Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

TÍCH hợp rèn LUYỆN kỹ NĂNG GIAO TIẾP CHO học SINH nguyễn thị lệ HTr THPT tô hiến thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.55 KB, 13 trang )

1.Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Người xưa nói: “Học ăn, học nói, học gói, học mở”. “Học nói”- học giao tiếp
bằng ngôn ngữ là cả một quá trình theo suốt cuộc đời con người từ khi chập
chững bi bô. “Học nói” ( kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ) giúp con người diễn
đạt hiểu biết, suy nghĩ, mong muốn, yêu cầu ….. của bản thân với mọi người
xung quanh.
Môn ngữ văn trong nhà trường là một môn học quan trọng giúp học sinh rèn
luyện về ngôn ngữ bao gồm cả vốn từ, ngữ pháp, ngữ âm và cách diễn đạt có
hiệu quả giao tiếp cao. Trong chương trình ngữ văn đều có hệ thống các bài
phần Tiếng Việt liên quan đến việc rèn luyện học sinh về kỹ năng sử dụng ngôn
ngữ ( hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, văn bản, đặc điểm ngôn ngữ nói và
viết, phong cách ngôn ngữ sinh hoạt). Nói như vậy để thấy việc rèn luyện kỹ
năng sử dụng ngôn ngữ cho học sinh được chương trình Ngữ Văn quan tâm. Từ
nội dung chương trình, việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh chính là
giúp học sinh biết sử dụng ngôn ngữ đúng, sử dụng ngôn ngữ có văn hóa, có
nghệ thuật.
Mặt khác, hiện nay trong một xã hội ngày càng phát triển, sự hội nhập mở
cửa, sự tự do trong phát ngôn…..sự gia tăng của các phương tiện thông tin,
mạng xã hội …giúp cho ngôn ngữ phát triển đi cùng với việc nhiều chuẩn mực
trong sử dụng ngôn ngữ đang bị đánh mất. Việc định hướng cho học sinh sử
dụng đúng ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ có văn hóa, sử dụng ngôn ngữ đẹp là
một điều cần thiết.
Là một giáo viên đang và hiện làm quản lý tại một nhà trường THPT, hàng
ngày tiếp xúc, đối thoại với học sinh, tôi luôn mong muốn góp phần giúp học
sinh xây dựng kỹ năng cần thiết trong giao tiếp bằng ngôn ngữ. Thời gian qua,
bản thân vừa nghiên cứu, vừa áp dụng có hiệu quả, tôi mạnh dạn thực hiện và
xin trình bày đề tài: Tích hợp rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ cho
học sinh qua dạy các bài phần Tiếng Việt” ( Ngữ Văn 10, Học kỳ I, Chương
trình chuẩn)
1.2.Mục đích nghiên cứu:


Từ lý thuyết và đặc điểm giao tiếp bằng ngôn ngữ, vận dụng vào thực tế để
giúp học sinh hoàn thành kỹ năng giao tiếp chuẩn mực, có văn hóa và có nghệ
thuật. Từ đó góp phần rèn luyện kỹ năng sống nói chung.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung vào nội dung dạy học của các bài phần tiếng Việt lớp 10,
học kỳ I. Đó là: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, Đặc điểm của ngôn ngữ nói
và ngôn ngữ viết, Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, Trình bày một vấn đề.
Lấy việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ làm đối tượng nghiên
cứu. Đề tài tập trung:
+ Chỉ ra những hạn chế trong giao tiếp bằng ngôn ngữ của học sinh trong giai
đoạn hiện nay.
+ Vận dụng lý thuyết về đặc điểm giao tiếp bằng ngôn ngữ để hình thành các kỹ
năng giao tiếp….
1


+ Chỉ ra những biện pháp có hiệu quả giúp cho học sinh có được kỹ năng giao
tiếp bằng ngôn ngữ chuẩn và mang tính văn hóa hiệu quả.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này sử sụng phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu điều tra thực tế.
- Phương pháp nghiên cứu: xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp nghiên cứu thống kê, xử lý số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.1. Vai trò ngôn ngữ trong cuộc sống.
Trong cuộc sống hàng ngày, ngôn ngữ rất quan trọng vì đó là một phương tiện để
chúng ta giao tiếp giữa con người với nhau. Thông qua ngôn ngữ, con người trao
đổi công việc để tìm cách giải quyết, trình bày quan điểm, thể hiện tư tưởng, tình
cảm của mình, thể hiện sự hiện diện của mình. Ngôn ngữ là thể hiện của tư duy.

