1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Bác Hồ đã nói:
“Dân ta phải biết sử ta.
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam"
Lịch sử là môn học mang tính nhân văn và phát triển con người. Nó không
chỉ hướng con người biết về những mối quan hệ hiện tại, kết nối hiện tại với quá
khứ, mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển trong tương lai. Môn học này không
thể thiếu trong chương trình giảng dạy ở hầu hết các nước trên thế giới.
Với xu thế hội nhập quốc tế hiện nay đã và đang đưa đến rất nhiều cơ hội
và những thách thức lớn cho các quốc gia dân tộc, một trong những cơ hội lớn
nhất đó chính là các nước đang phát triển có thể khai thác các nguồn vốn đầu tư,
kĩ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lí từ bên ngoài, nhất là các tiến bộ về
khoa học – kĩ thuật để có thể “đi tắt đón đầu” [3], rút ngắn thời gian xây dựng và
phát triển đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ thuận lợi, các quốc gia cũng gặp không
ít những khó khăn thách thức, một trong những khó khăn thách thức đó chính là
nguy cơ bị tụt hậu. Việt Nam cũng không tránh khỏi những nguy cơ thách thức
đó. Vì vậy, tận dụng thời cơ và vượt qua những khó khăn thách thức chính là
vấn đề không chỉ của riêng một nghành hay riêng một người, mà là sự chung
tay nỗ lực của cả dân tộc Việt Nam, trong đó lĩnh vực giáo dục đóng vai trò hết
sức quan trọng.
Bài học về “con người” là chìa khóa thành công từ Nhật Bản, bài học từ
việc áp dụng những thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại của Mĩ và các nước
châu Âu. Tất cả đều gắn với vai trò của giáo dục.
Việt Nam là đất nước có nền văn hiến, truyền thống hiếu học lâu đời. Thân
Nhân Trung đã từng nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh
thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp".
Giáo dục là quốc sách, đất nước muốn phát triển, dân giàu và nước mạnh đều
phụ thuộc vào trình độ văn hóa cũng như nền giáo dục của nước nhà.
Nhận thức rõ vai trò của giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển của đất
nước, Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Vì
vậy, giáo dục hiện nay đang là mối quan tâm của các cấp, các nghành và của
toàn xã hội. Yếu tố quan trọng bậc nhất để nâng cao chất lượng giáo dục đó
chính là phải thay đổi phương pháp dạy học, chuyển từ nền giáo dục mang tính
hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình
thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Định
hướng quan trọng trong đổi mới phương pháp dạy học là phát huy tính tích cực,
tự lực và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc
1
của học sinh. Và đổi mới phương pháp dạy học gắn liền với đổi mới hình thức tổ
chức dạy học.
Trong các năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức
tổ chức dạy học đã được triển khai và bước đầu thu được kết quả nhất định, cho
thấy đổi mới phương pháp dạy học là đúng, là đáp ứng được yêu cầu của xã hội,
đáp ứng được xu thế phát triển chung của đất nước, của thế giới.
Ở bộ môn lịch sử, do đặc thù so với các môn học khác, nên việc đổi mới
phương pháp tổ chức hoạt động học theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh là rất cần thiết, bởi nếu trong một tiết dạy, việc tổ chức cho học sinh có
những hoạt động học phong phú, phù hợp với đặc trưng kiểu bài sẽ thay vì việc
truyền tải áp đặt một chiều với những con số và kiến thức khô khan, nặng nề
bằng những giờ học sinh động, cuốn hút, khơi gợi học sinh hứng thú tìm tòi
khám phá và đưa ra những kết luận của mình.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, nhiều thầy cô vẫn còn lúng túng. Do
tâm lí, do thói quen khó bỏ, thiếu kiên trì với phương pháp dạy mới, vì theo lối
cũ có phần nhẹ nhàng hơn, ít phải đầu tư tìm tòi nghiên cứu, đỡ tốn thời gian từ
khâu thiết kế, soạn bài, chuẩn bị...., hoặc có khi là bài quá dài, quá nhiều kiến
thức không đủ thời gian thực hiện dẫn đến ảnh hưởng đến ý tưởng thiết kế và
tiến trình dạy học của các thầy cô.
Xuất phát từ nguyên nhân đó, cùng với kinh nghiệm của bản thân trong
năm học 2017-2018 vừa qua, tôi xin được mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Vài
kinh nghiệm về tổ chức hoạt động học trong bộ môn lịch sử theo định
hướng phát triển năng lực học sinh” với mong muốn góp phần nhỏ cùng các
thầy cô trong sự nghiệp đổi mới giáo dục nhằm mang lại hiệu quả tốt nhất.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Có thể nói, phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng bậc nhất để
mục tiêu, chất lượng, hiệu quả giáo dục phổ thông đáp ứng được yêu cầu đổi
mới giáo dục, kỳ vọng của xã hội, đất nước trong bối cảnh hội nhập. Tính cấp
thiết việc đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra và đang quyết tâm thực
hiện. Đây không phải là câu chuyện đơn giản, giải quyết trong một sớm một
chiều mà cần có sự nỗi lực ý chí quyết tâm của đội ngũ các thầy cô. Bởi tâm lý
ngại thay đổi do sống và làm việc quá lâu với thói quen cũ, đặc biệt, có nhiều
thầy cô tâm huyết, nỗ lực trong việc tìm tòi đổi mới phương pháp, mỗi tiết dạy
đều thể hiện tinh thần đổi mới, lấy học sinh làm trung tâm, dùng nhiều hình thức
để dẫn dắt, gợi mở, phát huy tính chủ động, tính cực của học sinh. Bên cạnh đó,
còn nhiều thầy cô chỉ dạy phương pháp dạy học mới mang tính đối phó và nặng
thành tích như chỉ khi thao giảng, có đồng nghiệp dự giờ..., hoặc còn lúng túng
trong phương pháp tổ chức dạy học, có tổ chức hoạt động học theo định hướng
lấy học sinh làm trung tâm nhưng kỹ thuật và phương pháp còn đơn sơ, thiếu
2
sức hấp dẫn cuốn hút, thậm chí phản tác dụng, dẫn đến học sinh không hứng thú,
thầy cô chán nản.
