Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế nổi bật khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm vào dạy học môn ngữ văn ở trường THPT như thanh 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.33 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
Tên đề mục
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

Trang
2
2

1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1.1. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm

4

2.1.2. Tác dụng của phương pháp thảo luận nhóm

4


2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

4
4

2.3. Một số biện pháp giải quyết thực trạng
2.3.1. Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của một số giáo viên dạy

8
8

Văn khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
2.3.2. Giải pháp 2: Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học Ngữ văn cho giáo viên và

10

học sinh
2.3.3. Giải pháp 3: Đa dạng hóa các hình thức tổ chức thảo luận
nhóm
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo

15

dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. Kết luận và kiến nghị

18

Tài liệu tham khảo


20

Danh mục sáng kiến kinh nghiệm đã được xếp loại cấp Sở

20

I. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài

1


Đổi mới phương pháp dạy học là đưa phương pháp dạy học mới vào
giảng dạy trên cơ sở phát huy mặt tích cực của phương pháp dạy học truyền
thống để nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả đào tạo của giáo viên.
Trong quá trình dạy học Ngữ văn, người giáo viên luôn là người tổ chức,
hướng dẫn hoạt động của học sinh, mọi học sinh đều hoạt động học tập để nâng
cao và phát triển năng lực cá nhân. Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh huy
động vốn hiểu biết và kinh nghiệm bản thân để chiếm lĩnh tri thức và vận dụng
tri thức có được trong quá trình thực hành, tạo cho học sinh thói quen làm việc
tự giác, chủ động, không rập khuôn, máy móc, biết tự đánh giá kết quả học tập
của mình, của bạn.
Để phát huy những tích cực trên, trong quá trình dạy học ngoài những
phương pháp dạy học truyền thống như vấn đáp, thuyết trình, chúng tôi còn kết
hợp một số phương pháp dạy học tích cực trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là
phương pháp thảo luận nhóm. Điều tra thực tế tại trường THPT Như Thanh 2
trong năm học 2018 - 2019 cho thấy: 72% số giáo viên được khảo sát đã hướng
học sinh tiến hành thảo luận nhóm thường xuyên; 28% thỉnh thoảng áp dụng. Và
hiệu quả tích cực mà phương pháp này mang lại là không thể phủ nhận: Học

sinh không những được giải tỏa sự căng thẳng trong quá trình học tập mà ngược
lại các em còn có những giây phút thoải mái, có thời gian tâm sự trao đổi với
nhau về mọi vấn đề. Đặc biệt là giúp học sinh có niềm tin, niềm vui trong học
tập. Đồng thời đây cũng là thời điểm để học sinh phát huy năng lực sở trường
của mình, biết vận dụng kiến thức mới trong bài học, trong đời sống xã hội.
Song, không phải vì thế mà ta tối ưu hóa, độc tôn hóa phương pháp dạy
học này. Bởi, thực trạng dạy và học có sử dụng phương pháp thảo luận nhóm ở
trường THPT Như Thanh 2 cũng cho thấy đã và đang tồn tại những hạn chế nổi
bật như: hiệu quả của hoạt động nhóm còn chưa cao, còn mang tính hình thức,
học sinh chú trọng tạo ra sản phẩm để báo cáo đối phó, ít chú trọng đến quá
trình hợp tác nhóm để tạo ra sản phẩm chung. Học sinh thiếu và yếu về các kỹ
năng làm việc nhóm; ý thức tham gia, đóng góp ý kiến của học sinh chưa cao,
một số học sinh còn mang tâm lý trông chờ, ỷ lại dẫn đến sự phát triển không
đồng đều của học sinh trong quá trình học tập; hạn chế về thời gian; việc lạm
dụng thảo luận nhóm;… Đặc biệt, việc vận dụng phương pháp thảo luận nhóm
trong môn Ngữ văn nếu không linh hoạt, sáng tạo thì sẽ làm mất đi ý nghĩa đặc
biệt của môn học.
Trong khi đó, nhiều bạn bè, đồng nghiệp đã đưa ra những cách thức hay,
độc đáo nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học nhờ phương pháp thảo luận nhóm.
Tuy nhiên chưa có nhiều tài liệu nghiên cứu, bàn sâu về các giải pháp nhằm
2