Samuel Johnson đã nói: “Ngôn ngữ là y phục của tư duy” ( Langguage is the dress
of thought) [11]. Tất nhiên, mỗi người trong chúng ta có thể nói ra điều mình mong
muốn và tùy vào từng hoàn cảnh, vai vế của mình và đối tượng để sử dụng lời nói
là phương tiện giao tiếp cho phù hợp.
Từ cổ xưa, cha ông ta đã coi trọng việc giao tiếp bằng ngôn ngữ, những dẫn
chứng từ ca dao, tục ngữ cho thấy tầm quan trọng ….của ngôn ngữ trong đời
sống. Ngôn ngữ giao tiếp được coi như bộ mặt văn hóa, nhân cách của con
người. Một số câu tục ngữ, cao dao đã thể hiện triết lý về vai trò của ngôn ngữ
trong giao tiếp:
- “Học ăn , học nói, học gói, học mở”.
- “Lời nói, gói vàng”.
- “Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành”.
“ Chim khôn kêu tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng, dễ nghe”.
“ Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
“ Đất tốt trồng cây rườm rà
Những người thanh lịch nói ra dịu dàng”.
“Sảy chân, gượng lại còn vừa,
Sảy miệng, biết nói làm sao bây giờ”.
“Chim ngu ăn mận ăn me
Người ngu ăn nói chua lè mắm tôm”.
Trong các sách xưa vẫn còn nhiều điển tích điển cố khẳng định vai trò của
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Trong đó có những tài liệu khẳng định sức mạnh của
những câu nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng cách làm thay đổi của một cộng đồng,
xã hội, một con người…..
- “Con người cần hai năm để học nói và cần sáu mươi năm để học cách
giữ gìn lời ăn tiếng nói của mình” ( Khuyết danh) [11]
- “ Hãy nghĩ hai lần trước khi nói , bởi vì lời nói và ảnh hưởng của bạn
sẽ gieo hạt giống hoặc của thành công hoặc của thất bại vào tâm trí người

khác”.( Napoleon Hill) [11]
2


2.1.2. Mục tiêu của giáo dục phổ thông đã được thể hiện trong Luật giáo
dục năm 2005
Điều 27. Mục tiêu của giáo dục phổ thông:
Giáo dục THPT nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả
của THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường và
hướng nghiệp, có điều kiện để phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng
phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động. [3]
Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát động
phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” có nói:
“Rèn kỹ năng sống cho học sinh:
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp với các tình huống trong cuộc sống, thói
quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm.
- Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai
nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác.
- Rèn luyện kỹ năng ứng xử, văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa
bạo lực và các tệ nạn xã hội.” [1]
2.1.3. Nội dung chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành
- Chương trình, sách giáo khoa THPT đã có nhiều nội dung liên quan đến kỹ
năng giao tiếp bằng ngôn ngữ. Điều này thể hiện trong một loạt bài: Đặc điểm
ngôn ngữ nói và viết; Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ; Phong cách ngôn
ngữ sinh hoạt, Các phương châm hội thoại…. đã trang bị cho học sinh lý thuyết
về kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách có hệ thống. Đây là những kiến
thức nền tảng quan trọng giúp học sinh có thể vận dụng trong thực tiễn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Là một giáo viên Ngữ văn, sau này là một cán bộ quản lý, tôi đã từng soạn

giáo án, lên lớp, đi dự giờ đồng nghiệp các tiết dạy liên quan đến kỹ năng giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Thực tế cho thấy, những bài dạy thường nặng về lý thuyết,
chủ yếu chỉ ra đặc điểm của hoạt động giao tiếp; học sinh thường ghi nhớ nội
dung bài dạy và thuộc lòng. Các dẫn chứng cũng thường được dẫn ra từ trong
sách vở, tác phẩm nghệ thuật có tính chất minh họa cho đặc điểm của các hoạt
động giao tiếp …. Điều tôi nhận thấy và trăn trở về cái thiếu căn bản của những
tiết học này là:
+ Đặc điểm giao tiếp bằng ngôn ngữ cần vận dụng thực tế như thế nào?
+ Giúp học sinh giao tiếp bằng ngôn ngữ như thế nào cho hiệu quả?
Mặt khác, trong thực tế, sau bài học, năng lực giao tiếp bằng ngôn ngữ của
học sinh không hề thay đổi:
+ Hiện tượng nói tục, chửi thề vẫn xuất hiện.
+ Hiện tượng nói trống không với thầy cô, người lớn tuổi là không hiếm gặp.
+ Hiện tượng sử dụng từ ngữ lai căng, đi ngược với các chuẩn mực ăn hóa dân
tộc đang được cổ súy trong một bộ phận giới trẻ.
+ Những vụ xích mích, bạo lực học đường xuất phát từ giao tiếp bằng ngôn ngữ
không chuẩn mực có chiểu hướng gia tăng.
+ Ngôn ngữ trên các mạng xã hội của học sinh thô tục…
3


+ Bài viết, bài kiểm tra trên lớp cho thấy học sinh thiếu vốn từ và cách diễn đạt.
Và, điều không tránh khỏi là, những tiết liên quan đến tiếng Việt thường rất
thiếu hấp dẫn với học sinh. Thầy cô cũng thiếu đầu tư như những tiết giảng văn.
Thực tế trên đã cho thấy, cần thiết tìm được phương pháp hữu hiệu, thông qua
các bài phần tiếng Việt, giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc giải quyết đã sử dụng để giải quyết
vấn đề:
2.3.1.Thực hiện chương trình: Các bài phần tiếng Việt trong chương trình Ngữ