Vậy làm thế nào để đổi mới phương pháp dạy học một cách có hiệu quả
và đồng bộ, khơi gợi sự đam mê và hứng thú đối với mỗi thầy cô trong quá trình
tổ chức dạy học? Làm thế nào để thực hiện chuyển từ phương pháp dạy học theo
lối "truyền thụ một chiều"[2] sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất một cách có hiệu quả nhất? Có
những phương pháp kỹ thuật nào trong tổ chức hoạt động học theo hướng phát
huy tính tích cực của học sinh ở bộ môn lịch sử?
Mục đích nghiên cứu đề tài của tôi chính là đưa ra được những giải pháp
góp phần giải quyết những câu hỏi đó nhằm nâng cao chất lượng dạy và học bộ
môn lịch sử ở trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp tổ chức hoạt động học
theo định hướng phát triển năng lực của học sinh ở bộ môn lịch sử, từ đó đưa ra
những phương pháp thiết thực đã được áp dụng có hiệu quả từ thực tiễn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Lập kế hoạch nghiên cứu
- Xây dựng đề cương
- Nghiên cứu tài liệu
- Nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi
+ Phương pháp trò chuyện
+ Phương pháp quan sát
+ Xử lí và đánh giá kết quả, tính %
- Tiến hành thực nghiệm.
Đề tài được tiến hành thực nghiệm tại các lớp 12B5, 12B7 - trường THPT
Lam Kinh, được BGH nhà trường, ban chuyên môn tổ Sử - Địa – GDCD
tạo điều kiện cùng sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía các đồng nghiệp và học sinh.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận:
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới
việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập
trung vào “phát huy tính tích cực của người học”[1] chứ không phải là tập trung
vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp
tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Ngày 4-11-2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI Nghị quyết số 29NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3
Văn kiện nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt
động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin và truyền thông trong dạy và học” [3]
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) Phùng Xuân Nhạ nhấn mạnh:
"Ngày nay, khi tri thức đã trở thành yếu tố hàng đầu để phát triển kinh tế tri thức
thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng giáo dục là đòn bẩy quan trọng
để đổi mới mô hình tăng trưởng và phát triển xã hội bền vững” [3].
Sự đổi mới dạy học lịch sử là yêu cầu quan trọng, cấp bách để hiểu đúng
quá khứ, có tác dụng giáo dục thế hệ trẻ cho hôm nay và mai sau. Mục tiêu của
môn lịch sử không dừng lại ở kiến thức mà làm thế nào để những kiến thức đó
thấm sâu vào nhận thức của học sinh, biến thành hiểu biết của chính các em một
cách hứng thú. Do đó, phương pháp dạy học của mỗi giáo viên rất quan trọng.
Thầy giáo dạy hay, học sinh mới yêu thích môn học. Tuy nhiên, “dạy hay” ở đây
không có nghĩa là giọng giảng hay, thuộc lòng các con số, sự kiện theo kiểu
“thầy đọc, trò chép” như lối cũ. “Thầy dạy hay” chính người tổ chức, dẫn dắt,
khơi dậy được hứng thú học tập bộ môn, linh hoạt, mềm dẻo, luôn tạo cơ hội để
học sinh tham gia và làm chủ hoạt động nhận thức, cung cấp những nhiệm vụ
học tập có mức độ phù hợp với từng học sinh, tạo điều kiện cho từng học sinh
được phép lựa chọn, tự lập kế hoạch, tựđưa ra mục đích hoạt động, tự mình hoặc
hợp tác để thực hiện nhiệm vụ học tập, cuối cùng tự nhận xét đánh giá kết quả
học tập của bản thân. Và như vậy, người thầy chỉ là người tổ chức, hướng dẫn
quá trình nhận thức của học sinh.
Mô hình phương pháp dạy học. Nguồn internet.
2.2 Thực trạng vấn đề:
Như chúng ta đã biết: Giảng dạy lịch sử là một công việc hết sức phức
tạp, rất dễ sa vào nêu các sự kiện một cách khô khan, nặng nề thiếu sinh động,
4
bởi vậy đòi hỏi người giáo viên phải có phương pháp lịch sử, trình bày rõ sự
phát triển của lịch sử đúng như nó đã diễn ra với những sự kiện và tư liệu chính
xác.Trong đó việc phát huy tính tích cực chủ động của học sinh được coi trọng
đặc điểm. Bởi vậy, với vai trò chủ đạo,người giáo viên phải biết gây hứng thú
học tập bộ môn. Phải hướng học sinh thực hiện vai trò chủ động của mình,từ đó
giúp cho học sinh gắn liền kiến thức với tri thức cuộc sống.
Trong thực tế mấy năm qua, công cuộc đổi mới phương pháp theo định
hướng lấy học sinh làm trung tâm đã và đang được triển khai với sự đón nhận
tích cực từ phía các thầy cô, nhất ở đối với bộ mộ lịch sử, bởi nếu áp dụng đổi
mới đúng phương pháp cách thức, đúng như bản chất đổi mới, và thầy cô đầu tư
công phu vào tiết dạy thì hiệu quả và chất lượng khác hẳn so với một tiết dạy
truyền thống.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu đã đạt được thì việc đổi mới
phương pháp dạy học ở nhà trường THPT nói chung và đối với bộ môn lịch sử
nói riêng vẫn còn nhiều những khó khăn thách thức. Là một giáo viên đang trực
tiếp giảng dạy bộ môn lịch sử, tôi nhận thấy rằng:
Thứ nhất: Hoạt động đổi mới phương pháp còn dừng lại ở lý thuyết và
hình thức thông qua tài liệu bồi dưỡng hay những buổi tập huấn. Thực tế, việc
áp dụng đổi mới chưa thực hiện rộng rãi, có khi còn mang tính hình thức, đối
phó. Chỉ những giờ dạy thao giảng, có đồng nghiệp đến sự mới thực hiện.
Thứ hai: Một số thầy cô còn thiếu kiên trì với cái mới, chưa đầu tư, tìm tòi
nghiên cứu cho giờ dạy. Việc sử dụng phương pháp và kĩ thuật dạy học nhằm
phát huy tính tích cực của học sinh trong mỗi giờ dạy còn ít.
