bày hoàn cảnh, mục đích, nội dung, kết quả
của Hội nghị Véc-xai – Oa-sinh- tơn.
- Phương pháp/Kĩ thuật: Đặt và giải quyết vấn đề..
- Hình thức tổ chức hoạt động: Cá nhân/ Cả lớp.
- Phương tiện dạy học: Hình ảnh, các hình trong sách giáo khoa: hình 29
[7], [8].

Mục tiêu và phương thức hoạt động
- Mục tiêu
GV gợi cho HS nhớ lại kiến thức đã
học về cuộc chiến tranh thế giới thứ
nhất (1914 - 1918) đặc biệt là kết cục
của chiến tranh đồng thời thấy được
mâu thuẫn mới nayrsinh trong hòa ước
Vec-xai -Oa-sinh –tơn.
- Phương thức
* GV trình chiếu cho học sinh quan sát
các hình ảnh và giao nhiệm vụ: Yêu cầu
HS nhận xét từng hình ảnh.

Gợi ý sản phẩm
1. Thiết lập trật tự thế giới mới theo
hệ thống Vécxai- Oasinhtơn.

HS thảo luận
Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: Hs
đọc SGK, quan sát hình ảnh, suy nghĩ
câu hỏi.
- Báo cáo sản phẩm: Hs trả lời câu hỏi
- Gv nhận xét, bổ sung

a. Hoàn cảnh:
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc,
các nước tư bản đã tổ chức Hội nghị
hòa bình ở Vécxai( 1919- 1920) và
Oa-sinh-tơn( 1921- 1922) để ký kết
các hòa ước và hiệp ước phân chia

- HS: số lượng người tham dự hội nghị quyền lợi.
đông( gồm đại diện cả nước thắng trận
và bại trận), lộn xộn. Trên khuôn mặt
của mỗi người thể hiện tâm trạng khác
nhau của sự háo hức, chờ đợi vào các
quyết định của Hội nghị liên quan đến
nước mình.
- GV cung cấp thêm: Ngày 18/01/1919
các nước thắng trận tổ chức Hội nghị
hòa bình tại Vecxai với sự tham gia của
9


27 nước( kể cả nước thắng trận và nước
bại trận). Mỹ, Anh, Pháp, Italia, Nhật
Bản là 5 nước chủ trì hội nghị song
quyền quyết định thực sự nằm trong tay
của 3 nước Mỹ, Anh, Pháp.

- Tại sao sau hội nghị ở Vécxai( 19191920), các nước lại phải tổ chức thêm
một hội nghị nữa ở Oa-sinhtơn( 1921- 1922)? Nhận xét sự khác
nhau giữa hai hội nghị?
- HS thảo luận, phát biểu ý kiến.
- GV kết luận: Hệ thống Vecxai được
hình thành song tham vọng lãnh đạo thế
giới của Mỹ vẫn chưa được thực hiện,
mâu thuẫn Anh- Mỹ, Mỹ- Nhật trở nên
gay gắt. Năm 1921 Mỹ ký hòa ước riêng
với Đức đồng thời đưa" sáng kiến"
triệu tập hội nghị quốc tế tại Oa-sinhtơn.

Ngày 21/1/ 1921 Hội nghị Oa-sinh-tơn
khai mạc với sự tham gia của 9 nước:
Mỹ, Anh, Pháp, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan,
Trung Quốc, Đức. Lãnh đạo hội nghị là
4 nước Mỹ, Anh, Pháp, Nhật song trên
thực tế Mỹ mới có quyền quyết định tại
hội nghị.
- Sau chiến tranh thế giới thứ nhất
các nước tư bản tổ chức Hội nghị hòa
bình ở Vécxai- Oasinhtơn nhằm mục
đích gì?
* GV cho HS quan sát hình ảnh: Hội
nghị Vécxai đưa nước Đức lên máy
chém.
- Hình ảnh trên giúp chúng ta nhận
thấy điều gì? Từ đó hãy rút ra nội
dung
của
hội
nghị
VécxaiOasinhtơn?

b. Mục đích:
Phân chia quyền lợi và lập lại trật tự
thế giới mới trên cơ sở quyền lợi của
các nước thắng trận.

10



- Hình ảnh trên cho thấy nước Đức sau
hòa ước Vecxai giống hình ảnh người
đàn ông cởi trần, bị các nước Mỹ, Anh,
Pháp lột áo, mũ, giầy,... và chuẩn bị đưa
lên máy chém.
- GV trình chiếu lược đồ:
+ Sự thay đổi bản đồ chính trị châu Âu
theo hệ thống Vécxai- Oasinhtơn.
+ Bản đồ châu Âu năm 1914 và năm
1923.