Văn 10 phân phối chương trình thường là 2 tiết cách biệt. Trong đó có một tiết
lý thuyết và một tiết luyện tập như: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, Đặc
điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, Trình bày
một vấn đề.
Trong tình hình thực tế hiện nay, khi việc xây dựng chương trình nhà
trường được giao cho các cơ sở giáo dục, rất nên xếp 2 tiết của bài học liền nhau
thành một chủ đề dạy học. Thực tế áp dụng trong những năm gần đây, chủ đề
dạy học này khi được thực hiện xuyên suốt có tác dụng rất lớn trong việc giúp
học sinh kết hợp giữa lý thuyết và thực hành. Giữa khắc sâu lý thuyết và ứng
dựng linh hoạt vào thực tế.
Không chỉ có vậy, ngoài 2 tiết trên, chủ đề dạy học này còn có thể tiếp tục
được mở rộng trong các tiết tự chọn liền kề. Được như vậy, các hoạt động trong
dự án dạy học không chỉ được nối tiếp, kiến thức được khắc sâu mà các kỹ năng
sẽ được ứng dụng vào các tình huống cụ thể giúp học sinh tự tin hơn trong các
hoạt động giao tiếp.
2.3.2. Xây dựng giáo án dạy học.
Trong thực tế để thực hiện giáo án, tôi thường cụ thể hóa nội dung dạy học
thành các hoạt động
Ví dụ: Với giáo án dạy bài: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ tôi đã xây dựng
thành các hoạt động chính:
Hoạt động 1:
Xác định khái niệm:
Đây là hoạt động giáo viên tổ chức cho học sinh hình thành khái niệm giao
tiếp bằng ngôn ngữ. Việc hình thành khái niệm phải bắt đầu từ các hoạt động
giao tiếp cụ thể mà giáo viên có thể đưa ví dụ hoặc giáo viên gợi ý tình huống
giao tiếp để học sinh thực hiện.
Ví dụ: Yêu cầu học sinh kể lại đoạn đối thoại mà các em nghe được ở sân
trường khi 2 bạn học sinh khác nói với nhau về việc cô giáo cho điểm kém khi
không thuộc bài.
Đặt ra tình huống đối thoại với mẹ, xin phép đi sinh nhật bạn vào buổi tối.

Hoạt động 2:
Xác định đặc điểm và các nhân tố chi phối quá trình giao tiếp.
Hoạt động 3:
Luyện tập cho học sinh cách giao tiếp bằng ngôn ngữ
Trong khuôn khổ 2 tiết học: Phần luyện tập chiếm 1 tiết. Tuy nhiên các bài tập
trong sách giáo khoa lại chủ yếu là ngôn ngữ nghệ thuật( 4 ví dụ trong 4 bài tập
và ngôn ngữ nghệ thuật) nên rất cần thiết phải vận dụng các đặc điểm của quá
trình giao tiếp bằng ngôn ngữ để xây dựng cho học sinh một số kỹ năng giao
tiếp trong thực tế đời sống.
4


Hoạt động 4: Nếu chỉ dừng lại trong hai tiết học, chắc chắn các kỹ năng giao
tiếp bằng ngôn ngữ sẽ chưa được khắc sâu thành các thói quen ngôn ngữ, thành
phong cách hay văn hóa giao tiếp. Hoạt động 4 sẽ là hoạt động mở bao gồm cả
việc sử dụng quỹ thời gian của các tiết tự chọn để học sinh thực hành sâu hơn
các kỹ năng, khích lệ, tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động giáo dục
ngoài giờ lên lớp, ngoại khóa và thầy cô là người quan sát, ghi nhận, uốn nắn
cho học sinh nếu cần. Trong đó rất cần việc hướng dẫn học sinh các sử dụng
ngôn ngữ trên các mạng xã hội; cách lôi cuốn, thuyết phục người khác khi trình
bày bằng ngôn ngữ trước đông người. Yêu cầu cao học sinh về kỹ năng sử dụng
ngôn ngữ, sử dụng trong giao tiếp làm bài văn ….ngay từ lớp 10.
2.3.3. Sử dụng các yếu tố của quá trình giao tiếp để hướng dẫn kỹ năng giao
tiếp cho học sinh.
a) Từ nhân tố đối tượng giao tiếp dạy học sinh cách nói đúng đối tượng, có văn
hóa
* Đối tượng giao tiếp bao gồm người nói và người nghe; người được và người
viết trong một tình huống giao tiếp cụ thể. Trong thực tế vai của nhân vật trong
giao tiếp rất đa dạng về mối quan hệ xã hội, lứa tuổi, địa vị, học vấn. Điều này
tạo ra sự đa dạng, phức tạp của quá trình giao tiếp. Muốn đạt hiệu quả giao tiếp

cần phải nắm vững đặc điểm này.
* Biện pháp: Để phân loại, liệt kê và cho học sinh ghi nhớ máy móc các đặc
điểm đa dạng của nhân vật giao tiếp chắc chắn không thể hết và không hiệu quả.
Giáo viên cần từ những tình huống giao tiếp mà trang bị cho học sinh các
nguyên tắc giao tiếp đúng đối tượng, thể hiện được văn hóa ứng xử và hiệu quả
giao tiếp.
- Về lứa tuổi cao thấp: giao tiếp với người lớn cần sự lễ phép.
- Địa vị gia đình ( ông bà, bố ,mẹ …. và con cháu; thầy cô và học sinh); trong xã
hội ( người trưởng nhóm và các thành viên….): Tôn trọng
- Học vấn: ( Người lao động không có điều kiện học tập và người có trình độ
học vấn cao): Thân mật gần gũi, tránh khoảng cách, dễ tiếp nhận.
Từ những nguyên tắc cơ bản này, giáo viên cùng học sinh đi vào những tình
huống giao tiếp cụ thể để học sinh phát hiện và khắc sâu được.
Ví dụ: Một vụ va chạm giao thông ngoài đường giữa một thanh niên đi xe máy
và một cụ già đi xe đạp. Mẩu đối thoại giữa hai người:
- Cụ già: Cháu có bị làm sao không? Lần sau nhớ đi cho cẩn thận cháu nhé.
- Thanh niên: Xe tôi bị vỡ đèn rồi. ông bắt đền đi. Cái lão già này.
HS sẽ phát hiện ngay cách nói năng thường gặp này. Cách giao tiếp của thanh
niên đã thiếu văn hóa, không có sự lễ phép tôn trọng tối thiểu với người lớn tuổi.
Từ tình huống cụ thể này, giáo viên hướng dẫn cho học sinh từ đặc điểm của
các nhân vật giao tiếp, có xưng hô, ứng xử văn hóa. Cho một số học sinh sửa lại
câu nói của thanh niên với cụ già cho phù hợp.
* Hiệu quả: Khi xây dựng cho HS những nguyên tắc trong mối quan hệ gữa các
nhân vật giao tiếp cũng như qua các tình huống giao tiếp cụ thể, học sinh không
phải được học cái mới mà nhận thức về các nguyên tắc giao tiếp, cách thức giao
tiếp một cách rõ ràng hơn.
5


