Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong giờ học môn ngữ văn ở trường THPT thạch thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.58 KB, 15 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Những năm gần đây công nghệ thông tin phát triển, hầu hết ai cũng trang bị
cho mình những thiết bị hiện đại. Những trang mạng xã hội làm cho con người
yêu thích lối sống ảo. Họ chìm trong thế giới đó mà quên mất thế giới thật xung
quanh dẫn đến một hậu quả nặng nề là kĩ năng giao tiếp của con người hạn chế
trầm trọng. Từ đó còn dẫn đến nhiều hệ lụy khác như tình trạng bạo lực học
đường ngày càng tăng gây bức xúc dư luận. Có nhiều nguyên nhân, nhưng trong
đó không thể không kể đến yếu tố kĩ năng giao tiếp hạn chế dẫn đến mâu thuẫn
bất hòa, có đôi khi chỉ là lời nói đùa nhưng quá đà dẫn đến người nghe bức xúc,
gây phản ứng thành bạo lực học đường.
Cũng do sống ảo quá nhiều nên học sinh hiện nay học văn rất thụ động không
phát biểu ý kiến xây dựng bài. Vì vậy mà kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp ngày
càng trở nên đáng lo ngại.
Bản thân học sinh, gia đình không chú trọng việc học văn nên thời gian để
dành cho môn học này rất ít, có nhiều học sinh bỏ mặc hoặc học qua loa theo
kiểu đối phó. Vì vậy rèn luyện kĩ năng giao tiếp gặp không ít khó khăn trong giờ
học văn.
Ông bà ta từng dạy : “ Học ăn, học nói, học gói, học mở “. Không phải ngẫu
nhiên mà “ học nói” được xếp vào vị trí thứ hai của câu nói. Điều này cho thấy
nói cũng là một kỹ năng rất quan trọng trong giao tiếp hàng ngày. Trên thực tế,
việc dạy học môn Ngữ Văn hiện nay không phải khi nào cả bốn kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết đều được chú trọng rèn luyện và phát triển đồng thời. Thông
thường, cả người biên soạn sách lẫn người dạy thường quá chú trọng vào việc
dạy các tri thức Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn hay đọc diễn cảm, đọc hiểu mà bỏ
qua kĩ năng nghe, nói. Có một thực tế nữa là nhiều thế hệ học sinh khi ra đời
nhiều khi không biết “lắng nghe, thấu hiểu”, không biết nói ra những điều mình
nghĩ, không truyền đạt chính xác thông tin hoặc không nói đúng theo quy tắc
giao tiếp, không biết cách đọc hiểu chính xác một văn bản ..v..v. Có học hành
bài bản, rèn luyện kĩ lưỡng thì có thể nói đúng được điều mình cần nói, giúp cho


người nghe dễ dàng “hiểu” được điều mình cần trao đổi, bàn bạc để tìm ra tiếng
nói chung.
Tóm lại, ai cũng có thể nói đúng, nói hay nếu quyết tâm học tập, rèn luyện
để trở thành một người “lập ngôn”.
Bàn về mục tiêu dạy học môn Ngữ văn, người biên soạn sách khẳng định:
“Trọng tâm của việc rèn luyện kĩ năng Ngữ văn cho học sinh là làm cho học
sinh có kĩ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn
bản”.
Xuất phát từ mục tiêu trên, tôi thấy rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh
trong trong giờ dạy Ngữ văn nói riêng và trong nhà trường nói chung có một vai
trò hết sức quan trọng. Luyện nói trong giờ dạy Ngữ văn là để nói trong môi
1


trường giao tiếp tập thể. Đứng trước môi trường này, nhiều em học sinh thường
ngày vốn biết ăn nói sinh động, bỗng trở nên lúng túng, ngượng nghịu. Luyện
nói trong giờ dạy Ngữ văn là nói theo những chủ đề, vấn đề không quen thuộc
trong đời sống hàng ngày, lại yêu cầu nói mạch lạc, liên kết, không được tuỳ
tiện. Do đó cần phải luyện tập trong môi trường giao tiếp tập thể, xã hội.
Năng lực viết của học sinh cố nhiên là quan trọng, song đó là ngôn ngữ trừu
tượng vì chỉ có ngôn ngữ viết không có yếu tố khác bổ trợ. Còn ngôn ngữ nói là
phương tiện giao tiếp có âm thanh, có ngữ điệu, có sức truyền cảm trực tiếp, có
sự phối hợp biểu đạt của tư thế, nét mặt, âm vực, có sự giao cảm trực tiếp giữa
người nói và người nghe. Nắm vững ngôn ngữ này các em sẽ có thêm một công
cụ giao tiếp sắc bén trong đời sống xã hội.
Luyện nói cho học sinh trong môn học Ngữ văn tuy không phải là một vấn
đề mới mẻ nhưng là một vấn đề khó, đòi hỏi người giáo viên phải biết làm thế
nào để các em làm quen với kĩ năng phát biểu miệng, biết trình bày miệng một
câu chuyện, một bài thơ, một vấn đề … một cách chân thật, sinh động bằng
chính ngôn ngữ, tình cảm của các em trước tập thể lớp.