khắc phục những hạn chế nổi bật khi sử dụng phương pháp này trong dạy học
Ngữ văn. Với những trăn trở về đổi mới phương pháp, trong đó có thảo luận
nhóm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học, nhất là lấy lại niềm đam
mê, hứng thú với môn Ngữ văn của học sinh, tôi mạnh dạn viết sáng kiến: “Một
số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế nổi bật khi sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm vào dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Như Thanh 2”.
1.2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của tôi khi nghiên cứu đề tài này là nhằm khắc phục những hạn
chế, khó khăn nổi bật của cả thầy và trò trong khi sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm vào dạy - học môn Ngữ văn ở trường THPT Như Thanh 2. Từ đó rèn
luyện kĩ năng thảo luận nhóm, nâng cao năng lực hợp tác, tăng cường mối quan
hệ giữa cá nhân và tập thể. Đồng thời phát huy hiệu quả tích cực và toàn diện
của phương pháp thảo luận nhóm: giúp người học tự giác, tích cực, chủ động
tiếp thu kiến thức; tạo điều kiện thuận lợi để các em bộc lộ những suy nghĩ của
mình; tạo không khí học tập sôi nổi, kích thích tất cả học sinh tham gia vào quá
trình học tập một cách sáng tạo;…
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những hạn chế nổi bật khi sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm trong dạy học Ngữ văn.
- Đối tượng khảo sát và thực nghiệm: hoạt động dạy và học môn Ngữ
văn của giáo viên, học sinh trường THPT Như Thanh 2, huyện Như Thanh,
tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, tôi vận dụng sáng tạo một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Thu thập và đọc các
tài liệu lý luận, các đề tài nghiên cứu về phương pháp thảo luận nhóm.
- Nghiên cứu thực nghiệm: Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong
dạy học môn Ngữ văn tại lớp 10B1, 11C3, 11C5.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: qua quan sát,
phỏng vấn, phát phiếu điều tra, phiếu học tập, bài kiểm tra của học sinh.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Phân tích, tổng hợp từ các số liệu
thu thập được tổng kết và đánh giá rút kinh nghiệm.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
3



2.1.1. Khái niệm phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học xuất hiện từ những năm 70
của thế kỷ 20, ở trường Đại học Sư phạm của một số nước tiên tiến, bắt đầu từ
môn học “Năng động tập thể” (Group dynanies) - một môn học dạy cho sinh
viên kỹ năng làm việc tập thể. Dần dần, môn học này chuyên rèn luyện kỹ năng
làm việc theo nhóm, từ đó hình thành nên phương pháp thảo luận trong dạy học
ở tất cả các cấp học. Ở Việt Nam, phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong
dạy học từ những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Theo tác giả Nguyễn Văn Cường “Dạy học nhóm là một hình thức xã hội
của dạy học, trong đó học sinh của lớp học được chia thành các nhóm nhỏ trong
khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập
trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó
được trình bày và đánh giá trước toàn lớp.” [1, 98]. Tác giả Phan Trọng Ngọ
cũng cho rằng:“Thảo luận nhóm là phương pháp trong đó nhóm lớn (lớp học)
được chia thành những nhóm nhỏ để tất cả các thành viên trong lớp đều được
làm việc và thảo luận về một chủ đề cụ thể và đưa ra ý kiến chung của nhóm
mình về vấn đề đó.” [6, 223]. Thống nhất với các quan điểm trên, Nguyễn Trọng
Sửu trong công trình “Dạy học nhóm – phương pháp dạy học tích cực” viết:
“Dạy học nhóm là một hình thức của xã hội học tập, trong đó học sinh của một
lớp được chia thành các nhóm nhỏ trong khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm
tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm
việc, kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước
lớp.”[7, 21].
Từ các định nghĩa trên, chúng ta có thể đi đến kết luận: thảo luận nhóm là
một phương pháp dạy học hiện đại, lấy người học làm trung tâm. Với phương
pháp này, người học được làm việc cùng nhau theo các nhóm nhỏ và mỗi một
thành viên trong nhóm đều có cơ hội tham gia vào giải quyết các nhiệm vụ học
tập trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự hướng dẫn, gợi mở của giáo
viên.

2.1.2. Tác dụng của phương pháp thảo luận nhóm
Mục đích chính của thảo luận nhóm là thông qua cộng tác học tập, nhằm:
Phát huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh: trong thảo luân nhóm,
học sinh phải tự giải quyết nhiệm vụ học tập, đòi hỏi sự tham gia tích cực của
các thành viên; đồng thời, các thành viên cũng có trách nhiệm về kết quả làm
việc của mình.