Thứ ba: Tâm lý thói quen, lối cũ khó bỏ. Lại do đặc thù bộ môn, rằng lịch
sử là phải ghi nhớ. Cộng thêm đó, SGK còn nặng kiến thức, nhiều những con số,
sự kiện khô khan, khó học, khó nhớ. Hình thức thi kiểm tra đánh giá lại yêu cầu
phải nhớ, phải thuộc nên tâm lý thầy cô là dạy theo kiểu “ôm đồm” kiến thức.
Cái gì cũng muốn truyền tải đến học sinh vì sợ bỏ sẽ thiếu nên phương pháp
truyền thống “thầy đọc, trò chép” vẫn còn là chủ yếu.
Thứ tư: Để thiết kế một giờ dạy theo phương pháp mới ở bộ môn lịch sử,
thì cần đảm bảo về cơ sở vật chất và trang thiết bị. Cần sự đầu tư công phu, có
khi là thầy cô phải tự bỏ tiền để mua sắm thêm phương tiện, đồ dùng dạy học
trong khi kinh phí hỗ trợ của nhà trường còn hạn chế.
Xin dẫn chứng cụ thể về thực trạng trong một tiết dạy lịch sử thường được
tiến hành như sau:
Ở tiết 2, bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 đến 1925”
chủ yếu sẽ diễn ra theo các bước truyền thống như:
- Kiểm tra bài cũ: Giáo viên đặt câu hỏi, học sinh lên bảng trả lời (học
thuộc lòng và đọc thuộc)
- Bài mới:
+ Dẫn dắt: giáo viên sẽ tự dẫn dắt mà chủ yếu bằng cách tóm lược lại kiến thức
ở tiết trước, học sinh lắng nghe.
5
+ Tiến trình thực hiện bài mới, chủ yếu thông qua việc giáo viên đặt câu hỏi, học
sinh theo dõi SGK và trả lời. Giáo viên kết luận, đồng thời nhấn mạnh kiến thức
trọng tâm (bằng giọng giảng, bằng cách viết lên bảng), và học trò sẽ ghi vào vở.
+ Phần củng cố: Giáo viên cũng sẽ tự củng cố, học sinh lắng nghe và ghi nhớ.
+ Bài tập, dặn dò: Giáo viên (có thể hoặc không) giao bài tập, đồng thời dặn dò
các em đọc trước bài mới.
Như vậy, qua một tiết học theo cách dạy truyền thống, các em sẽ có được
những gì? đã hoạt động những gì ngoài những nội dung đã ghi chép một cách
đầy đủ về những hoạt động của tư sản, tiểu tư sản trong những năm từ 1919 đến
1925, về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1917 đến 1925 với những
mốc thời gian, sự kiện khô khan?!
Có thể nói, phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng bậc nhất để
mục tiêu, chất lượng, hiệu quả giáo dục phổ thông đáp ứng được yêu cầu đổi
mới giáo dục, kỳ vọng của xã hội, đất nước trong bối cảnh hội nhập. Tính cấp
thiết việc đổi mới phương pháp dạy học được đặt ra và đang quyết tâm thực
hiện. Đặc biệt đối với bộ môn lịch sử, việc đổi mới là cần thiết. Nếu việc thực
hiện đổi mới đồng bộ cùng với nỗ lực quyết tâm từ các thầy cô, thì quan niệm về
học bộ môn lịch sử là “khó”, rằng học lịch sử là phải “thuộc”, phải “chép” sẽ
không còn.
2.3. Giải pháp.
Như chúng ta đã biết, tiến trình tổ chức bài học theo phương pháp mới
gồm có 5 bước, có thể tóm tắt như sau:
Các
hoạt Nội dung
Cách tổ chức
động
1.
- Huy động vốn kỹ năng để tiếp - Câu hỏi, bài tập
Khởi động, nhận kiến thức, kỹ năng mới.
- Quan sát tranh ảnh lược đồ, xem
nêu vấn đề - Tạo hứng thú bài học
trích đoạn phim tư liệu
- Trò chơi
2.
Học sinh tự chiếm lĩnh kiến - Tổ chức hoạt động cá nhân, tập
Hình thành thức mới thông qua hệ thống thể, nhóm
kiến thức.
các bài tập, nhiệm vụ.
- Các trò chơi như ghép đôi...
- Kết hợp trò chơi với hoạt động
cá nhân, nhóm.
- Kỹ thuật mảnh ghép
- Vận dụng kiến thức liên môn
3.
Luyện Học sinh vận dụng kiến thức - Tập trung hình thành kỹ năng
tập
vừa học để giải quyết nhiệm vụ - Thực hành theo tình huống giả
cụ thể
định
4. Vận dụng Vận dụng Học sinh sử dụng - Nhận biết, giải quyết tình
kiến thức, kỹ năng đã học để huống, vấn đề mang tính thực
giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ tiễn.
trong thực tế
- Triển khai ở lớp, ở nhà, cộng
đồng
5.
Hoạt Tiếp tục mở rộng kiến thức, kỹ - Tìm đọc trên sách, báo, mạng
6
động tìm tòi năng từ các nguồn,kênh thông - Tham quan thực tế
mở rộng
tin.
- Trao đổi với người thân...
Từ 5 bước đó, giáo viên sẽ vận dụng một cách linh hoạt, sử dụng những
phương pháp và kỹ thuật tùy thuộc vào kiểu bài.
Có nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học đã được đưa ra, như: Kỹ thuật
chia nhóm, làm việc theo nhóm, kỹ thuật “mảnh ghép”, kỹ thuật “khăn phủ
bàn”, Sơ đồ tư duy [2] v.v....
Vậy, làm thế nào để trong giờ dạy người giáo viên có thể vận dụng tổng
hợp và linh hoạt những kiến thức để giải quyết có hiệu quả các vấn đề ? Và làm
sao để hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh phải bảo đảm
được sự thống nhất, tương tác mà trong đó, giáo viên giữ vai trò chỉ đạo, hướng
dẫn, trọng tài; học sinh không chỉ là đối tượng của hoạt động dạy mà cũng chính
là chủ thể của hoạt động học?