Bản thân tôi đang trực tiếp giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THPT Thạch
Thành 2, một ngôi trường thuộc miền núi, đa số gia đình học sinh làm nông
nghiêp rất vất vả, khó khăn, các em ít có cơ hội được giao lưu, học hỏi hay tham
gia các lớp tập huấn kĩ năng sống, phương tiện truyền thông hiện đại cũng thiếu
vì vậy các em thường có tâm lí rụt rè, e ngại khi giao tiếp.
Đó chính là lý do tôi chọn đề tài này: “Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng
giao tiếp cho học sinh trong giờ học môn Ngữ Văn ở trường THPT Thạch
Thành 2”.
1.2. Mục đích đề tài
Ở chương trình Ngữ văn THPT, mặc dù số giờ luyện nói là khá ít nhưng nếu
giáo viên bỏ qua hoặc lơ là những tiết học này thì chắc chắn học sinh sẽ không
phát huy được năng lực nói của mình. Chính vì thế, với mục đích nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả của những tiết luyện nói đối với học sinh THPT,
trong phạm vi hạn hẹp của đề tài nghiên cứu này, tôi xin mạnh dạn chia sẻ
những điều bản thân đã lĩnh hội được trong quá trình giảng dạy những tiết luyện
nói trong chương trình Ngữ Văn lớp 10, 11, 12 theo sách giáo khoa mới đang
hiện hành.
1.3 Đối tượng
Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong giờ học môn
Ngữ Văn ở trường THPT Thạch Thành 2”.
1.4 Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dậy dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- phương pháp thống kê…
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1 Cơ sở lý luận
2


Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng

của chiến lược dạy học các môn ngôn ngữ ở trường phổ thông. Hiện nay, các
nước trên thế giới rất coi trọng quan điểm này, lấy hoạt động giao giao tiếp là
một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ mà
cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết cho người học.
Nếu như nghe và đọc là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động tiếp nhận
thông tin, thì nói và viết là hai kỹ năng quan trọng của hoạt động bộc lộ, truyền
đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Luyện nói trong nhà trường là giúp học sinh có thói quen nói trong những
môi trường giao tiếp khác nhau. Nó được thực hiện một cách hệ thống, theo
những chủ đề nhất định, gắn với những vấn đề quen thuộc trong cuộc sống hàng
ngày, đảm bảo những yêu cầu cơ bản về ngôn ngữ và phi ngôn ngữ ( lời, mạch
lạc, liên kết, các nghi thức lời nói, quy tắc hội thoại, cử chỉ, nét mặt, âm lượng,
sức hấp dẫn,...). Luyện nói tốt sẽ giúp người học có được một công cụ giao tiếp
hiệu quả trong cuộc sống xã hội.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trên thực tế, việc dạy tiết rèn luyện kĩ năng giao tiếp trong môn Ngữ văn
hiện nay hiệu quả chưa cao, điều ấy xuất phát từ một số thực trạng như sau:
- Học sinh thường không chủ động, có tâm lí e dè, ngại nói hoặc không tự
tin khi nói, đặc biệt là học sinh vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Khi tham gia luyện nói, lời nói của các em không tự nhiên, nói lủng củng,
ngập ngừng, không rõ ràng, không diễn đạt được điều muốn nói, không biết kết
hợp các yếu tố phi ngôn ngữ như: cử chỉ, nét mặt, âm lượng…
- Trong bài nói thường sử dụng nhiều từ địa phương, điều ấy sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động giao tiếp của các em trong cộng đồng xã hội sau này.
- Giờ luyện nói trên lớp: học sinh thường nói như đọc (học thuộc lòng bài
nói rồi lên lớp đọc lại), làm cho việc nói, trình bày thiếu tự nhiên, thiếu tư thế và
tác phong phù hợp.
- Học sinh chuẩn bị bài chưa kĩ nên các em không chủ động được trong việc
trình bày bài nói.
- Có những học sinh chuẩn bị kĩ bài ở nhà nhưng lại thiếu tự tin, khi lên

trình bày bị tâm lí, run nên quên mất nội dung đã chuẩn bị.
- Trong một lớp học, đặc biệt là các lớp đại trà, chỉ có khoảng 8-9 em là nói
năng lưu loát, tự nhiên, những học sinh này đa số là cán bộ lớp, cán bộ đoàn,
còn lại các em thường có tâm lí “ngại nói”, ngại bộc lộ.
Với thực trạng nêu trên, chắc chắn giáo viên sẽ gặp nhiều khó khăn khi tổ
chức tiết luyện nói.Từ đó ta thấy vấn đề đặt ra là: Phải tạo cho học sinh sự tự tin,
mạnh dạn, tinh thần chủ động, bồi dưỡng thêm vốn từ, rèn luyện kĩ năng nói và
hình thành những chuẩn mực trong bài nói nhằm nâng cao chất lượng tiết luyện
nói cho học sinh, góp phần thực hiện thành công mục tiêu dạy học môn Ngữ
văn.
3