b) Từ nhân tố hoàn cảnh giao tiếp hướng dẫn học sinh xử lý tình huống giao

tiếp đạt hiệu quả cao.
* Hoàn cảnh giao tiếp chính là bối cảnh mà các nhân vật giao tiếp thực hiện các
giao tiếp với nội dung và mục đích nhất định. Có hoàn cảnh giao tiếp mang tính
nghi thức như hội nghị, sự kiện được tổ chức trang trọng. Có hoàn cảnh giao tiếp
tự do như gặp gỡ bạn bè…. Hiện nay, hoàn cảnh giao tiếp còn đa dạng hơn:
không chỉ giao tiếp trực tiếp mà giao tiếp qua thư tín, giao tiếp qua không gian
của mạng xã hội; không chỉ giao tiếp 2 người với nhau mà có thể nhiều thậm chí
rất nhiều người tham gia ( các bình luận trên FB).
* Biện pháp của giáo viên ở nội dung này không phải là quá chú trọng cho học
sinh phân biệt hoàn cảnh giao tiếp mà giúp cho các em đạt được hiệu quả giao
tiếp, giao tiếp an toàn, giao tiếp có văn hóa khi hoàn cảnh giao tiếp đã trở nên đa
dạng, phức tạp hơn. Đặc biệt khi sử dụng không gian mạng xã hội để giao tiếp.
Có một thực tế là, qua theo dõi, nắm bắt và xử lý các mâu thuẫn của học sinh,
rất nhiều các mâu thuẫn xuất phát và cũng được giải quyết qua mạng xã hội, nơi
mà các anh hùng bàn phím luôn thường trực để gây bão.
Vì thế, việc trang bị cho học sinh những nguyên tắc sử dụng hoàn cảnh giao tiếp
thông minh là điều cần thiết.
- Nguyên tắc tính bảo mật thông tin cá nhân.
- Nguyên tắc không dùng mạng xã hội để giải quyết các mâu thuẫn cá nhân
- Nguyên tắc tiết chế cảm xúc, tôn trọng người khác.
- Không tham gia bàn luận những vấn đề của người khác và không mượn không
gian giao tiếp để nói xấu, bôi nhọ người khác.
Cho chính học sinh tìm một tình huống giao tiếp đã gây hậu quả khi không
thực hiện được nguyên tắc coi trọng hoàn cảnh giao tiếp. Trường hợp học sinh
lớp 10 trường NT lập nhóm để nói xấu cô giáo với những lời lẽ thô tục. Sự việc
khác xảy ra ở trường khi học sinh lớp 10 vì xích mích nhỏ trong lớp lên mạng
nhắn tin nói xấu nhau. Trong không gian ảo của mạng xã hội, hai em nhắn tin
qua lại nhưng không giả quyết được mâu thuẫn mà còn đẩy mâu thuẫn lên cao,
thách thức đánh nhau. Sự việc vở lỡ khi các em gọi người đến để can thiệp.
Cần chỉ cho học sinh thấy, các trường hợp trên các em vừa không làm chủ

được hoàn cảnh giao tiếp mà còn lợi dụng hoàn cảnh giao tiếp để thực hiện ý
muốn chủ quan của mình. Kỹ năng tiết chế cảm xúc không có, lại nóng vội hiếu
thắng, nhiều học sinh đã trở thành nạn nhân của chính mình trong quá trình giao
tiếp.
c) Từ nhân tố nội dung giao tiếp dạy học sinh cách tường minh vấn đề giao tiếp
Nói đúng, nói bám sát chủ đề hội thoại, diễn đạt mạch lạc rõ rành là yêu cầu
quan trọng không chỉ khi học mà còn giúp ích sau này khi học sinh làm việc,
phát triển sự nghiệp. Nói đúng nội dung không chỉ là nói đúng sự thật, nói đúng
trọng tâm mà còn là cách diễn đạt sao cho người đối thoại dễ hiểu, hiểu đúng
vấn đề. Có một số biện pháp mà tôi và các đồng nghiệp đã sử dụng.
* Chọn từ chìa khóa trong hội thoại để xác định trọng tâm vấn đề. Điều
này rất có tác dụng trong bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt.
Ví dụ: Khi hai học sinh cùng trình bày một sự việc: việc không có mặt trong
lớp.
6