4


Phát triển năng lực cộng tác làm việc của học sinh: học sinh được luyện
tập kỹ năng cộng tác, làm việc với tinh thần đồng đội, các thành viên có sự quan
tâm và khoan dung trong cách sống, cách ứng xử…
Giúp cho học sinh có điều kiện trao đồi, rèn luyện khả năng ngôn ngữ
thông qua cộng tác làm việc trong nhóm, phát triển năng lực giao tiếp, biết lắng
nghe, chấp nhận và phê phán ý kiến người khác. Đồng thời, các em biết đưa ra
những ý kiến và bảo vệ những ý kiến của mình.
Giúp cho học sinh có sự tự tin trong học tập, vì học sinh học tập theo hình
thức hợp tác và qua giao tiếp xã hội - lớp học, cho nên các em sẽ mạnh dạn và
không sợ mắc phải những sai lầm.
Hình thành phương pháp nghiên khoa học cho học sinh: thông qua thảo
luận nhóm, nhất là quá trình tự lực giải quyết các vấn đề bài học, giúp các em
hình thành dần phương pháp nghiên cứu khoa học, rèn luyện và phát triển năng
lực khoa học trong mọi vấn đề cuộc sống.
Tăng cường tri thức, hiệu quả trong học tập: qua học nhóm, học sinh có thể
nắm bài ngay trên lớp, hình thành những tri thức sáng tạo thông qua sự tự tư duy
của mỗi thành viên. Áp dụng phương pháp này sẽ khích thích học sinh tìm kiếm
những nguồn tri thức có liên quan đến vấn đề thảo luận. Trên cơ sở đó, các em
sẽ thu lượm những kiến thức cho bản thân thông qua quá trình tìm kiếm tri thức.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

Trong những năm gần đây, phương pháp thảo luận nhóm được giáo viên
sử dụng trong nhiều giờ dạy Ngữ văn ở các trường THPT nói chung và THPT
Như Thanh 2 nói riêng. Khi dự giờ các tiết học của đồng nghiệp khác chuyên
môn và cùng chuyên môn, chúng tôi thấy có những tiết dạy thành công do giáo
viên vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học trong đó có phương
pháp thảo luận nhóm. Song có một số tiết dạy chưa thật sự thành công, thậm chí
thất bại khi sử dụng phương pháp này. Trong phạm vi sáng kiến, tôi tập trung
nghiên cứu khảo sát, điều tra, phân tích những mặt còn tồn tại, hạn chế nổi bật
mà giáo viên và học sinh gặp phải trong quá trình sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm vào dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Như Thanh 2.
Xuất phát từ tâm lí của đa số giáo viên, đổi mới phương pháp dạy học là
phải sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Không sử dụng là không đổi
mới. Điều đó dẫn tới tình trạng không ít giáo viên khi soạn giảng cố tình ép
phương pháp này vào mọi bài học dù cho có những bài Đọc văn sử dụng là
không phù hợp. Đặc biệt trong các giờ dự giờ thăm lớp, thao giảng, hội giảng,
thi giáo viên giỏi thì việc chú trọng hình thức còn diễn ra phổ biến. Như vậy,
thực trạng lạm dụng phương pháp sẽ lợi ít hại nhiều, sẽ phá hỏng một phương
5


pháp tốt hiện nay của nghề dạy học. Tình trạng phòng học bàn ghế san sát, lớp
đông chật cứng (40 - 45 học sinh), thầy cô vẫn dõng dạc chia thành nhóm, giao
nhiệm vụ và vẫn có nhóm trưởng thuyết trình sản phẩm. Rõ ràng là có hoạt động
nhưng mang tính hình thức cao mà chưa chú trọng đến việc học sinh đạt được
gì, có được gì sau phần thảo luận nhóm đó.
Trong dạy học Văn, để sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, giáo viên
phải xác định sử dụng vào hoạt động nào cho phù hợp. Để đạt hiệu quả giáo viên
cần lựa chọn vấn đề thảo luận mang tính chất tranh luận, hấp dẫn khơi dậy tính
tích cực của học sinh. Nếu không sẽ đi ngược lại với hiệu quả tích cực của
phương pháp này mang lại.