2.3. Giải pháp:
Để hoàn thành những định hướng đặt ra và giải quyết những vấn đề đã nêu,
tôi xin trình bày một số giải pháp như sau:
2.3.1.Rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong tất cả các giờ Ngữ
văn.
Giáo viên Ngữ văn khó có thể phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh nếu
chỉ trông chờ vào số tiết luyện nói trong chương trình sách giáo khoa. Mặc dù
sách giáo khoa đã đổi mới theo hướng quan tâm tới việc rèn luyên kỹ năng nói
cho học sinh, phân phối mỗi khối lớp để có tiết luyện nói ở cả hai học kỳ, nhưng
số tiết luyện nói còn ít, các tiết luyện nói được phân bố cụ thể như sau:
- Lớp 10:
+ Tiết 3, tiết 5: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
+ Tiết 17: Chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu trong bài văn tự sự.
+ Tiết 26: Đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết
+ Tiết 34: Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
+ Tiết 37: Tóm tắt văn bản tự sự.
+ Tiết 50: Trình bày một vấn đề

+ Tiết 78: Tóm tắt văn bản thuyết minh.
- Lớp 11:
+ Tiết 3, 12: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân.
+ Tiết 60: Phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.
+ Tiết 71: Luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.
+ Tiết 101: Thao tác lập luận bình luận.
+ Tiết 104: Luyện tập thao tác lập luận bình luận.
- Lớp 12:
+ Tiết 3: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí.
+ Tiết 13: Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
+ Tiết 17: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
+ Tiết 20: nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
+ Tiết 26: Phát biểu theo chủ đề.
+ Tiết 90: Phát biểu tự do.
Nếu không có sự chuẩn bị ngay từ đầu năm học thì chắc chắn giáo viên sẽ
gặp không ít trở ngại khi tổ chức các giờ học. Vậy nên, chú trọng việc luyện kĩ
năng giao tiếp cho học sinh mọi lúc, mọi nơi có thể thực hiện được vì việc này
không quá khó, nhất là khi giáo viên Ngữ Văn thực sự muốn đạt hiệu quả trong
những giờ luyện nói.
2.3.2. Phát huy kĩ năng giao tiếp của học sinh trong sinh hoạt hàng ngày
- Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng
trong các giờ học, giáo viên nên tiếp xúc với học sinh trong những lúc ngoài giò
lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm tư,nguyện vọng của các em, ngoài
ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em thái độ tự tin, mạnh dạn. Trên
thực tế, khi giáo viên làm được việc đó thì những em vốn rất nhút nhát, không
dám trao đổi với thầy, cô trong cuộc sống dần dần sẽ bớt e ngại, rụt rè và trở
4


nên dạn dĩ hơn, tiếp xúc với giáo viên, bạn bè, tập thể một cách tự nhiên.

2.3.3. Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi.
- Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng nửa tháng hoặc một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay
chia lớp từ 3 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học đó có đề tài phong
phú).
- Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói. Có thể là cá nhân tự chuẩn bị, có thể là cho nhóm thảo luận để
chọn đại diện lên nói. Giáo viên Ngữ văn nên hướng học sinh có thái độ cùng
nhau hợp tác. Thời gian để thảo luận là 5 phút.
- Không khí của giờ luyện nói: nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
Trọng tâm của những giờ học này là luyện nói, giáo viên nên danh nhiều
thời gian cho học sinh lên nói (30 phút), và số lượng học sinh lên trình bày phải
từ 8 đến 10 học sinh, số còn lại sẽ được nói ở những tiết sau.
2.3.4. Hình thành những chuẩn mực giao tiếp cần phải đạt đến.
Công việc này cũng được thực hiện ngay trong tiết 3 lớp 10, 11, 12 và
được nhắc lại nhiều lần, chẳng những trong giờ luyện nói sau mà cũng cần tích
hợp ngay khi có điều kiện. Mục đích của việc làm này là để các em có thể thấm
nhuần, thuộc lòng những tiêu chuẩn và thực hiện theo. Những chuẩn mực cần cụ
thể, rõ ràng để các em dễ tiếp thu, được ghi vào vở:
- Phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi nói:
Thông thường, giáo viên Ngữ văn yêu cầu học sinh phải chuẩn bị dàn bài,
dàn bài nên ngắn gọn, nêu được các ý chính và học sinh sẽ dựa vào đó để nói.
Trong những quyển sách giới thiệu kỹ năng hoạt động của thanh thiếu niên, nhà
biên soạn Tôn Thất Sam và Nguyễn Thị Khiết cũng đồng ý với đề xuất này
trong quyển “Học sinh với kỹ năng thuyết trình và diễn đạt ý tưởng” (NXB Trẻ).
Còn nếu có những học sinh kỹ năng tốt hơn, ta có thể cho các em chuẩn bị bằng

cách lập dàn bài và cũng động viên các em còn lại chuẩn bị theo hướng này thì
sẽ rất tốt. Vấn đề còn phụ thuộc vào đặc thù của mỗi lớp, giáo viên cũng nên
linh động để học sinh có thể tự tin hơn khi bắt đầu bài nói.
Trở lại yêu cầu thứ nhất, giáo viên phải giúp học sinh chuẩn bị tốt nội dung
bài nói:
- Nội dung bài nói bao gồm các vấn đề:
+ Nói cái gì? (xác định đề tài).
+ Nói với ai? (xác định đối tượng giao tiếp).
+ Nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn cảnh giao tiếp).
+ Nói như thế nào? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người nghe).
- Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói.
- Tránh đọc lại hoặc thuộc lòng bài văn, chi tiết đã chuẩn bị.
5


- Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt).
- Tác phong tự nhiên tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng
mọi người.
- Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
- Có lời chào khi kết thúc bài nói.
2.3.5. Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề.
Nếu có điều kiện, giáo viên Ngữ văn nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài
giờ cho học sinh (khoảng 2 buổi trên năm). Mục đích của công việc này là giúp
học sinh có thêm thời gian để trau dồi kĩ năng luyện nói.
- Nội dung buổi sinh hoạt có thể lấy những đề tài từ gần gũi như: “Hình ảnh
người thầy trong ca dao, tục ngữ” nhân ngày 20/11, “Trao đổi kinh nghiệm học
tập” hay đến những đề tài gắn với chủ đề của giờ luyện nói đã học trên lớp
- Hình thức: giống như buổi thuyết trình.

+ Giáo viên chia từng nhóm chuẩn bị đề tài để trình bày.
+ Khi kết thúc nên có sự tổng kết, nhận xét, động viên, khen ngợi.
Ý nghĩa của việc làm này sẽ tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm, tạo tiền đề
cho các em vững vàng hơn trong khi học tiết luyện nói trong những tiết học tiếp
theo và tự tin hơn trong cuộc sống hàng ngày.
2.3.6. Định hướng tổ chức thực hiện tiết luyện kĩ năng giao tiếp trên
lớp.
* Định hướng:
Hoạt động 1: Giới thiệu bài.
- Giáo viên nêu vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng
nói và nói trước tập thể của mỗi người.
Hoạt động 2: Tổ chức cho học sinh chuẩn bị nội dung nói
- Giáo viên nhắc lại các yêu cầu của tiết luyện nói về nội dung bài nói và
hình thức trình bày.
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm, yêu cầu các nhóm chuẩn bị đề cương.
- Học sinh trao đổi trong nhóm để thống nhất đề cương.
Hoạt động 3: Tổ chức cho học sinh luyện nói trong nhóm.
- Giáo viên chia lớp ra thành một số nhóm, điều này tuỳ thuộc vào số lượng
học sinh của lớp, thường là từ 7 – 10 em một nhóm.
- Cử một nhóm trưởng có trách nhiệm điều khiển các thành viên trong nhóm
hoạt động: Gọi hoặc yêu cầu các thành viên trình bày trước nhóm. Sau mỗi lần
phát biểu rút ra nhận xét, bổ sung ý kiến.
Hoạt động 4: Tổ chức cho học sinh luyện nói trước lớp.
- Gọi đại diện các nhóm lên phát biểu trước lớp.
- Học sinh các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
- Giáo viên nhận xét chung (những ưu điểm và những mặt cần cố gắng khắc
phục), động viên, khích lệ những cố gắng, nỗ lực của học sinh và cho điểm.
Đối với việc luyện nói trước lớp giáo viên cần lưu ý các đối tượng học sinh
6



tham gia luyện nói. Nên để cho học sinh yếu, trung bình trình bày trước, học
sinh khá, giỏi trình bày sau để các em tự tin hơn, bớt những mặc cảm của bản
thân.
Nên tránh tình trạng một số em mạnh dạn, nói lưu loát (được cử làm đại
diện nhóm), trình bày trước lớp suốt trong các giờ luyện nói. Cần khuyến khích
các em vốn tính nhút nhát, rụt rè luyện nói trước tập thể lớp.
*Áp dụng vào tiết dạy cụ thể:
TIẾT: 50
Lớp dạy: 10C4
Trường : THPT Thạch Thành 2.
TRÌNH BÀY MỘT VẤN ĐỀ
MỤC TIÊU CẦN ĐẠT:
1. Về kiến thức : Nắm được tầm quan trọng và các yêu cầu cơ bản,
các bước chuẩn bị của việc trình bày một vấn đề trước nhiều người, tức
là khả năng lập ngôn và thuyết phục người nghe đồng ý, đồng tình, đồng
cảm với luận điểm của mình.
2. Về kĩ năng: Nhận ra các tình huống trình bày trước tập thể một vấn
đề theo đề cương đã chuẩn bị.
3. Về thái độ : Rèn luyện tính tự tin và khả năng tự điều chỉnh bài nói
cho phù hợp với đối tượng và tình huống cụ thể
I. CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS :
1.Giáo viên: Sách giáo khoa, sách chuẩn kiến thức, giáo án.
2. Học sinh: Sách giáo khoa, vở soạn, vở học.
II. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC:
1. Ổn định tổ chức lớp:
2. Kiểm tra bài cũ:
3. Bài mới:
Hoạt động của gv và hs
Hoạt động 1: Tìm hiểu tầm quan

trọng của việc trình bày một vấn
đề:
? Trình bày một vấn đề có vai trò
ntn trong cuộc sống và học tập?
[ công việc này không dễ nên phải
rèn luyện một số thao tác…
Hoạt động 2: Công việc chuẩn bị
để trình bày một vấn đề