- Chỉ rõ sự thay đổi bản đồ chính trị
châu Âu theo hệ thống VécxaiOasinhtơn giữa hai năm 1914, 1923?
- HS quan sát lược đồ trình chiếu sẽ thấy
được sự thay đổi về lãnh thổ châu Âu
giữa năm 1914 với 1923: Lãnh thổ nước
Đức bị thu hẹp lại, đế quốc Áo- Hung bị
tách thành hai nước nhỏ là Áo và
Hungari. Trên đất của ĐQ Áo- Hung cũ
thành lập hai quốc gia mới là Tiệp Khắc
và Nam Tư.....

c. Nội dung:
- Xác lập quyền lợi của các nước đế
quốc thắng trận.
- Áp đặt, nô dịch các nước đế quốc
bại trận, các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc.

- Nêu nhận xét về hệ thống VécxaiOasinhtơn?

- Vì sao sau hội nghị VécxaiOasinhtơn quan hệ giữa các nước đế
quốc lại trở nên căng thẳng?

Mục 2: Không dạy

11


d. Kết quả:
- Một trật tự thế giới mới được xác
lập: trật tự Vécxai- Oasinhtơn.
- Hội nghị Vec-xai còn quyết định
12


thành lập Hội Quốc Liên, nhằm duy
trì trật tự thế giới mới, với sự tham
gia của 44 quốc gia thành viên.

Mâu thuẫn giữa các nước trở
đế quốc trở nên gay gắt.

2. Cao trào cách mạng 1918- 1923 ở
các nước tư bản. Quốc tế cộng sản.

HOẠT ĐỘNG 2: Tìm hiểu về cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và hậu
quả của nó.( 15 phút)
- Mục tiêu: Học sinh trình bày nguyên nhân, diễn biến, hậu quả của cuộc
khủng hoảng kinh tế.
- Phương pháp/Kĩ thuật: Hợp tác.

- Hình thức tổ chức hoạt động: Thảo luận nhóm.
- Phương tiện dạy học: Một số hình ảnh về tác động của cuộc khủng
hoảng kinh tế.[7], [8].
Mục tiêu và phương thức hoạt động
Gợi ý sản phẩm
- Mục tiêu
3. Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929Học sinh nắm được nguyên nhân, đặc
1933 và hậu quả của nó.
điểm, hậu quả của khủng hoảng kinh tế
thế giới (1929-1933)
- Phương thức: Giáo viên tổ chức cho
học sinh thảo luận nhóm vàgiao nhiệm
vụ
- GV chia lớp thành 4 nhóm và phát
phiếu học tập cho từng nhóm.
13


- Yêu cầu HS thảo luận trong 3 phút.
- HS thảo luận nhóm.
- Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: HS
đọc SGK, quan sát hình ảnh, suy nghĩ
câu hỏi.
- Báo cáo sản phẩm: HS trả lời câu hỏi
- GV nhận xét, bổ sung
- Giải thích như thế nào là khủng
hoảng kinh tế thừa ? khủng hoảng
kinh tế thiếu?
- GV trình chiếu cho học sinh quan
sát một số hình ảnh và yêu cầu nhận

xét từng hình ảnh.

a. Nguyên nhân:
Do các nước tư bản sản xuất ồ ạt,
chạy đua theo lợi nhuận đẫn đến hàng
hóa ế thừa( Cung vượt quá cầuKhủng hoảng thừa).

b. Diễn biến:
- Tháng 10/ 1929 khủng hoảng kinh
tế bùng nổ ở Mỹ, sau đó lan ra toàn
bộ thế giới tư bản.
- Cuộc khủng hoảng kéo dài gần 4
năm nhưng trầm trọng nhất là năm
1932.
14


c. Hậu quả:

Hình 1: Những gia đình trong cuộc
khủng hoảng kinh tế 1929- 1933.
GV: Khắc sâu thêm hình ảnh 1: Gia
đình gồm có 6 người, khuôn mặt của bố
mẹ buồn rầu, thiểu não, lo âu. Hình ảnh
4 đứa trẻ gây cho ta sự xúc động, ánh
mắt lờ đờ vì đói khát, đặc biệt hình ảnh
đứa trẻ ngồi dưới đất làm cho ta sự liên
tưởng em không còn đủ sức để đứng dậy
được.


* Kinh tế:
- Tàn phá nặng nề nền kinh tế các
nước tư bản chủ nghĩa.
* Xã hội:
- Hàng chục triệu công nhân thất
nghiệp, nông dân mất ruộng đất, sống
trong cảnh nghèo đói túng quẫn.
- Nhiều cuộc đấu tranh, biểu tình,
tuần hành của những người thất
nghiệp diễn ra ở khắp các nước.