Với thời gian nghiên cứu và thử nghiệm, cùng với những kinh nghiệm của
bản thân là giáo viên trực tiếp áp dụng phương pháp dạy học mới theo định
hướng phát huy tính tích cực của học sinh, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh
nghiệm đã được thực hiện cụ thể tại bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt
Nam từ 1919 – 1925” – tiết 2 (chương trình LSVN lớp 12) và “Ôn tập lịch sử
thế giới cận đại” (chương trình LSTG lớp 11)
Thứ nhất, tổ chức hoạt động khởi động, nêu vấn đề.
Hoạt động khởi động (tạo tình huống xuất phát) rất cần thiết trong dạy
học nhằm phát triển năng lực cho học sinh [1]. Hoạt động này cần tạo ra những
tình huống, những vấn đề mà ở đó người học cần được huy động tất cả các kiến
thức hiện có, những kinh nghiệm, vốn sống của mình để cố gắng nhìn nhận và
giải quyết theo cách riêng của mình và cảm thấy thiếu hụt kiến thức, thông tin để
giải quyết. Như vậy, hoạt động tạo tình huống xuất phát là một hoạt động học
tập, nhiệm vụ chuyển giao của giáo viên phải rõ ràng, học sinh phải được bày tỏ
ý kiến riêng của mình cũng như ý kiến của nhóm về vấn đề đó cũng như việc
trình bày báo cáo kết quả.
Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, một số giáo viên còn lạm dụng hoạt
động này, hoặc là giáo viên tự dẫn dắt vào bài , hoặc tổ chức trò chơi, v.v... làm
mất quá nhiều thời gian và loãng nội dung bài học.
Vì vậy, để tổ chức hiệu quả hoạt động này, giáo viên cần:
- Xác định rõ mục đích yêu cầu bài học.
- Xác định kiến thức trọng tâm của bài từ đó lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt
động phù hợp.
7
- Tìm kiếm từ nhiều nguồn thông tin, nhiều kênh (sách GK, sách tham khảo, các
trang web...) để xác định và lựa chọn cái mình cần sử dụng vào nội dung hoạt
động.
Sau đây là những ví dụ cụ thể do tôi thiết kế bài dạy và đã thựu hiện thành
công:
Ví dụ 1: Ở bài “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (LSTG lớp 11).
Với kiểu bài tổng kết, ôn tập, giáo viên có thể lựa chọn những hình ảnh
hoặc nội dung hết sức tiêu biểu của giai đoạn hay thời kì lịch sử gắn liền với nội
dung bài học để khởi động/đặt vấn đề. Công phu hơn, giáo viên có thể tìm kiếm
đoạn video tư liệu (thậm chí giáo viên có thể tự cắt ghép hình ảnh và nhạc) để
dẫn dắt nêu vấn đề.
Cụ thể, với bài ôn tập này, tôi đã sử dụng đoạn video tự cắt ghép (30s-1p), nội
dung là những hình ảnh thời cận đại + nền nhạc Bettoven (bản sonate ánh trăng).
Hình ảnh cắt từ đoạn video
Sau khi cho các em xem xong, giáo viên đặt câu hỏi:
Đoạn video trên gợi cho em nhớ đến thời kì lịch sử nào của nhân loại ?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên dẫn dắt: Đây là những hình ảnh của
thời kì lịch sử thế giới cận đại. Suốt từ giữa chương trình học kì II của lớp 10
đến hết bài 7 của học kì I lớp 11, chúng ta đã học những nội dung chủ yếu của
lịch sử cận đại Để ôn lại những kiến thức cơ bản của thời kì lịch sử này, chúng ta
cùng tìm hiểu trong bài học hôm nay !
Ví dụ 2: Ở bài “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 – 1925” (tiết
2) – (LSVN lớp 12)
Đây là kiểu bài tiếp thu và hình thành kiến thức mới nên tôi sử dụng
những hình ảnh đặc trưng về những hoạt động yêu nước dân chủ công khai trong
những năm 1919 đến năm 1925 của các giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công nhân,
đặc biệt là một số hình ảnh về Nguyễn Ái Quốc để dẫn dắt HS liên hệ kiến thức
đã học trước và nắm bắt kiến thức mới để tìm hiểu phong trào dân tộc dân chủ ở
Việt Nam trong những năm từ 1919 đến năm 1925, từ đó đặt câu hỏi.
8
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
Qua theo dõi những hình ảnh, gợi hứng thú học tập của học sinh khi tìm
hiểu về phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 đến năm 1925, đặc biệt
là những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn này. Qua đó để thấy
được nét mới trong phong trào dân tộc dân chủ ở nước ta sau chiến tranh thế
giới thứ nhất. Từ đó, giáo viên dẫn dắt vào bài mới:
Đây là một số hình ảnh tiêu biểu phản ánh về phong trào dân tộc dân chủ
ở Việt Nam trong những năm từ 1919 đến 1925 - một giai đoạn lịch sử quan
trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc ta. Vậy phong trào dân tộc dân chủ ở Việt
Nam từ năm 1919 đến 1925 có nội dung gì? Ý nghĩa của nó đó đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam? Những vấn đề này chúng ta
sẽ giải quyết qua bài học hôm nay.
Với cách dẫn dắt nêu tạo tình huống/nêu vấn đề, ngay từ khi vào bài đã lôi
luôn học sinh ko chỉ khiến các em chú ý mà còn tạo sức hấp dẫn ngay từ đầu,
kích thích sự tìm tòi khám phá của các em đối với bài học.
Tuy nhiên, lưu ý khi thực hiện:
- Không ôm đồm kiến thức, ko lạm dụng hình ảnh hay video minh họa sẽ dẫn
đến nội dung nặng nề, lê thê, hoặc xa rời nội dung bài học, làm loãng kiến thức.
- Cân nhắc khi lựa chọn và sử dụng nguồn hình ảnh hoặc video, tránh gây phản
cảm hay sai lệch lịch sử.
- Nội dung hoặc câu hỏi phải thực sự có “vấn đề” mới đủ sức cuốn hút học sinh.
- Có thể tổ chức dưới hình thức cá nhân, nhóm...tùy vào cách giáo viên dẫn dắt.