Học sinh1: Em và bạn A đã đến trường nhưng không được vào.
Học sinh 2: Em và bạn A đến trường muộn giờ, không được vào lớp.
Từ hai phát ngôn trên có thể phân tích đề học sinh thấy bạn học sinh 2 trình
bày vấn đề không giống nhau. Bạn học sinh 1 trình bày chưa đúng nội dung, có
biểu hiện quanh co đổ lỗi cho người khác. Chìa khóa của phát ngôn chính là:
đến trường muộn.
Việc chọn chìa khóa trong phát ngôn khi giao tiếp cần thiết với cả người nói
và người nghe. Với người nói từ chìa khóa giúp cho việc diễn đạt tường minh
vấn đề. Với người nghe, tìm được từ chìa khóa để hiểu và lĩnh hội đúng được
thông tin cần thiết. Đều này rất ý nghĩa với những phát ngôn dài.
* Sắp xếp thông tin trong phát ngôn trong hội thoại theo một trật tự khoa
học cũng là một cách để giao tiếp có hiệu quả. Đặc biệt với những hội thoại có
nội dung phức tạp, dài. Điều này, giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh sau

bài học kỹ năng trả lời vấn đáp, trả lời câu hỏi kiểm tra bài cũ. Thay vào việc
nhớ gì nói ấy, học sinh cần rèn được thói quen trình bày nội dung có hệ thống
lớp lang dễ hiểu, đúng trọng tâm. Trình tự trình bày có thể: Từ khái quát đến cụ
thể; từ nhỏ đến lớn; từ chi tiết đến khái quát, theo trình tự thời gian, trình tự
không gian
Điều này rất hữu ích khi dạy bài Trình bày một vấn đề , giáo viên hướng dẫn
học sinh xây dựng đề cương khi phát biểu một vấn đề trước tập thể. Nếu không
tập được kỹ năng này trong khi nói hay viết bài học sinh sẽ khó tránh khỏi lỗi
lan man, không mạch lạc, diễn đạt rối, diễn đạt lúng túng…
d) Từ các phương châm hội thoại dạy học sinh biết sử dụng ngôn ngữ giao tiếp
có văn hóa, có tính khoa học
* Các phương châm hội thoại được trang bị từ cấp dưới bao gồm: phương châm
cách thức, phương châm về lượng, phương châm về chất, phương châm quan hệ,
phương châm lịch sự…
* Biện pháp: Từ yêu cầu của các phương châm hội thoại, khái quát cho các em
học sinh về các nguyên tắc giao tiếp
- Nguyên tắc nói đúng sự thật (P/C về chất)
- Nguyên tắc nói đủ thông tin không thiếu, không thừa ( P/C về lượng)
-Nguyên tắc nói đúng đề tài giao tiếp, tránh lạc đề ( Phương châm quan hệ)
- Nguyên tắc nói rành mạch, tường minh, tránh mơ hồ ( P/C cách thức)
- Nguyên tắc tính lịch sự văn hóa tế nhị và tôn trọng người khác ( P/C lịch sự)
* Điều dễ thấy là các phương châm hội thoại gắn liền với các yếu tố ảnh hưởng
đến quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ. Những nguyên tắc của các phương châm
hội thoại đều là những yêu cầu khi các nhân vật trong hoạt động giao tiếp thực
hiện gắn với hoàn cảnh giao tiếp và phương tiện giao tiếp cụ thể. Những phương
châm này, các em đã được học từ lớp 9. Giáo viên cần giúp học sinh nhớ, khắc
sâu lại tinh thần của những nguyên tắc giao tiếp này.
Với nhân tố nhân vật giao tiếp, dù là ai, cũng phải thực hiện được 5 nguyên tắc
này, vi phạm nguyên tắc nào, quá trình giao tiếp cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Ví dụ 1: Với quan hệ thầy trò: Khi học sinh xưng hô với thầy là ông – tôi đã

biểu hiện sự không tôn trọng, không lễ phép; Với quan hệ bạn học cùng lớp
trong buổi sinh hoạt cuối tuần hai bạn xưng hô: Tau – mi vừa không tôn trọng
7


nhau vừa không đúng hoàn cảnh giao tiếp, không tôn trọng thầy cô và các bạn
khác.
Ví dụ 2: Thầy giáo hỏi bài cũ nhưng do không thuộc bài, bạn trả lời quanh co
vừa mất thời gian, vừa không đúng trọng tâm vừa thấy thái độ không nghiêm túc
trong học tập.
e) Sử dụng đặc điểm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết để hướng dẫn học sinh viết
nói đúng phong cách.
* Ngôn ngữ nói và viết là 2 dạng chủ yếu của giao tiếp bằng ngôn ngữ. “Ngôn
ngữ nói là ngôn ngữ âm thanh, là lời nói trong giao tiếp hàng ngày, ở đó người
nói và người nghe tiếp xúc trực tiếp với nhau” [5] , còn “Ngôn ngữ viết được thể
hiện bằng chữ viết trong văn bản và được tiếp nhận bằng thị giác” [5]. Rất cần
hướng dẫn học sinh nói và viết phù hợp với từng đặc điểm riêng của mỗi dạng.
Với bài viết ( có thể là bài làm văn hoặc một văn bản nào đó học sinh soạn
thảo) cần tránh sử dụng ngôn ngữ nói thiếu trau chuốt, hành văn thô, ngôn ngữ
địa phương, tiếng lóng, tiếng tục.
Trong khi đó, khi sử dụng dạng nói lại rất cần tính tự nhiên, tính biểu cảm kết
hợp điệu bộ, ánh mắt. Việc dùng những từ ngữ sắc vở, quá văn hoa, thiếu tự
nhiên có thể sẽ khiến hiệu quả giao tiếp không cao.
Hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển, cần lưu ý học sinh việc ngôn ngữ
dạng nói khi gao tiếp được ghi lại qua các loại tin nhắn, bình luận trên máy tính,
smartphon có thể lưu giữ được hình ảnh. Hai người có thể ở rất xa nhưng hội
thoại vẫn là trực tiếp. Học sinh cần lưu ý để khi giao tiếp cẩn trọng về nội dung
thông tin, cách diễn đạt tránh những rắc rối bởi phát ngôn không chuẩn mực của
chính mình. ( Ví dụ như vì những tin nhắn qua lại mà dẫn đến đánh nhau của nữ
sinh).