Nội dung kiến thức cần đạt
I. Tầm quan trọng của việc
trình bày một vấn đề:
Trong cuộc sống và học tập, nhiều
lúc chúng ta cần phải trình bày một
vấn đề nào đó để bày tỏ suy nghĩ, nhận
thức của mình cũng như thuyết phục
mọi người cảm thông và đồng tình với
mình.
II. Công việc chuẩn bị:
1. Chọn vấn đề trình bày:
7


? Chn vn trỡnh by ntn? V
phi cú suy ngh v xỏc nh ra
sao?

CHO HS LP DN í TRèNH BY
AN TON GT L HNH PHC
CA MI NGI ( Tr 181 - Sỏch


giỏo ỏn ) lp nhn xột, b sung;
GV khỏi quỏt.
? Khi lp dn ý cho bi trỡnh by
chỳng ta cn phi lm gỡ?
Hot ng 3: Trỡnh by
CHO HS TRèNH BY AN TON
GT L HNH PHC CA MI
NGI
CHO HS THC HNH CC PHN:

? Cho hi vi cỏc i tng khỏc
nhau/ Nờu lớ do
? Gii thiu ND chớnh, trỡnh by
tng ý, chuyn on
? Ngoi ra ngi trỡnh by cn chỳ
ý iu gỡ?
? Kt thỳc bi núi
? Cỏm n ngi nghe

Chn vn trỡnh by cn tựy thuc
vo ti. V cn xỏc nh:
- ti trỡnh by cú bao nhiờu vn .
- Ngi nghe l nhng ai (tui tỏc,
trỡnh , gii tớnh, ngh nghip) v
h quan tõm vn gỡ?
- Bn thõn phi am hiu v thớch thỳ
vn .
2. Lp dn ý cho bi trỡnh by:
- Cn trỡnh by bao nhiờu ý?

- Cỏc ý ú sp xp ra sao?
- T ú lp dn ý.
- Chun b trc nhng cõu cho hi,
kt thỳc, chuyn ý v d kin iu
khin ging iu, c ch khi núi
III. Trỡnh by:
1. Bt u trỡnh by:
- Cho hi ngn gn, y nht.
- Nờu lớ do trỡnh by.
2. Trỡnh by ni dung chớnh:
- Ni dung chớnh l gỡ, gm bao nhiờu
phn.
- S chuyn ý, on.
- Quan sỏt thỏi ca ngi nghe
iu chnh cho phự hp.
3. Kt thỳc v cm n:
- Túm tt, nhn mnh mt s ý.
- Cỏm n ngi nghe.
* Ghi nh( SGK Tr 150 )
IV. Luyn tp:
1. Bi tp 1 Tr 150:
1. ( 1 ):E, F, G.
2. ( 2 ):D.
3. ( 3 ):B, A.
4. ( 4 ):C,H.
2. Bi tp 3 Tr 151:
THN TNG CA TễI

4. Cng c:
5. Dặn dò: - Làm bài tập còn lại ở sgk.

- Chuẩn bị bài: lập kế hoạch cá nhân.

8


Tiết 104:
LUYỆN TẬP THAO TÁC LẬP LUẬN BÌNH LUẬN
Lớp dạy: 11B4
Trường : THPT Thạch Thành 2.
I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT.
1. Kiến thức:
Giúp cho hs:
- Củng cố những kiến thức về thao tác lập luận bình luận viết được một vài
đoạn văn bình luận (hoặc một văn bản bình luận ngắn) về một chủ đề gần gũi
với cuộc sống và suy nghĩ của học sinh.
2. Kĩ năng:
Biết vận dụng thao tác lập luận bình luận vào viết văn và ứng xử trong cuộc
sống.
3. Thái độ:
- Ý thức nhận xét, đánh giá, bàn bạc trước bất cứ một hiện tượng trong cuộc
sống nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của bản thân và xã hội..
II. CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS:
1. Giáo viên:
- Soạn bài; chuẩn bị một số văn bản làm tư liệu.
- Phiếu học tập.
- Sau khi dạy xong tiết 12, giáo viên dành ra 5 phút phân công và yêu cầu
học sinh về nhà chuẩn bị cho tiết luyện nói.
- Giáo viên chia lớp làm 3 nhóm:
+ Nhóm 1 (Tổ 1): Nhóm trưởng: Bùi Thị Thủy.
+ Nhóm 2 (Tổ 2): Nhóm trưởng: Nguyễn Phương Lan.