Ví dụ: Dự giờ bài Nhàn của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm, thầy giáo Vũ
Quang Bình chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm tìm hiểu hai câu:
Nhóm 1: Tìm hiểu hai câu đề
Nhóm 2: Tìm hiểu hai câu thực
Nhóm 3: Tìm hiểu hai câu luận
Nhóm 4: Tìm hiểu hai câu kết
Rõ ràng là sử dụng câu hỏi thảo luận như vậy là chưa phù hợp, khá đơn
điệu chưa tạo sự hứng thú cho học sinh. Phần thảo luận trải cả bài ‘‘Nhàn”
khiến học sinh thiếu định hướng cần thiết. Dù thầy đã cố gắng hỗ trợ tuy nhiên
kết quả thảo luận nhóm chưa hiệu quả: chỉ một, hai học sinh làm việc trong
nhóm, sản phẩm nhóm chưa đáp ứng yêu cầu bài, phần trình bày còn khiên
cưỡng,... Đối với lớp 10B5 đa phần là học sinh có lực học trung bình nên việc tổ
chức nhóm như vậy là quá sức so với các em. Để đảm bảo, giáo viên có thể chọn
một hoạt động nhỏ cuối bài để học sinh thảo luận, củng cố kiến thức với câu hỏi
như: Có người cho rằng chữ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thoát li thực tại
xã hội, chỉ cốt lo sự nhàn hạ bản thân. ý kiến của em như thế nào? Sau đó chia
lớp thành các nhóm, mỗi nhóm 4 bạn. Thời gian thảo luận là 3 phút, sau đó đại
diện các nhóm phát biểu. Giáo viên định hướng, nhận xét, chốt ý để tổng kết bài
học.
Một thực trạng nữa khi tổ chức nhóm cho học sinh đang tồn tại là giáo
viên quá tin tưởng học sinh, nhiều khi chỉ đơn thuần giao nhiệm vụ cho học sinh
mà chưa có sự kiểm tra, đôn đốc phần chuẩn bị thảo luận của các em. Dẫn đến
việc học sinh không chuẩn bị hoặc chuẩn bị sơ sài. Như vậy thảo luận nhóm sẽ
không sôi nổi thậm chí xảy ra tình trạng dở khóc dở cười khi dạy học. Ví dụ khi
dự tiết Người cầm quyền khôi phục uy quyền, thầy giáo Nguyễn Văn Lực cũng
chia lớp thành 4 nhóm theo đơn vị tổ. Trong quá trình thảo luận nhóm, học sinh
6


lớp 11C6 không chuẩn bị kĩ nên nhiều học sinh không tích cực, không tương tác

với giáo viên, các em hợp tác một cách gượng gạo, thậm chí có học sinh trả lời
sai hoàn toàn so với văn bản.
Đồng thời cách chia nhóm nhiều khi chưa linh hoạt, đa phần giáo viên hay
chia nhóm theo đơn vị tổ, gây nhàm chán, đơn điệu, chưa phát huy hết khả năng
của tất cả học sinh vì tổ khá đông từ 10-12 học sinh.
Mặt khác, giáo viên thường ấn định việc chọn học sinh khá, giỏi làm nhóm
trưởng trước mà không do nhóm tự bầu hoặc luân chuyển giữa các thành viên
trong nhóm. Cho nên chỉ có số ít học sinh làm việc thật sự, còn lại các em
thường ngồi chơi, nói chuyện, làm việc riêng, thậm chí ngồi không. Một số học
sinh không ý thức được sự cần thiết phải hợp tác để chiếm lĩnh tri thức nên
nhiều khi các em biến hoạt động thảo luận thành cơ hội để tán gẫu, lãng phí thời
gian, gây ồn ào, ảnh hưởng tới lớp khác. Sự phát triển không đồng đều giữa các
học sinh trong các nhóm cũng là tồn tại cần lưu ý khắc phục.
Bản thân tôi, trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm ở phần I. Cuộc đời
Nguyễn Du, bài Truyện Kiều ở lớp 10B1, học sinh làm việc sôi nổi, tích cực. Cô
và trò say sưa thảo luận nên dẫn đến hạn chế mất nhiều thời gian cho hoạt động
này. Đây là hạn chế nổi bật khi sử dụng phương pháp này cần khắc phục để đạt
hiệu quả bài học đạt như mong muốn.
Hơn nữa, khi tiến hành thảo luận nhóm, một số giáo viên thường ngồi tại
chỗ nên không quan sát, bao quát hết được học sinh trong lớp làm gì trong thời
gian thảo luận, dẫn tới tình trạng có học sinh lợi dụng làm việc riêng, nói chuyện
trong thời gian này. Giáo viên cũng không nắm bắt được những khó khăn, lúng
túng của học sinh trong quá trình thảo luận để có sự gợi ý, hỗ trợ kịp thời.
Khi thảo luận xong, học sinh thường viết phương án trả lời ra bảng hoặc ra
giấy, nhóm trưởng thay mặt nhóm đọc kết quả thảo luận trước lớp hoặc viết lên
bảng. Giáo viên gọi học sinh khác nhận xét, bổ sung và kết luận. Giáo viên có
nhận xét tuy nhiên mới dừng ở việc đánh giá kết quả mà chưa nhận xét cả quá
trình tham gia hoạt động nhóm của học sinh. Điều đó khiến học sinh không
những không thấy hạn chế của mình, không khắc phục dẫn đến lỗi vẫn lặp lỗi,
học sinh không tiến bộ. Đồng thời, khi kiểm tra vở học sinh sau giờ học, tôi thấy