Với ngôn ngữ dạng nói cần kết hợp bài Phong cách ngôn ngữ sinh hoạt để
hướng dẫn học sinh kỹ năng giao tiếp sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày thật
trong sáng, tự nhiên, đáp ứng được những nhu cầu trong cuộc sống.
k) Kết hợp hoạt động trong giờ học và các hoạt động ngoài giờ lên lớp để học
sinh có cơ hội rèn luyện ngôn ngữ giao tiếp
Cùng các tổ chuyên môn xây dựng các chương trình hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp, các tiết sinh hoạt tập thể để học sinh có cơ hội sử dụng các kỹ năng
giao tiếp tự tin, chuẩn mực….
Khích lệ học sinh niềm yêu thích đọc sách, báo để trau dồi và làm giàu ngôn
ngữ của bản thân đồng thời học các giao tiếp hiệu quả.
Khích lệ học sinh học, nghe, nói một ngoại ngữ ( Nhất là tiếng Anh) để có thể
giao tiếp tốt trong thời kỳ mở cửa, hội nhập này hướng tới là công dân toàn cầu.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp, nhà trường.
2.4.1. Thực hiện chương trình :
- Với cách xây dựng chương trình như hiện nay, các quy định cho phép tích hợp,
các tiết các bài …các giáo viên, các nhà trường có thể chọn các tiết này tạo
thành chủ đề dạy học, sử dụng thêm các tiết tự chọn ( nếu có) của môn Ngữ văn
để rèn luyện sâu cho học sinh các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong thực tế. Ít
nhất chúng ta có giáo án 2 tiết học liền nhau của mỗi bài. Từ đó, tạo thành một
8


chủ đề dạy học, giải quyết bài toán chương trình vụn vặt, chia cắt, học sinh có
điều kiện khắc sâu kiến thức.
- Sử dụng tiết tự chọn để củng cố luyện tập và rèn luyện cho học sinh ứng dụng
kỹ năng giao tiếp vào thực tế khiến nội dung dạy học không dừng lại ở lý thuyết
mà được học sinh đưa vào hoạt động hàng ngày tạo một nét văn hóa, phong cách
ngôn ngữ của bản thân
- Dạy theo hướng này đã tích hợp được kỹ năng giao tiếp với kỹ năng sống. từ

đó giúp học sinh hình thành các giá trị sống không chỉ ở vật chất, tiền bạc mà ở
chính bản thân họ với nền tảng văn hóa ngay từ trong khả năng giao tiếp.
2.4.2. Các kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ góp phần hình thành các kỹ năng
sống cho học sinh:
- Trong từng tình huống giao tiếp bằng ngôn ngữ cụ thể mỗi người cần có những
kỹ năng cần thiết để thực hiện đạt hiệu quả cao. Ngoài vốn từ, vốn sống khả
năng diên đạt, cần cả sự linh hoạt trong giao tiếp. Cần mềm mỏng, “lựa lời mà
nói cho vừa lòng nhau” khi gặp những ý kiến trái chiều; cần sự hài hước khi
người giao tiếp căng thẳng hay nóng giận; cần đi thẳng vào vấn đề khi bày tỏ
quamn điểm rõ ràng quyết đoán thể hiện bản lĩnh; còn khi cần tế nhị để người
đối thoại không tự ái hoặc muốn phản bác khéo những ý kiến của người khác có
thể dùng ẩn ý, hàm ngôn. Và dù trong tình huống nào, tôi và đồng nghiệp cũng
yêu cầu học sinh phải đảm bảo:
- Thái độ tôn trọng sự thật.
- Ứng xử có văn hóa tế nhị biết tôn trọng người khác.
- Phong cách tự tin đứng trước đông người và trên sân khấu
- Tránh việc sử dụng ngôn ngữ lai căng; phát ngôn thiếu văn hóa, thiếu chuẩn
mực.
- Rèn luyện nghệ thuật giao tiếp: Ngắn gọn, rành mạch, đúng chủ đề , đủ thông
tin và đạt hiệu quả.
Để làm được điều này, tôi đã cùng giáo viên trực tiếp dạy lớp 10 tiến hành khảo
sát học sinh, sau đó tiến hành hướng dẫn học sinh qua các bài học, hoạt động
như đã nói ở trên
Dưới đay là một số biểu thống kê
Biểu 1: Chất lượng kỹ năng giao tiếp của học sinh vào đầu và sau học kỳ 1
lớp 10 với những kết quả sau:

Mốc thời
gian khảo
sát

Đầu lớp 10
Sau học kỳ
1, lớp 10

18%

Sử
dụng
từ ngữ
thô,
tục
trên
mạng
XH
16%

Muốn
được
rèn
luyện
kỹ
năng
giao
tiếp
30%

Thhấy
được tác
dụng của
các tiết

tiếng Việt
với kỹ
năng giao
tiếp
25%

65%

7%

50%

65%

Tự tin
nói
trước
đông
người

Ngại,
lúng
túng
nói
trước
đông
người

Muốn
được

tham
gia các
hoạt
động
tập thể

Sợ bị
gọi
lên trả
lời
trong
giờ
học

Khó
khăn
khi
diễn đạt
nói và
viết

Nói tục,
nói bậy,
nói trống
không
trong
giao tiếp

Suy
nghĩ

trước
khi
nói

22%

47%

30%

55%

65%

53%

50%

22%

60%

22%

37%

15%

Biểu 2: Để có cơ sở rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho học sinh, ngay lớp 10 tôi
và các đồng nghiệp đã khảo sát cho học sinh trực tiếp xử lý tình huống trong

giao tiếp với câu hỏi: gặp tình huống này, bạn ứng xử bằng ngôn ngữ giao tiếp
như thế nào là hiệu quả nhất?
9


Mốc thời gian
khảo sát

Kỹ năng
giao tiêp
hiệu quả cao

Đã tuân thủ
các phương
châm hội
thoại

Lúng túng khi
sử dụng ngôn
ngữ

Không vận
dụng được kỹ
năng giao tiếp

Không hợp tác
làm bài

22%
25%

23%
20%
10%
40%
45%
10%
5%
0%
2.4.3. Chất lượng hạnh kiểm của học sinh diễn biến tốt hơn cùng kỹ năng giao
tiếp, tạo môi trường giáo dục hoạt động lành mạnh
- Do các kỹ năng giao tiếp không chỉ trong giờ học mà còn được tích hợp thông
qua các hoạt động giao tiếp
+ Hiện tượng nói tục, chửi bậy giảm rất nhiều
+ Các học sinh trò chuyện, nói chuyện với thầy cô đúng mực.
+ Các vụ việc xảy ra do các giao tiếp thiếu chuẩn mực từ mạng xã hội được hạn
chế rất nhiều.
Bảng thống kê số liệu về chất lượng hạnh kiểm của học sinh khóa 2017 - 2019.
Năm học 2016-2017
Lớp/ Sĩ số
Tỉ lệ HK tốt Tỉ lệ HK Khá Tỉ lệ HK TB Tỉ lệ HK Yếu
10C1 ( 42 HS)
36 (85%)
04 (10,3%)
02 (4,7%)
0
10C4( 39HS)
26( 67%)
12 (30,5%)
01 (2,5%)
0

Năm học 2018-2019
Lớp
Tỉ lệ HK tốt Tỉ lệ HK Khá Tỉ lệ HK TB Tỉ lệ HK Yếu
12A1(10C1 lên)
39 (95%)
3 (5%)
0
0
( 41HS)
12A4(10C4 lên)
36 (94,7%)
2 ( 4,3%)
0
0
( 38 HS)
2.4.4. Các tiết sinh hoạt tập thể, các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp được
tổ chức với sự hướng dẫn của thầy cô và học sinh là người thực hiện từ dẫn
chương trình, hùng biện, tham gia các phần thi.
- Ban đầu giáo viên còn lo lắng học sinh không làm được nên giữ phần chủ đạo
trên các diễn đàn sân khấu . Sau quá trình rèn luyện kỹ năng, vai trò của thầy cô
bớt đi, thầy rút dần về sau sân khấu để các em hoạt động. Thực tế cho thấy, các
em tự tin hơn, chủ động trong việc tìm kiếm cách thức thể hiện nội dung hiệu
quả.
- Hiện nay, tại trường, do ngay từ đầu năm lớp 10 nhà trường đã có ý thức rèn
luyện cho học sinh kỹ năng giao tiếp nên chỉ cần sau một học kỳ, các hoạt động
tập thể học sinh đã tự dẫn chương trình, hùng biện, diễn thuyết. Sau mỗi chương
trình của học sinh, chúng tôi tiếp tục được rút kinh nghiệm, xây dựng cho học
sinh những kỹ năng còn thiếu.
- Các tiết sinh hoạt tập thể tại lớp: 80% học sinh các lớp đã chủ động tổ chức
sinh hoạt thay cho việc giáo viên chủ nhiệm độc diễn.