+ Nhóm 3 (Tổ 3): Nhóm trưởng: Phạm Văn Phúc.
(Giáo viên giao trách nhiệm cho nhóm trưởng: Điều khiển các thành viên
trong nhóm hoạt động luyện nói, cử đại diện nhóm lên phát biểu trước lớp)
- Yêu cầu chuẩn bị:
+ Lập dàn ý cho các đề tài:
“ Lời ăn tiếng nói của một học sinh văn minh, thanh lịch”
“ Vệ sinh an toàn thực phẩm”
“ Thời trang và tuổi trẻ”
+ Luyện nói theo dàn ý (Chú ý đảm bảo nội dung, ngữ điệu, tác phong, cử
chỉ, điệu bộ phù hợp nội dung bài nói, phải có lới chào, lời giới thiệu, lời cảm ơn
- Phương pháp: thảo luận nhóm, phát vấn, thuyết trình...
2. Học sinh:
- Hs chủ động tìm hiểu bài qua hệ thống câu hỏi sgk.
- Soạn bài theo câu hỏi phần hướng dẫn học bài.
- Chuẩn bị dàn ý theo hướng dẫn của giáo viên.
III. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
9


1. Ổn định tổ chức:
2. Kiểm tra bài cũ: Giáo viên gọi 3 nhóm trưởng báo cáo kết quả kiểm tra
việc chuẩn bị bài của học sinh.
3.Giới thiệu bài mới:
Ngày nay, nhiều vấn đề nóng hổi của xã hội luôn xuất hiện. Việc bình luận
về những vấn đề đó đòi hỏi phải nắm vững kĩ năng mới thuyết phục được người
đọc, người nghe. Luyện tập thao tác lập luận bình luận là để củng cố thêm sự
hiểu biết về kĩ năng bình luận.
Hoạt động của Gv và Hs
Nội dung cần đạt
Hoạt động 1: Gv hướng dẫn Hs giải bài I. Bài tập 1

tập 1 sgk.
1. Đề tài: Anh chị viết 1 bài văn bình
luận để tham gia diễn đàn do Đoàn
Thanh niên tổ chức với đề tài: “Lời
ăn tiếng nói của 1 học sinh văn minh,
thanh lịch”.
a. Xác định cách viết:
- Học sinh thảo luận theo nhóm Xác - Đề tài được bình luận đang là vấn
đề đang được quan tâm hiện nay
định cách viết.
+ Vì sao bài văn tham gia diễn đàn là trong nhà trường.
- Nên chọn 1 khía cạnh của đề tài:
bài bình luận?
+Anh chị nên chọn toàn bộ hay chỉ 1 Biết nói lời “Cảm ơn”.
b. Dàn ý:
khía cạnh của đề tài ?
- Trong giao tiếp giữa con người với
- Học sinh làm dàn ý theo nhóm.
- Học sinh trình bày các bước lập luận, nhau, 1 qui tắc đòi hỏi chúng ta phải
thực hiện là nói lời “làm ơn” và sau
bình luận.
đó “cảm ơn”.
- Đối với “Lời ăn tiếng nói của một
học sinh văn minh, thanh lịch” nói
lời “Cảm ơn” còn chúng tỏ sự hiểu
biết và có nếp sống văn hoá trong
giao tiếp hằng ngày.
- Cần tập làm quen với lời “Cảm ơn”
và biết “Cảm ơn” vì cuộc sống luôn
đòi hỏi chúng ta phải có thái độ văn

minh, lịch sự trong ứng xử.
c. Xây dựng tiến trình lập luận:
- Nêu hiện tượng (vấn đề) cần bình
luận.
- Đánh giá hiện tượng (vấn đề) cần
bình luận.
- Bàn về hiện tượng (vấn đề) cần
bình luận.
2. Viết đoạn văn bình luận.
10


Hoạt động 2: Gv hướng dẫn hs các
bước:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh viết
đoạn văn
- Học sinh thảo luận theo nhóm và
trình bày, đại diện nhóm trình bày, giáo
viên nhận xét.
Tương tự như trên Hs có thể chọn khía
cạnh chống “nói tục”

Hoạt động 3:
Gv hướng dẫn Hs làm bài tập 2 theo
quy trình:
Xác định cách viết
Lập dàn ý
Xây dựng tiến trình lập luận
Viết đoạn vặn bình luận.
Trình bày.


a. Trình bày luận điểm 1:
- Đối với học sinh, lứa tuổi đang còn
ngồi trên ghế nhà trường thì nói lời
“Cảm ơn” là thể hiện sự văn minh,
lịch thiệp của người học trò. Cuộc
sống có biết bao nhiêu điểm cần lời
“Cảm ơn”. Tập làm quen với “Cảm
ơn” và sau đó là “Cảm ơn” là để
hình thành nếp sống có văn hoá.
- Trong giao tiếp , khi nói lời “Cảm
ơn” là tự đáy lòng đã dâng lên niềm
vui sướng và hạnh phúc của tình cảm
chân thực nhất. Cảm giác ấy sẽ càng
được nhân lên gấp bội khi hang ngày
chúng ta trao cho nhau những lời nói
chân thành, lịch thiệp: “Cảm ơn”.
II.Bài tập 2:
* Đề bài: Bàn về hiện tượng vệ sinh
an toàn thực phẩm.
1. Lập dàn ý
2. Luyện nói theo nhóm (tổ):
- Nhóm trưởng điều hành các hoạt
động của nhóm.
- Chọn ít nhất 03 HS thuộc 03 đối
tượng giỏi, khá, trung bình phát biểu.
- HS trong nhóm nghe bạn phát biểu,
nhận xét.
- Chọn bài phát biểu hay lên trình bày
trước lớp (đại diện nhóm trình bày).