Hình 2: Những em bé nhếch nhác
trong các khu nhà ổ chuột.
GV: Hình ảnh trên cho thấy các em nhỏ
quần áo rách dưới, bẩn thỉu, khuôn mặt
nhợt nhạt, đầu tóc rũ rượi ngồi chờ bố
mẹ khiến cho ta cảm giác ccas em đang
rất mệt mỏi vì đói khát, đang mong
ngóng chờ bố mẹ.
GV: Hình ảnh thể hiện sự đói khát,
nghèo khổ của người nghèo.

* Chính trị:
- Khủng hoảng kinh tế đã đe dọa
nghiêm trọng sự tồn tại của chủ nghĩa
tư bản.
15


* Quan hệ quốc tế:

Để thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng,
các nước tư bản đã lựa chọn theo hai
con đường khác nhau:
- Anh, Pháp, Mỹ: tiến hành cải cách
đất nước.
- Đức, Italia, Nhật Bản: tiến hành phát
xít hóa bộ máy chính quyền.

GV: Tù hình ảnh cho ta thấy số người
cần trợ cấp đông, xếp thành hàng dài
mệt mỏi, chờ đợi sự trợ cấp.
- Vì sao các nước lại lựa chọn con
đường khác nhau để thoát khỏi khủng
hoảng?
+ HS trao đổi, phát biểu.
+ GV kết luận: Các nước Anh, Pháp có
nhiều thuộc địa nên tiến hành cải cách;
các nước Đức, Italia, Nhật không có
hoặc có rất ít thuộc địa lại nghèo về tài
nguyên thiên nhiên nên họ lựa chọ phát
xít hóa bộ máy chính quyền để thoát ra
khỏi khủng hoảng.
- Theo em hậu quả nghiêm trọng nhất
của cuộc khủng hoảng kinh tế 19291933 đối với thế giới là gì? Vì sao?
- Vì sao nói chủ nghĩa phát xít xuất hiện GV có thể tóm gọn bằng bảng biểu,
đồng nghĩa với nguy cơ của một cuộc trình chiếu cho HS theo dõi:
chiến tranh đang đến gần?

16



4. Phong trào Mặt trận Nhân dân
chống phát xít và nguy cơ chiến
tranh.

Mục 4: Không dạy

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Đối với hoạt động giáo dục
Sau thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài với học sinh khối 11 tại
trường THPT Vĩnh Lộc, cách thức cụ thể sau:
Đối với các lớp: 11A2, 11A3 áp dụng đề nghiên cứu vào giảng dạy.
Với lớp 11A7, 11A9 không áp dụng.
Qua các hình thức kiểm tra kiến thức của bài học, bản thân tôi thu được
kết quả so sánh như sau:
So
Lớp Tổng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
sánh
số
SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ
Lớp
11A2 44
11 25 % 23 52,27% 10 22,73% 0
0
thực

11A3 47
8 17,1% 24 51,0% 15 31,9% 0
0
nghiệm
Lớp đối 11A7 38
1 2,63% 10 26,32% 25 65,79% 2 5,26%
chứng 11A9 34
0
0
5 14,70% 26 76,47% 3 8,83%
Các mức độ học tập

Các lớp thực nghiệm
11A2, 11A3.

Lớp không đối chứng
11A7, 11A9.
17


Hứng thú học tập bộ
môn
Khả năng ghi nhớ sự
kiện, nhân vật.
Khả năng làm bài phân
tích sự kiên
Mục tiêu giáo dục tình
cảm

- Tăng


- Không tăng

-Nhanh
- Mức độ chậm.
- Nhiều, hiểu rõ sự kiện
- Đa dạng, phân tích có - Chủ yếu thuộc lòng, ghi
chiều sâu.
nhớ các sự kiện.
- Học sinh có tình cảm, - Học sinh có thái độ
thái độ đúng đắn đối với đúng đắn đối với sự kiện,
sự kiện, nhân vật lịch sử nhân vật lịch sử.
Cũng qua quá trình thực hiện, kết quả đáng mừng là số học sinh có hứng
thú học tập bộ môn tăng, chất lượng môn học cũng thay đổi rõ rệt. Nhiều em say
mê và tích cực học tập bộ môn.
Đối với bản thân.
Với việc áp dụng đề tài vào giảng dạy ở các lớp thực nghiệm, tổ chức cho
học sinh học ở phòng máy chiếu, bản thân tôi thấy giờ dạy rất nhẹ nhàng, học
sinh phấn khởi tiếp nhận kiến thức. Còn ở lớp không thực nghiệm thì giờ dạy
khô khan và có phần nặng nề đối với cô và trò.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào
tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Mỗi môn học ở nhà trường phổ thông với đặc trưng của
mình đều phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện, trong đó có Lịch
sử.
Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa
học lịch sử, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu mà còn phải
hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Cho nên cùng với các môn