Thứ hai, tổ chức hoạt động hình thành kiến thức.
Đây là hoạt động quan trọng nhất trong tiến trình dạy học. Bởi hoạt động
này giúp học sinh tìm hiểu và nắm bắt kiến thức của bài học, rèn luyện các kĩ
năng lĩnh hội kiến thức. Đây cũng là hoạt động mà người giáo viên có thể vận
dụng sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học khác nhau
trong quá trình dạy học.
9
Tuy nhiên, nếu lạm dụng nhiều phương pháp trong một hoạt động, hoặc
sử dụng phương pháp không phù hợp với nội dung và yêu cầu kiến thức của bài,
như hoạt động nhóm quá nhiều, hoặc chỉ hoạt động cá nhân đơn điệu, có khi lạm
dụng trò chơi trong một nội dung, vân vân....sẽ đưa tác dụng ngược lại. Vì vậy,
để có một hoạt động hình thành kiến thức trong giờ dạy thật sự chất lượng,
mang lại hiệu quả cao đối với học sinh, giáo viên nên:
- Xác định trọng tâm kiến thức của bài, từ đó xác định phương pháp
phù hợp với phần trọng tâm kiến thức đó, nhằm mục đích giúp học sinh “đào
kĩ”, “khắc sâu”, “ghi nhớ”, tránh xác định sai trọng tâm kiến thức của bài, dẫn
đến nội dung trọng tâm thì hời hợt, những phần có thể hướng dẫn học sinh tự
tìm hiểu thì dành thời gian quá nhiều.
- Lựa chọn và lên kế hoạch cụ thể, chi tiết cho việc sử dụng phương
pháp và kĩ thuật trong hoạt động phù hợp cho từng nội dung kiến thức. Ví
dụ, mục 1 nên sử dụng phương pháp hoạt động cá nhân, tập thể hay nhóm? Mục
2 nên sử dụng chiến thuật ghép đôi hay trò chơi lật mảnh ghép, v.v...
- Lựa chọn và thiết kế phương tiện dạy học, kết hợp với các hình ảnh
minh họa cho phù hợp với từng phương pháp hoạt động vànội dung kiến
thức. Ví dụ, trò chơi ghép đôi, giáo viên sẽ phải tự chuẩn bị những gì, trò chơi
lật mảnh ghép, giáo viên sẽ tìm kiếm những hình ảnh nào phù hợp, hoạt động
nhóm giáo viên sẽ chuẩn bị giấy bút ra sao, v.v....
Để minh họa cụ thể hơn về những gợi ý phương pháp trong hoạt động
hình thành kiến thức, tôi xin đưa ra vài ví dụ cụ thể sau:
Ví dụ 1: Ở bài “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (LSTG lớp 11)
Mục 1: Những kiến thức cơ bản.
Tôi sử dụng phương thức hoạt động cá nhân và hoạt động cặp đôi.
- Hoạt động cá nhân.
+ Chuyển giao nhiệm vụ:
GV đặt câu hỏi: Lịch sử thế giới cận đại được mở đầu và kết thúc bằng
những sự kiện nào? Thời gian?
+ Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: HS nhớ lại kiến thức đã học, trả lời câu hỏi.
+ Báo cáo sản phẩm.
+ GV nhận xét, bổ sung bằng trục thời gian.
10
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
- Hoạt động cặp đôi
+ Chuyển giao nhiệm vụ:
+ GV tổ chức trò chơi: Nhanh mắt, nhanh tay.
Học sinh tự lựa chọn bạn đồng hành thành từng cặp đôi. Hai cặp sẽ lên
bảng lựa chọn mảnh ghép sự kiện để dán vào chỗ trống sao cho đúng với cột
mốc thời gian. Đội nào nhanh, đúng sẽ có phần thưởng.
Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: học sinh chọn cặp đôi, lên bảng thực hiện luật
chơi.
+ Báo cáo sản phẩm
+ Giáo viên nhận xét, chốt ý.
Hình ảnh về trò chơi cặp đôi do tôi chuẩn bị
Ưu điểm của phương pháp hoạt động cặp đôi là tạo không khí sôi nổi,
khẩn trương trong hoạt động học, các em nhút nhát dễ hòa nhập, tăng kĩ năng
hợp tác. Giúp các em ghi nhớ được kiến thức một cách hiệu quả mà không nặng
nề.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, giáo viên nên phân công hợp lý để
các em hoạt động hợp tác có hiệu quả. Hoạt động có thể gây ồn ào ảnh hưởng
tới lớp bên cạnh, hoặc thời gian kéo dài dẫn đến giáo viên không làm chủ được
thời gian hợp lý.
11
Ví dụ 2: Ở bài “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 – 1925”
(tiết 2) – (LSVN lớp 12)
Mục 2: Hoạt động của tư sản, tiểu tư sản và công nhân Việt Nam.
Phương thức: Hoạt động cá nhân và nhóm.
- Hoạt động cá nhân:
+ Chuyển giao nhiệm vụ: GV yêu cầu học sinh quan sát hình ảnh, kết hợp với
vận dụng hiểu biết + SGK để trả lời câu hỏi.
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
+ Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: học sinh theo dõi SGK, suy nghĩ trả lời
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung kết hợp bảng biểu để chốt ý.
- Hoạt động nhóm:
Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, (hoặc có thể 6 nhóm nhỏ để dễ thảo
luận và đảm bảo học sinh nào cũng được tham gia thảo luận) với các nhiệm vụ
cụ thể.
12
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
+ Tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ: học sinh theo dõi SGK, thảo luận và trả lời.
Báo cáo sản phẩm: Các nhóm dán sản phẩm lên bảng, đại diện từng nhóm trình
bày, giáo viên nhận xét, chốt ý.
Lưu ý khi giáo viên sử dụng phương pháp hoạt động nhóm:
+ Tránh nêu nhiệm vụ thảo luận không rõ ràng hoặc quá đơn giản như kiểu trình
bày nội dung, diễn biến, nêu khái niệm...dẫn đến học sinh hoạt động nhóm
nhưng không có sự thảo luận.
+ Phân việc rõ ràng, cử được nhóm trưởng và thư kí làm việc.