đa số học sinh chỉ tập trung vào sản phẩm chung mà ít chú tâm đến việc ghi bài,
kết quả các em ghi có phần sơ sài, có em không kịp ghi thậm chí có em không
ghi bài.
Từ những thực trạng trên cho thấy việc sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục để phát huy ưu điểm của

7


phương pháp dạy học tích cực này trong môn Ngữ văn nói riêng và trong dạy
học nói chung.
Qua nghiên cứu từ các tiết dự giờ thao giảng, dự giờ thăm lớp và quá trình
dạy môn Ngữ văn ở trường THPT Như Thanh 2, xét về những hạn chế của
phương pháp thảo luận nhóm, tôi thấy nguyên nhân chủ yếu đó là:
Thứ nhất, do yêu cầu cao của việc đổi mới phương pháp trong hoạt động
giáo dục, khi tiến hành, giáo viên tự gò ép mình một cách máy móc, áp đặt việc sử
dụng mà chưa vận dụng linh hoạt, sáng tạo, chưa đầu tư nhiều vào khâu soạn
giảng,...
Thứ hai, đa số giáo viên đều thấy được ưu điểm của phương pháp thảo luận
nhóm khi vận dụng vào hoạt động dạy học môn của mình song việc nắm vững quy
trình hay kỹ năng tiến hành thảo luận nhóm chưa chú trọng rèn luyện nhiều,...
Thứ ba, đối tượng học sinh của trường THPT Như Thanh đa số là con em
đồng bào dân tộc (vùng 135) cho nên nhiều em thiếu kiến thức, kĩ năng làm việc
theo nhóm, chưa có tinh thần tự giác, chủ động, tích cực tham gia hoạt động học
tập,...
Ngoài ra do điều kiện lớp học còn chật chội, cơ sở vật chất chưa đảm bảo.
Quỹ thời gian cho môn học quá eo hẹp, gây khó khăn, mệt mỏi cho giáo viên lẫn
học sinh trong tổ chức hoạt động học tập theo nhóm vì phải làm việc quá tải. Vì
thế gây khó khăn khá lớn cho việc thảo luận nhóm.
2.3. Một số biện pháp giải quyết thực trạng.

2.3.1. Giải pháp 1: Thay đổi nhận thức của một số giáo viên dạy Văn khi sử
dụng phương pháp thảo luận nhóm
Môn Ngữ văn có 3 phân môn là: Đọc văn, Tiếng Việt và Làm văn. Trong
quá trình dạy học, giáo viên cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp
dạy học tích cực sao cho phù hợp với nội dung bài học nhằm khai thác tính chủ
động trong hoạt động học của học sinh.
Giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn và ngay cả một bộ phận cán
bộ quản lý chuyên môn tuyệt đối không xem thảo luận nhóm là “kim chỉ nam”
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng vào mọi điều kiện, mọi
thời điểm, mọi dạng thức bài học. Chúng ta nên tránh quan điểm sai lầm “đổi
mới phương pháp là phải tổ chức hoạt động nhóm”. Đồng thời cũng cần nhận
thấy rằng sử dụng phương pháp mới cần có sự đầu tư thời gian, công sức, tâm
huyết thì mới thực sự đem lại hiệu quả cao. Tránh tình trạng làm cho có làm, qua
loa, đại khái một cách chiếu cố, sẽ làm mất đi tác dụng tích cực mà phương pháp
này đem lại.
8


Với môn Ngữ văn, phương pháp thảo luận nhóm rất thích hợp với việc
dạy các bài Tiếng Việt và Làm văn.
Ví dụ: Bài Đặc điểm loại hình của tiếng Việt (CTNV 11, HKII), phần
Luyện tập, Bài 1: Hãy phân tích những ngữ liệu dưới đây về mặt từ ngữ (chú ý
những từ ngữ in đậm) để chứng minh tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn
lập.
- Trèo lên cây bưởi hái hoa,
Bước xuống ruộng cà hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc,
Em có chồng rồi anh tiếc lắm thay.
- Thuyền ơi có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

- Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.
Tôi mời ba em làm bài viết lên bảng, còn lại ở dưới lớp các em làm bài
độc lập ra nháp. Sau đó ghép nhóm, cứ hai bạn làm một nhóm. Mời ba em khác
lên bảng dùng phấn khác màu chữa phần bài mà mình cho là chưa đúng hoặc bổ
sung phần còn thiếu sót. Tương tự như vậy ở dưới lớp hai bạn được ghép nhóm
đổi bài cho nhau để giúp nhau sửa chữa, bổ sung bài cho hoàn thiện. Sau cùng,
giáo viên sửa mẫu các bài trên bảng để các em đói chiếu đúng sai. Với cách làm
như trên, linh hoạt khi tổ chức hoạt động nhóm, tôi nhận thấy trong hoạt động
nhóm học sinh nào cũng được làm việc. Giờ học vẫn sôi nổi, không nhàm chán
mà lại đat được hiệu quả giáo dục.
Đối với mỗi phân môn, cần lựa chọn chủ đề thảo luận sao cho phù hợp.
Đặc biệt trong phần Đọc văn không nên áp đặt hay khiên cưỡng sẽ làm mất đi
đặc thù riêng của văn bản, khiến văn bản trở nên rời rạc, thiếu chất văn chương,
tiết học trở nên thô cứng, thiếu cảm xúc,...
Ví dụ: Tổ chức cho HS thảo luận nhóm khi dạy Chí Phèo (tiết 53), tôi chia nhóm
để mỗi nhóm thấy được một phần của bức tranh nông thôn Việt Nam mà thu nhỏ
lại chính là hình ảnh làng Vũ Đại. Hoàn thành phần thảo luận nhóm với những
nội dung sau là cơ sở để các em có cái nhìn về xã hội, nơi đó sẽ sinh ra những
điển hình như Bá Kiến, Chí Phèo.
Nhóm 1: Nam Cao đã đưa vào tác phẩm những loại người nào để hình thành
diện mạo của làng Vũ Đại?
9


Nhóm 2: Em có nhận xét gì về làng Vũ Đại nói riêng và bổi cảnh xã hội nông
thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám nói chung?
Nhóm 3: Đọc và tìm những chi tiết miêu tả chân dung bá Kiến: Về ngoại hình,
tính cách bản chất…? ( Chú ý cái cười, giọng nói…)
Nhóm 4: Nét điển hình trong tính cách của Bá là gì? Bá Kiến là con người như
thế nào?

Như vậy, lựa chọn phần thảo luận phù hợp, tiết học sẽ thực sự hấp dẫn,
hiệu quả cao. Chỉ những hoạt động đòi hỏi sự phối hợp của các cá nhân để hoàn
thành nhiệm vụ nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn hoạt động cá nhân thì mới nên
sử dụng phương pháp này. Đổi mới phương pháp dạy học nói chung trong đó có
sử dụng phương pháp thảo luận nhóm chỉ thực sự đạt hiệu quả ở những giáo
viên có năng lực, chịu khó tìm tòi, học tập, vận dụng sáng tạo và nhất là cái tâm
của người thầy. Tất cả vì học sinh thân yêu!
2.3.2. Giải pháp 2: Chú trọng rèn luyện kỹ năng sử dụng phương pháp
thảo luận nhóm trong dạy học Ngữ văn cho giáo viên và học sinh
Trước hết giáo viên và học sinh cần tích cực học tập tìm hiểu về đổi mới
phương pháp dạy và học trong đó có phương pháp thảo luận nhóm, phải nắm
vững khái niệm, tác dụng, ưu nhược điểm của phương pháp, nhất là nắm vững
các bước tiến hành hoạt động nhóm:
Bước 1: Giao nhiệm vụ học tập
- Giáo viên giới thiệu chủ đề thảo luận nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ học tập.
- Tổ chức chia nhóm phù hợp, giao nhiệm vụ cho các nhóm, quy định thời
gian và phân công cụ thể nhiệm vụ làm việc cho các nhóm.
- Hướng dẫn cách làm việc theo nhóm. Kiểm tra khâu chuẩn bị của các nhóm.
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học tập
- Các thành viên hoàn thành nhiệm vụ được phân công, sau đó cùng trao đổi, tìm
câu trả lời, thống nhất ý kiến. Ghi ý kiến thống nhất vào biên bản thảo
luận
nhóm.
- Trong khi học sinh tiến hành trao đổi, thảo luận giáo viên theo dõi, quan
sát, khuyến khích các em hợp tác. Giáo viên hỗ trợ kịp thời, hiệu quả khi
các em gặp khó khăn,…
Bước 3: Báo cáo kết quả và thuyết trình sản phẩm