học khác, việc học tập Lịch sử đòi hỏi phát triển tư duy, thông minh, sáng tạo.
Trong những năm qua, mặc dù chương trình và sách giáo khoa đã có thay
đổi nhưng lượng kiến thức trong mỗi bài học vẫn rất nhiều. Đa số học sinh
không thể nhớ hết sự kiện lịch sử nếu không hiểu bài. Vì thế, để có thể giúp học
sinh hiểu bài nhanh chóng, giáo viên có thể sử dụng các hình ảnh trực quan sinh
động và sơ đồ cụ thể hóa các sự kiện lịch sử, hình thành khái niệm lịch sử cho
học sinh.
Sơ đồ là những biểu tượng trực quan phản ánh một cách trừu tượng, khái
quát các khái niệm, phạm trù, quy luật. Vì vậy, đòi hỏi sơ đồ phải phản ánh
trung thành với khối lượng kiến thức mà nó mô tả, phải có tính thẩm mỹ, không
rập khuôn, khuyến khích người học tự thiết kế sơ đồ trên cơ sở kiến thức đã lĩnh
hội.
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Với tầm quan trọng và hiệu quả của việc sử dụng công nghệ thông tin đưa
các hình ảnh trực quan và sơ đồ vào giảng dạy môn Lịch sử để nâng cao hiệu
quả bài học, giúp học sinh nhớ nhanh kiến thức, có hứng thú học tập, phát triển
tư duy nhận thức bản thân tôi có một số kiến nghị như sau:
18


- Giáo viên dạy môn Lịch sử cần phải được bồi dưỡng thường xuyên để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, vận dụng linh hoạt các phương pháp
dạy học tích cực phù hợp với nội dung cụ thể của từng bài, từng lớp và từng đơn
vị công tác.
- Các giáo viên trong trường cần phải thường xuyên dự giờ góp ý, rút
kinh nghiệm trong các bài dạy đặc biệt các bài dạy có ứng dụng công nghệ
thông tin và phương pháp dạy học mới.
- Các cấp giáo dục và đào tạo, cần tăng cường đầu tư vào việc mua sắm
trang thiết bị và các tài liệu học tập, giúp cho giáo viên và học sinh được tiếp
cận với các phương tiện và phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ

động, sáng tạo như hiện nay, đặc biệt là công nghệ thông tin và phòng học thực
hành của các môn học.
- Cần tăng thêm số tiết cho bộ môn Lịch sử vì có như thế thì giáo viên mới có
điều kiện dạy sâu hơn kiến thức và lồng ghép các nội dung thực tế vào bài học.
- Tổ chức cho giáo viên tham gia học tập nhiều chuyên đề về lịch sử để
giáo viên có điều kiện tìm hiểu sâu hơn hoặc được mở rộng hơn đồng thời có cơ
hội chia sẻ kinh nghiệm, tháo gỡ những khó khăn trong quá trình dạy học.
- Cho lưu hành các sáng kiến kinh nghiệm đạt giải trong các cuộc thi viết
sáng kiến kinh nghiệm để giáo viên học hỏi, vận dụng vào dạy học.
- Bổ sung tranh ảnh, các chân dung nhân vật lịch sử, cần đầu tư trang bị,
xây dựng phòng học bộ môn để phục vụ tốt hơn cho công tác giảng dạy.
- Tổ chức những buổi học ngoại khóa, tham quan các di tích, bảo tàng lịch sử.
Với những đề xuất thiết tha như trên, tôi hy vọng rằng nếu được thực
hiện một cách nghiêm túc và khoa học thì việc đổi mới phương pháp dạy học
Lịch sử tất yếu sẽ có nhiều chuyển biến tích cực góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục Lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Trên đây là một vài kinh nghiệm của tôi trong việc “Tạo hứng thú học
tập và rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh qua sử dụng công nghệ thông
tin, hình ảnh trực quan trong bài 11: Tình hình các nước tư bản giữa hai
cuộc chiến tranh thế giới 1918- 1939( lịch sử lớp 11). Trong quá trình thực
hiện chắc chắn còn nhiều thiếu sót, mong được sự góp ý, chỉ bảo của các chuyên
viên, thầy cô giàu kinh nghiệm và các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Vĩnh Lộc, ngày 17 tháng 04 năm 2018.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.

Người viết:

Trần Minh Hường

19



×