+ Tạo điều kiện để các nhóm tự đánh giá lẫn nhau hoặc cả lớp cùng đánh giá.
+ Tùy theo nhiệm vụ học tập, Hs có thể sử dụng hình thức làm việc cá nhân
hoặc hoạt động nhóm cho phù hợp, không nên thực hiện phương pháp này này
một cách hình thức. Không nên lạm dụng hoạt động nhóm và cần đề phòng xu
hướng hình thức (tránh lối suy nghĩ: đổi mới phương pháp dạy học là phải sử
dụng hoạt động nhóm).
+ Trong suốt quá trình học sinh thảo luận, giáo viên cần đi đến các nhóm, quan
sát, lắng nhe, gợi ý, giúp đỡ hs khi cần thiết.
Thứ ba, hoạt động luyện tập
Với mục đích nhằm củng cố và khắc sâu và nâng cao kiến thức đã học
trong bài, đồng thời giúp học sinh biến những kiến thức thành kĩ năng, đặc biệt
đối với bộ môn lịch sử thì hoạt động luyện tập đóng vai trò quan trọng, vì qua đó
học sinh được tiếp cận, được thực hành qua các dạng bài tập khác nhau nhằm
“củng cố và ghi nhớ được kiến thức mà không phải bằng học thuộc hay ghi chép
máy móc” [1].
Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả cao ở hoạt động này thì giáo viên cần chú
ý những điểm sau:
13
- Luyện tập phải nhằm mục đích và yêu cầu nhất định, không dàn
trải hoặc tránh chỉ tập trung vào một nội dung. Xác định rõ nội dung trọng
tâm bài học mà học sinh cần khắc sâu, ghi nhớ để thiết kế phương pháp và kỹ
thuật phù hợp.
- Luyện tập phải đảm bảo mức độ vừa sức đối với học sinh, không
quá dễ, cũng ko nên quá khó gây hiệu ứng ngược. Ví dụ không nên có những
câu trắc nghiệm hỏi một cách quá đơn giản, ví dụ như: “Ngày 5-6-1911 có ý
nghĩa gì” trong nội dung Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925, hoặc “đây là ai” với
phương pháp nhận diện chân dung lịch sử bằng hình ảnh của Nguyễn Ái Quốc.
- Thời gian luyện tập không nên kéo dài và lặp đi lặp lại một hoạt
động dễ gây nhạt nhẽo và nhàm chán. Nên tổ chức các hoạt động luyện tập,
thực hành thông qua ít nhất 2 hoạt động (cũng không nên nhiều quá 3 hoạt động)
nhằm gây hứng thú cho học sinh, đồng thời qua đó kĩ năng của các em cũng
được rèn luyện.
Để cụ thể hơn, tôi xin giới thiệu một số phương pháp và kỹ thuật thực
hiện hoạt động luyện tập qua một số ví dụ sau:
Ví dụ 1: Ở bài “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (LSTG lớp 11)
Do đặc thù của bài là ôn tập, nên thiết kế phương pháp và kỹ thuật sẽ khó
hơn, đảm bảo không lặp với nội dung và cách thức đã tiến hành trong bài. Vì
vậy, sau khi tìm tòi và nghiên cứu kĩ, tôi sử dụng các phương pháp sau đây:
Bài tập 1: Nhận dạng chân dung lịch sử.
Giáo viên lựa chọn khoảng 3-4 chân dung nhân vật lịch sử (không nên
quá nhiều) và nêu nhiệm vụ đối với học sinh. Sau khi nhận dạng, mỗi đội giới
thiệu sự hiểu biết của mình về một trong 4 nhân vật trên.
Học sinh nào hoàn thành tốt, sẽ có phần thưởng.
Hình ảnh minh họa được cắt từ bài giảng
Bài tập 2: Chọn câu trả lời đúng
14
Câu 1: Trong các cuộc cách mạng tư sản sau cuộc cách
mạng nào được xem là triệt để và sâu sắc nhất?
A. Cách mạng tư sản Nêdeclan.
B. Cách mạng tư sản Anh.
C. Cách mạng tư sản Pháp.
D. Cải cách Minh trị (Nhật bản).
Câu 2: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã xác định giai cấp nào nắm quyền lãnh
đạo cách mạng?
A. Giai cấp công nhân
B. Giai cấp nông dân
C. Giai cấp tư sản
D. Giai cấp địa chủ phong kiến
Câu 3: Cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX chủ nghĩa tư bản phát triển:
A. Không đều về kinh tế và chính trị
B. Phát triển đồng đều
C. Chậm phát triển về mọi mặt
D. Chỉ phát triển về quân sự và thuộc địa
Lưu ý, khi thiết kế bài tập dạng này trên bằng giáo án điện tử, giáo viên
nên sử dụng hiệu ứng + âm thanh cho sinh động, hấp dẫn. Ví dụ khi trả lời trắc
nghiệm, giáo viên nên sử dụng đồng hồ đếm ngược có âm thanh tính thời gian
và có chuông báo hết giờ, như vậy sẽ tăng phần kịch tính.
Ví dụ 2: Ở bài “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 – 1925”
(tiết 2) – (LSVN lớp 12)
Do đặc trưng kiểu bài là tiếp thu và hình thành kiến thức mới chứ không
phải dạng bài ôn tập, nên tôi sử dụng 2 hoạt động sau đây:
Bài tập 1: Em hãy lựa chọn đáp án đúng vào các cột bên cho phù hợp với
kiến thức: (giáo viên chuẩn bị sẵn vào giấy A-0, học sinh lên bảng dùng bút dạ
tích trực tiếp vào)
TT Các hoạt động
Giai
Giai cấp Giai
cấp TS TTS
cấp CN
1
2
Chấn hưng nội hóa, bài trừ ngoại hóa (1919)
Xuất bản nhiều báo tiến bộ: Chuông rè, An
15
Nam trẻ, Người nhà quê...
3
Đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), và
để tang Phan Châu Trinh (1926)
4
Thành lập Đảng Lập hiến (1923)
5
Thành lập Công hội ở Sài Gòn – Chợ Lớn
(1920)
6
Thành lập các nhà xuất bản tiến bộ: Cường
học thư xã, Nam đồng thư xã…
7
Bãi công ở xưởng Ba Son (1925)
Bài tập 2: Tập thể và cá nhân
Đoạn video sau đây nói tới nội dung gì?