10



- Các thành viên được cử hoặc luân phiên trình bày sản phẩm, đảm bảo
thời gian quy định.
- GV lưu tâm tạo cơ hội để nhiều em trong nhóm hoặc nhóm khác trao đổi,
đóng góp, xây dựng bài tuy nhiên luôn chủ động trong việc tổ chức
định hướng phần thảo luận sao cho tập trung.
Bước 4: GV nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập, chính
xác hóa kiến thức bài/nội dung thảo luận.
Ví dụ: Khi dạy phần I. Cuộc đời Nguyễn Du trong bài Truyện Kiều, Ngữ văn
10, tôi tiến hành theo quy trình:
Bước 1: Giao nhiệm vụ học tập (phát phiếu học tập và biên bản thảo luận)
- Các nhóm phân công nhiệm vụ cho từng thành viên và ghi vào biên bản.
- Thời gian thảo luận: 3 phút.
- Nội dung thảo luận và phân công nhiệm vụ, cụ thể:
+ Nhóm 1: Phiếu học tập 1 ( Thời đại)
+ Nhóm 2: Phiếu học tập 2 (Quê hương)
+ Nhóm 3: Phiếu học tập số 3 (Gia đình)
+ Nhóm 4: Phiếu học tập số 4 (Bản thân)
Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ học tập
– Các thành viên hoàn thành nhiệm vụ được phân công, sau đó cùng trao
đổi, tìm câu trả lời, thống nhất ý kiến. Ghi ý kiến thống nhất vào biên bản
thảo luận nhóm.
– Trong khi học sinh tiến hành trao đổi, thảo luận giáo viên theo dõi, quan
sát, khuyến khích các em hợp tác. Giáo viên hỗ trợ kịp thời, hiệu quả khi
các em gặp khó khăn,…
Bước 3 : Báo cáo kết quả và thuyết trình
Nhóm 1. Em Vi Thanh Trí lên trình bày yếu tố thời đại:
– Đầy biến động: giang sơn mấy lần đổi chủ
– Chế độ phong kiến suy tàn, phong trào khởi nghĩa nông dân nổi lên
khắp nơi.

=> Suy ngẫm về cuộc đời và thế thái nhân sinh.
Nhóm 2: Em Lê Thị Mai trình bày yếu tố quê hương:
– Quê cha: Hà Tĩnh->giàu truyền thống văn hóa, hiếu học.
– Quê mẹ : Bắc Ninh– cái nôi của dân ca quan họ
– Nguyễn Du sống chủ yếu ở Thăng Long -> Mảnh đất nghìn năm văn hiến.
– Quê vợ : Thái Bình, nhiều truyền thống văn hóa.
11


-> Tiếp nhận văn hóa nhiều vùng miền tạo tiền đề cho sự tổng hợp tài năng nghệ
thuật.
Nhóm 3. Em Vũ Thị Trang trình bày yếu tố gia đình:
– Sinh ra và trưởng thành trong gia đình quý tộc phong kiến quyền quý:
+ Cha: Nguyễn Nghiễm, từng làm Tể Tướng trong triều Lê
+Anh là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ
chúa Trịnh.
-> Có điều kiện dùi mài kinh sử và am hiểu vốn văn hóa văn học bác học.
– Mẹ: Trần Thị Tần: quê ở Bắc Ninh, thông minh xinh đẹp, nết na.
-> Hiểu biết về văn hóa dân gian
=>Gia đình nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học, thích hát xướng.
Nhóm 4. Em Quách Văn Huy trình bày yếu tố bản thân:
- Thời thơ ấu và thanh niên (1765 - 1789): Sống sung túc, hào hoa ở kinh thành
Thăng Long trong gia đình quyền quý. Là điều kiện để có những hiểu biết về
cuộc sống ông phong lưu, hào hoa của giới quý tộc phong kiến.
- Mười năm gió bụi (1789 - 1802): Sống cuộc đời nghèo khổ, phong trần, gió
bụi. Đem lại cho Nguyễn Du vốn sống thực tế gần gũi với quần chúng, học tập
ngôn ngữ dân tộc và thôi thúc ông suy ngẫm về cuộc đời con người .
- Từ khi ra làm quan triều Nguyễn (1802 - 1820): Giữ nhiều chức vụ cao, được
đi nhiều nơi, được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. Giúp ông mở mang, nâng
tầm khái quát về xã hội, con người.