3. Luyện nói trước lớp:
- Yêu cầu nhận xét về:
+ Nội dung, tình cảm.
+ Cách diễn đạt, dùng từ.
+ Phong cách.
+ Giọng điệu.

 GV tổng kết giờ “Luyện nói”: nhận
xét tinh thần, ý thức học tập, hoạt động
của từng nhóm, của lớp; khích lệ
những mặt các em đã làm được; rút
kinh nghiệm và khắc phục những
nhược điểm còn tồn tại
4. Củng cố:
- Hệ thống hóa bài học bằng cách nhác lại những kiến thức cơ bản về thao tác
lập luận bình luận.
- Hoàn thành bài tập, dàn ý.
5. Dặn dò:
- Đọc, soạn: Về luân lí xã hội ở nước ta.
11


2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, bản
thân, đồng nghiệp, nhà trường.
Sau khi áp dụng những giải pháp như đã nêu, cho đến thời điểm này thì kĩ
năng nói của học sinh đã có sự chuyển biết tương đối tốt. Cụ thể: Số học sinh có
khả năng trình bày một vấn đề, phát biểu miệng một cách tự tin, trôi chảy, đạt
yêu cầu qua hoạt động thảo luận ở các giờ luyện nói tại các lớp 11C4, 11B4,
Trường THPT Thạch Thành 2 như sau:
ĐẦU NĂM HỌC 2018-2019:

Lớp
10C4 (Lớp đối chứng)
11B4 (Lớp thực nghiệm)

Tổng
số
43
35

Điểm
dưới 5
SL
%
23 53,5
15 42,9

Điểm 5-6
SL
10
10

%
23,3
28,6

Điểm 7- Điểm 98
10
SL % SL %
5 11,6
5 11,6

5 14,3 5 14,3

CUỐI NĂM HỌC 2018-2019:
Lớp
11C4 (Lớp đối chứng)
11B4 (Lớp thực nghiệm)

Tổng
số
43
35

Điểm
dưới 5
SL
%
11 25,6
8 22,8

Điểm 5-6
SL
12
5

%
27,9
14,2

Điểm 7- Điểm 98
10

SL % SL %
14 32,5 6 13,9
12 34,2 10 28,6

Qua hai bảng số liệu thống kê và so sánh về kết quả trước và sau khi áp dụng
các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả một giờ luyện kĩ năng giao tiếp, trải qua
thực tế giảng dạy tại trường THPT Thạch Thành 2, bản thân tôi nhận thấy:
- Đa số các em không còn rụt rè, e ngại, thiếu tự tin khi đứng trước đám
đông để luyện nói mà đã dạn dĩ, tự tin, thái độ cởi mở hơn.
- Không khí lớp học hào hứng, sôi nổi, các em thích được học những tiết
luyện nói hơn.
- Bài nói do có sự chuẩn bị chu đáo nên khi trình bày các em không có sự
ngập ngừng, ấp úng, nội dung cũng trọn vẹn, đầy đủ hơn. Do đó, đa số bài nói
đều hoàn chỉnh hơn lúc trước.
- Kỹ năng giao tiếp của các em đã có sự tiến bộ: các em biết chào khi mở
đầu và khi kết thúc, biết giới thiệu đề tài, cách nói cũng trôi chảy, gãy gọn, đúng
chính âm, có kết hợp những yếu tố phi ngôn ngữ (cử chỉ, nét mặt, thái độ…).
III. Kết luận, kiến nghị
1.Kết luận:
1.1.Tóm lược giải pháp:
Muốn giờ luyện kĩ năng giao tiếp đạt hiệu quả cần chú ý những giải pháp
như sau:
1.1.1. Rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh trong các giờ Ngữ văn.
12


chú trọng việc luyện nói cho học sinh mọi lúc, mọi nơi, trong tất cả các tiết
dạy Ngữ văn thông qua các hoạt động kiểm tra bài cũ, trao đổi, thảo luận nhóm,
phát biểu xây dựng bài…
1.1.2. Phát huy kĩ năng giao tiếp của học sinh trong sinh hoạt hàng