Giáo viên chiếu đoạn phim tư liệu (khoảng 1 phút) về những hình ảnh
trong quá trình hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919-1925 + nhạc bài hát
“Dấu chân phía trước”. Mục đích vừa củng cố, khắc sâu kiến thức, vừa giáo dục
tư tưởng, tình cảm của các em đối với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Nhạc nền
bài hát sẽ gây xúc động mạnh cũng là cao trào kết thúc bài học.
Hình ảnh minh họa cắt từ bài giảng
Thứ tư, hoạt động vận dụng, tìm tòi sáng tạo
Nhằm “tạo cơ hội cho học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng, thực nghiệm
giá trị đã được học vào trong cuộc sống”[1] ở thực tiễn gia đình, nhà trường và
cộng đồng, đồng thời khuyến khích các em tiếp tục tìm hiểu để mở rộng kiến
thức, từ đó giúp các em hiểu rằng không chỉ có kiến thức đã học trong SGK mà
còn nhiều điều cần học hỏi, khám phá.
Ví dụ, ở bài bài “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ 1919 –
1925” (tiết 2-LSVN lớp 12), tôi chia theo tổ, mỗi tổ sưu tầm những hình ảnh về
hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1925 (khuyến khích những hình
ảnh hiếm, ngoài sách GK), Yêu cầu: Kẹp thành quyển theo thứ tự thời gian và có
16
chú thích rõ ràng. Học sinh tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ tại nhà, sau đó báo
cáo sản phầm bằng bài thu hoạch.
Hoặc với bài Ôn tập lịch sử thế giới cận đại lớp 11, tôi giao nhiệm vụ cho
các em như sau: Từ những nội dung đã học, đặc biệt là cuộc chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914 – 1918), em hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày
suy nghĩ của bản thân về thông điệp của V. Hugo: “Hòa bình là đức hạnh của
nhân loại, chiến tranh là tội ác”. Học sinh tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ tại
nhà, sau đó báo cáo sản phầm bằng bài thu hoạch.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau thời gian nghiên cứu tìm tòi, áp dụng, tôi đã thu được những kết quả
như sau:
Thứ nhất, đối với hai giờ dạy “Phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam từ
1919 – 1925” (tiết 2-LSVN lớp 12) và “Ôn tập lịch sử thế giới cận đại” (LSTG
lớp 11): Tôi thiết kế và thực hiện các phương pháp trong hoạt động dạy học
theo hướng đổi mới, tuy còn những hạn chế nhất định nhưng khi thực hiện dạy
tại các lớp 12 và 11 do tôi đảm nhiệm đã thu được những kết quả tích cực, thể
hiện:
+ Lớp thực hiện dạy đổi mới và không đổi mới:
Lớp 12B1
Dạy học truyền thống x
Lớp 12B2
Lớp 12B5
Lớp 12B7
x
x
x
Dạy học theo phương
pháp mới
+ Đối với 2 lớp tôi dạy theo phương pháp truyền thống là 12B1 và 12B2, kết
quả thu được từ bài kiểm tra nhận thức là: (thực hiện đối với 80 em ở 2 lớp)
Kết quả bài kiểm tra
Tính phần trăm
Điểm giỏi (9-10)
10 bài
12,5%
Điểm khá(7-8)
21 bài
26,25%
17
Điểm TB(từ 5 -6)
37 bài
46,25%
Điểm yếu(từ 3-4)
11 bài
13,75%
Điểm kém (từ 0-3)
1 bài
1,25%
+ Đối với 2 lớp tôi thực hiện dạy theo phương pháp mới là 12B5 và 12B7, kết
quả thu được như sau: (thực hiện đối với 80 em ở 2 lớp)
Kết quả bài kiểm tra
Tính phần trăm
Điểm giỏi (9-10)
32 bài
40 %
Điểm khá(7-8)
35 bài
43,75%
Điểm TB(từ 5 -6)
12 bài
15 %
Điểm yếu(từ 3-4)
1 bài
1,25%
Điểm kém (từ 0-3)
không có
Nhìn vào kết quả so sánh từ 2 bảng trên ở các lớp ta thấy kêt quả khác hẳn
nhau: Đối với các lớp không thực hiện đổi mới: số điểm giỏi chỉ 10 bài chiếm tỉ
lệ 12,5%, chủ yếu là điểm TB là 37 bài chiếm tỉ lệ 46,25%. Điểm yếu còn nhiều,
thậm chí có một điểm kém.
Đối với 2 lớp thực hiện đổi mới: số điểm giỏi lên tới 32 bài chiếm tỉ lệ
40%, số điểm khá là 35 bài chiếm tỉ lệ 43,75%, điểm, số điểm TB giảm hẳn,
điểm yếu chỉ 1 bài, điểm kém không có.
Thứ hai, qua quan sát thực tế từ các giờ dạy áp dụng theo phương pháp
mới, tôi nhận thấy thái độ và tinh thần học tập của các em khác hẳn so với thời
gian chưa hoặc có áp dụng phương pháp mới nhưng chưa rõ ràng. Đó là các em
hăng hái đón nhận và hào hứng tham gia mọi hoạt động học. Cách các em sôi
nổi trao đổi, thảo luận, bàn bạc để cùng đưa ra hướng giải quyết hay đáp án cho
nhiệm vụ tôi giao. Cách các em hợp tác cùng làm việc đối với các hoạt động
ghép đôi, chia cặp. Và cả cách các em lặng yên khi cùng xem đoạn vi deo ngắn
đầy xúc động về quá trình ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ. Tôi vẫn nhớ
như in không khí lớp học trùng xuống, không một tiếng động, những đôi mắt
hướng về màn hình cùng lắng nghe trong tiếng nhạc da diết của bài “dấu chân
phía trước”. Kết thúc đoạn vi deo, nhiều tiếng nói từ phía các em vang lên: “xúc
động quá cô ơi”!!!