2.4.5. Kỹ năng viết của học sinh thông qua các bài làm văn đã khá hơn qua mỗi
bài kiểm tra
Kết quả bài thi học kỳ môn Ngữ văn qua một số năm như sau: khóa học 20172019
Kết quả
Lớp 10
Lớp 11
Lớp 12
Đầu lớp 10
Sau học kỳ 1,
lớp 10

10


Giỏi
2,3%
7,1%
11,9%
Khá
21,4%
25,9%
30,2%
TB
38,3%
50,2%
45,2%
Yếu
28,5%
14,5 %
12,7%

Kém
9,5%
2,3%
0
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận:
- Chương trình Ngữ Văn với số tiết dành cho các hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ là cần thiết và cũng cho thấy Chương trình đã xác định tầm quan trọng của
việc trang bị các kỹ năng trong hoạt động giao tiếp đối với mỗi học sinh.
- Thói quen chỉ chú trọng cho học sinh vào các tiết học về tác phẩm văn học mà
có phần xem nhẹ phần dạy tiếng ở cấp THPT hiện nay rất cần phải thay đổi
trong định hướng thực hiện chương trình, trong quan niệm của một số nhà
trường và một số giáo viên.
- Việc dạy các tiết học về tiếng Việt nói chung, về hoạt động giao tiếp, phong
cách ngôn ngữ nói riêng cần gắn liền với thực tiễn thực hành ngôn ngữ của học
sinh trong cuộc sống, trong công việc, trong học tập. Chỉ có như vậy, ngôn ngữ
của học sinh mới được trau dồi, kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ mới đạt hiệu
quả cao.
- Một số kinh nghiệm về tích hợp rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ
thông qua một số tiết học trong chương trình Ngữ văn 10 được trình bày trong
Sáng kiến kinh nghiệm này được đúc rút qua một số năm trực trực tiếp giảng
dạy, trong tổ chức các hoạt động giáo dục tại nhà trường. Những kinh nghiệm
này gắn liền với đối tượng học sinh cụ thể tại trường THPT Tô Hiến Thành và
còn tiếp tục được thực hiện nghiên cứu trong những năm tiếp theo.
- Bản thân tác giả thấy rằng:
+ Thay đổi phương pháp dạy ngôn ngữ, dạy hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
trước hết và nhất thiết không bao giờ được là dạy lý thuyết xuông. Bản thân
ngôn ngữ và các hoạt động giao tiếp thuộc về đời sống muôn màu đa dạng của
nó. Mọi hoạt động ngôn ngữ chỉ thực sự sống khi gắn với đời sống.
+ Ngôn ngữ không chỉ sản phẩm của tư duy, nó là bộ mặt của nhân cách, cá

tính, văn hóa ứng xử mỗi người. Vì vậy, việc xây dựng cho học sinh các kỹ năng
giao tiếp không bao giờ là thừa và đừng để quá muộn.
+ Mỗi đặc điểm của quá trình giao tiếp bằng ngôn ngữ là một gợi ý rất thiết thực
để bản thân thầy cô khai thác tìm ra những nguyên tắc, hướng dẫn cho học sinh
kỹ năng giao tiếp hiệu quả, có văn hóa và có nghệ thuật. Làm được điều này
không chỉ có giá trị trong thời gian học sinh học tại trường mà là nền tảng văn
hóa giao tiếp, là những kỹ năng mềm góp phần giúp học sinh của chúng ta tạo
lập được thành công trong cuộc sống, sự nghiệp về sau.
+ Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi mà các phương thức giao tiếp trở nên đa
dạng, khi mà các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp của mỗi người trở nên
phức tạp, khi mà sự can thiệp của khoa học công nghệ vào hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ rất mạnh mẽ; mạng xã hội và tự do ngôn luận đang khiến cho các
hoạt tiếp bằng ngôn ngữ đang đứng trước những thách thức thì việc trang bị
càng sớm các kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ vô cùng cần thiết
11


3.2. Kiến nghị:
Các tổ chuyên môn của các nhà trường cần quan tâm hơn đến việc rèn luyện kỹ
năng giao tiếp bằng ngôn ngữ cho học sinh không chỉ qua môn Ngữ văn mà còn
qua các môn học khác.
Cần thiết tổ chức được các sinh hoạt tập thể, các hoạt động giáo dục ngoài giờ
lên lớp, thảo luận … mà học sinh có cơ hội thể hiện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn
ngữ của mình.
Cần phát động lại phong trào đã được thực hiện từ nhiều năm trước: “nói lời
hay, làm việc tốt”, tạo một môi trường giáo dục lành mạnh, rèn luyện cho học
sinh phong cách ứng xử văn hóa không còn nói bậy chửi tục, không còn những
phát ngôn thiếu văn hóa, đặc biệt không có những phát ngôn thiếu chuẩn mực
trên các mạng xã hội.


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2019

Tác giả
Cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.

NGUYỄN THỊ LỆ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị 40/2008/CT-BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về phát động
phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các
trường phổ thông giai đoạn 2008 - 2013.
2. Nhiều tác giả , Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, Nxb Văn hóa thông
tin, 2014.
3. Luật giáo dục 2005 và luật bổ sung sửa đổi một số điều 2009.
4. Ngữ văn 9, tập 1,2, NXB Giáo dục, 2017
12


5. Ngữ văn 10, tập 1, Nxb Giáo dục, 2016.
6. Ngữ văn 10, tập 2, Nxb Giáo dục,2015
7. Sự ảnh hưởng, tác động của lời nói trong giao
https//:tukhicongdentamlinh.net.
8. Luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn từ, https// kynang.edu.vn.
9. Cách sử dụng ngôn từ hiệu quả trong kỹ năng
tiếp,https//kenhtuyensinh.vn.

10. Rèn luyện kỹ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ hiệu
https//kinhdoanhgioi.net.
11. STT-danh ngôn hay về ngôn ngữ và lời nói, https//ocuaso.com.
12. Một số tình huống thường gặp khi học kỹ năng giao


tiếp,
giao
quả,
tiếp,

-

13



×