ngày
- Ngoài việc chú trọng cho học sinh tập làm quen với việc trình bày miệng
trong các giờ học, giáo viên nên tiếp xúc với học sinh trong những lúc ngoài giò
lên lớp. Đó là những trao đổi để tìm hiểu tâm tư,nguyện vọng của các em, ngoài
ra còn nhằm mục đích khác là tạo cho các em thái độ tự tin, mạnh dạn.
1.1.3. Tạo cho học sinh hoàn cảnh giao tiếp thuận lợi.
Trước mỗi tiết luyện nói, giáo viên cần cho học sinh chuẩn bị đề tài trước
khoảng nửa tháng hoặc một tuần. Có thể giao cho các em cùng một đề tài hay
chia lớp từ 3 đến 6 nhóm, mỗi nhóm một đề tài (nếu tiết học đó có đề tài phong
phú).
- Vào giờ học, giáo viên cần cho thời gian để các em có thể chuẩn bị tư thế
trước khi lên nói.
- Không khí của giờ luyện nói: nên tạo được sự hào hứng cho lớp học, cho
từng em học sinh, làm cho các em phấn khởi, mong muốn được lên trình bày bài
nói của mình. Để kích thích học sinh, giáo viên nên đánh giá khen ngợi, khuyến
khích bằng cách cho điểm, tặng những tràng pháo tay động viên sau mỗi bài nói
tốt.
1.1.4. Hình thành những chuẩn mực giao tiếp cần phải đạt đến.
Phải có sự chuẩn bị thật kỹ trước khi nói: giáo viên Ngữ văn yêu cầu học
sinh phải chuẩn bị dàn bài, dàn bài nên ngắn gọn, nêu được các ý chính và học
sinh sẽ dựa vào đó để nói.
Nội dung bài nói bao gồm các vấn đề: Nói cái gì? (xác định đề tài).Nói với
ai? (xác định đối tượng giao tiếp). Nói trong hoàn cảnh nào? (xác định hoàn
cảnh giao tiếp). Nói như thế nào? (cách thức giao tiếp để thuyết phục người
nghe).
+ Có lời chào khi bắt đầu nói, giới thiệu đề tài sắp nói.
+ Tránh đọc lại hoặc thuộc lòng bài văn, chi tiết đã chuẩn bị.
+ Giọng nói rõ ràng, cao độ vừa phải, đúng chuẩn ngữ âm, truyền cảm và
thuyết phục người nghe (biết lên trầm xuống bổng hoặc thể hiện cảm xúc chân
thành, tự nhiên, không gò bó, áp đặt).

+ Tác phong tự nhiên tự chủ, phản xạ ngôn ngữ nhanh nhạy, mắt nhìn thẳng
mọi người.
+ Không nói ra ngoài những gì mà đề bài yêu cầu.
+ Có lời chào khi kết thúc bài nói.
1.1.5. Tổ chức những buổi thuyết trình ngoài giờ theo chủ đề.
Nếu có điều kiện, giáo viên Ngữ văn nên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài
giờ cho học sinh (khoảng 2 buổi trên năm). Mục đích của công việc này là giúp
học sinh có thêm thời gian để trau dồi kĩ năng luyện nói.
+ Nội dung buổi sinh hoạt có thể lấy những đề tài từ gần gũi
13


+ Hình thức: giống như buổi thuyết trình.
+ Giáo viên chia từng nhóm chuẩn bị đề tài để trình bày.
+ Khi kết thúc nên có sự tổng kết, nhận xét, động viên, khen ngợi.
1.1.6. Định hướng tổ chức thực hiện tiết luyện kĩ năng giao tiếp trên
lớp.
Giaó viên dự kiến trước các bước thực hiện, các hoạt động để dạy một giờ
luyện nói hiệu quả.
1.2. Phạm vi và đối tượng áp dụng:
Đề tài này có thể thực hiện trong phạm vi lớp 10, 11,12 theo SGK cải cách
hiện hành, áp dụng cho tất cả đối tượng học sinh THPT, nhất là đối với học sinh
ở vùng ít có điều kiện phát triển giao tiếp như nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa.
2. Kiến nghị:
Dạy học những tiết luyện nói cho học sinh lớp 10, 11, 12 bên cạnh thuận lợi
như: Các em đã có vốn từ ngữ phong phú thì giáo viên vẫn gặp không ít khó
khăn như:
- Số lượng bài luyện nói quá ít.
- Sách giáo viên chưa có định hướng rõ ràng trong việc giúp người dạy dễ

dàng khi tổ chức các tiết luyện nói.
- Thời gian 45 phút cho 1 giờ luyện nói không đủ để giáo viên có thể cho số
lượng học sinh lên nói được nhiều, vì lớp học có sĩ số đông, không phù hợp khi
tổ chức luyện nói.
- Thiết kế lớp học chưa phù hợp cho những giờ luyện nói.
Trên đây là những khó khăn mà giáo viên Ngữ văn thường gặp, nếu được
quan tâm giải quyết kịp thời sẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho những giờ luyện
nói.
Với những điều bản thân đã lĩnh hội được, tôi mong rằng sáng kiến kinh
nghiệm của mình có thể đóng góp phần nào đó trong việc nâng cao chất lượng
và hiệu quả khi giảng dạy theo tinh thần đổi mới là chú trọng hoạt động giao
tiếp, góp phần nâng cao kỹ năng nói cho học sinh.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm
2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Lâm Thùy

14



×