18
Thứ ba, đối với riêng bản thân tôi khi thực hiện phương pháp đổi mới trong
các hoạt động dạy học, tuy quá trình chuẩn bị một giờ dạy đòi hỏi công phu,
nghiên cứu, tìm tòi nhưng khi lên lớp tôi không còn phải nói nhiều hay viết bảng
nhiều. Với cách dạy mới, tôi chỉ đóng vai trò là cố vấn, là người hướng dẫn dẫn
dắt các em làm việc. Tôi cũng không phải nhìn thấy những ánh mắt mệt mỏi,
những trang vở ghi kín chữ của các em học sinh đối với bộ môn lịch sử nữa.
Thứ tư, hiệu ứng đặc biệt đem lại từ hoạt động vận dụng và tìm tòi, sáng
tạo là các em tích cực tìm tòi và đầu tư vào bài thu hoạch do tôi giao nhiệm vụ,
đặc biệt, các em cũng đã tìm tòi và khám phá nhiều kiến thức và hiểu biết về địa
phương, về lịch sử quê hương đất nước.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
Điều 8.2, Luật Giáo dục đã chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông cần
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc
điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ
năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho học sinh”[4].
Horaceman cũng đã nói: “Một ông thầy mà không dạy cho trò được việc
ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi”[3].
Và càng ngày chúng ta càng nhận ra tầm quan trọng của việc đổi mới
phương pháp dạy học. Đổi mới không chỉ để phù hợp với xu thế phát triển
chung của đất nước, của thế giới, mà đổi mới còn để đào tạo ra “thế hệ trẻ tương
lai không chỉ giỏi về kiến thức mà còn giỏi về kĩ năng”[3]. Đặc biệt đối với bộ
môn lịch sử, khi những quan niệm dường như đã ăn sâu vào suy nghĩ mọi người
rằng học môn lịch sử là phải thuộc, phải nhớ, phải ghi phải chép, rằng môn lịch
sử chẳng có gì hay ho ngoài những con số, những sự kiện khô khan...thì việc đổi
mới phương pháp dạy học là cách tốt nhất để chấm dứt những quan niệm sai lầm
về bộ môn lịch sử !
Có thể nói, phương pháp dạy học là một yếu tố quan trọng bậc nhất để mục
tiêu, chất lượng, hiệu quả giáo dục phổ thông đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo
dục, kỳ vọng của xã hội, đất nước trong bối cảnh hội nhập. “Tính cấp thiết việc
đổi mới phương pháp dạy học”[3] được đặt ra và đang quyết tâm thực hiện. Tuy
nhiên, đây không phải là câu chuyện đơn giản, giải quyết trong một sớm một
chiều, cần có một lộ trình nhất định, đặc biệt là nỗ lực, ý chí, từ nhiều phía, các
cấp quản lý giáo dục, đội ngũ giáo viên đến đối tượng học sinh chúng ta.
Thay cho lời kết, xin trích dẫn câu nói của TS Vũ Ngọc Anh, Viện Khoa
học Giáo dục Việt Nam chia sẻ quan điểm về đổi mới PPDH hiện nay: “Đổi mới
PPDH trong trường phổ thông không phải là một mong muốn chủ quan, một
phong trào quần chúng với sự tự nguyện hoặc không mà là một yêu cầu khách
quan, cấp thiết, có cơ sở pháp lý, lý luận, thực tiễn đối với mọi trường học, mọi
giáo viên” [3].
2. Kiến nghị:
Để góp phần vào việc đổi mới phương pháp giáo dục, tôi xin đưa ra một số kiến
nghị sau:
19
Một là, việc đổi mới phải được xác định rõ ràng là nhiệm vụ của tất cả các
cấp quản lý giáo dục, tất cả các thầy cô giáo và học sinh, nghĩa là phải đồng bộ
chứ không phải của riêng một cá nhân hay một đơn vị, càng không phải là việc
của riêng giáo viên vì “họ là người trực tiếp đứng lớp”.
Hai là, đổi mới là cần thiết, nhưng không vì thế mà quá nặng nề gây áp
lực cho cả giáo viên và học sinh, dẫn đến hiệu ứng ngược, chỉ mang tính đối
phó, thầy đạo diễn và trò là diễn viên hoặc chỉ thực hiện khi thao giảng hay
trong các cuộc thi.
Ba là, một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện tốt một giờ dạy
theo phương pháp đổi mới đó là việc ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng
đồ dùng dạy học. Vì vậy, đề nghị các cấp quản lý liên quan nên tạo điều kiện
thuận lợi về cơ sở vật chất và trang thiết bị cần thiết. Nếu những giờ dạy công
phu, giáo viên tự bỏ tiền túi để mua và thiết kế đồ dùng dạy học thì nhà trường
nên có chính sách khuyến khích hỗ trợ.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thọ Xuân, ngày 25 tháng 5 năm 2018
Người viết sáng kiến
Đặng Thị Thu Hằng
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tài liệu tập huấn: “Phương pháp và kỹ thuật tổ chức hoạt động học theo nhóm
và hướng dẫn học sinh tự học”. Bộ GD và ĐT
2. Đổi mới phương pháp dạy học. NXB GD.
20
3. Nguồn internet. Như:
- Báo giáo dục thời đại. Link: />- Báo Dân trí. Link: />- Báo giáo dục. Link: />4. Luật Giáo dục.
5. SGK môn Lịch sử Lớp 11. SGK môn Lịch sử lớp 12. NXB GD
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
21
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Thu Hằng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Lam Kinh
TT
Tên đề tài SKKN
1.
Vai trò của người giáo viên
chủ nhiệm trong việc góp
phần giảm tình trạng bạo lực
học đường ở trường THPT.
Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
Sở GD&ĐT
Thanh Hóa
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
C
Năm học
đánh giá
xếp loại
2017
MỤC LỤC:
Tên đề mục
Trang
I. MỞ ĐẦU
1
22
1.1. Lí do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu
3
II. NỘI DUNG
3
2.1. Cơ sở lí luận
3
2.2. Thực trạng vấn đề
4
2.3 Giải pháp
6
2.4. Hiệu quả áp dụng vào thực tế
15
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
17
3.1. Kết luận
17
3.2. Kiến nghị
18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC ĐỀ TÀI SKKN
23