Trong quá trình thảo luận, trình bày: các nhóm đã hoàn thành khá tốt
nhiệm vụ, có nhận xét, bổ sung, đóng góp cho sản phẩm nhóm mình, xây dựng
đóng góp cho các nhóm khác. Phần trình bày của các em rất tự tin, chủ động,
hấp dẫn.
Bước 4: Giáo viên nhận xét, đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập, chính
xác hóa kiến thức.
GV: Các thành viên của các nhóm hoạt động tích cực, các bạn đưa ra đóng góp
sôi nổi trong hoạt động thảo luận, có nhiều phát biểu hay. Cô khen 3 nhóm 1,3,4,
mỗi nhóm 9 điểm. Nhóm 2 lưu tâm, cần đóng góp trên tinh thần xây dựng nhiều
hơn, 8 điểm.
GV: Qua phần thảo luận, trình bày của các nhóm, em có nhận xét gì về cuộc đời
Nguyễn Du?
HS: phát biểu.
12


GV: chốt, liên hệ, đặt ra câu hỏi: Trong các yếu tố ( thời đại, quê hương, gia đình
và bản thân) thì theo em yếu tố nào có tính chất quyết định đến việc hình thành
nên thiên tài Nguyễn Du? Từ đó em có suy nghĩ như thế nào về vấn đề rèn luyện
để phát triển bản thân?
HS: Trả lời các câu hỏi ( tôn trọng suy nghĩ cá nhân)
GV: Định hướng mở rộng.
Đồng thời giáo viên cần nỗ lực tự học, tự rèn luyện kĩ năng thực hành
phương pháp cho mình và học sinh trong quá trình giảng dạy. Kinh nghiệm thực
tiễn cho thấy giáo viên đầu tư từ khâu soạn giảng, dạy học, đánh giá, đúc rút
kinh nghiệm nghiêm túc, chất lượng dạy học đều được nâng lên.
2.3.3. Giải pháp 3: Đa dạng hóa các hình thức tổ chức thảo luận nhóm
Để hạn chế sự phát triển không đồng đều của học sinh trong các nhóm, có
học sinh rất tích cực, ngược lại có em ỷ lại, trông chờ, thậm chí ngồi chơi, giáo
viên ngoài việc các nhóm phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên, giáo

viên nên thay đổi, đa dạng cách chia nhóm như: nhóm tình bạn, nhóm học lực,
nhóm hỗn hợp, nhóm kim tự tháp; đa dạng hình thức tổ chức thảo luận nhóm:
trên lớp, về nhà,...Giáo viên lựa chọn cần căn cứ vào nội dung, vấn đề thảo
luận, tình hình lớp, đặc thù học sinh để tất cả các em đều có cơ hội tham gia,
thể hiện, rèn luyện kĩ năng hợp tác. Đồng thời có sự vận dụng sáng tạo, linh
hoạt trong việc sử dụng hình thức, kĩ thuật tổ chức thảo luận nhóm.
Ví dụ 1: Thảo luận nhóm với kĩ thuật khăn phủ bàn
Qua thực tế áp dụng, tôi thấy sử dụng kết hợp dạy học hợp tác với kĩ
thuật khăn phủ bàn có tính khả thi cao vì đây là một kĩ thuật dạy học đơn giản,
dễ thực hiện, có thể tổ chức trong tất cả các bài học. Kĩ thuật khăn phủ bàn
khắc phục được những hạn chế của học sinh theo nhóm vì khi hoạt động đòi
hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ viết ra ý kiến của
mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa hoạt động cá nhân
và hoạt động nhóm, nhờ vậy hiệu quả học tập được bảo đảm và không mất
nhiều thời gian cũng như giữ được trật tự trong tiết học.
- Hình thức: trên khổ giấy A3, chủ đề thảo luận ghi ở chính giữa, chia các phần
còn lại thành 4-6 phần theo số thành viên trong nhóm. Mỗi người sẽ cùng ghi
câu trả lời của mình vào các phần đã được chia (trong khoảng 3-5 phút) . Sau đó
đại diện nhóm dán giấy A3 lên bảng, thuyết trình.. Các nhóm khác nhận xét, bổ
sung ý kiến (nếu có)

13


- Gv nhận xét, bổ sung, nhấn mạnh trọng tâm (thống nhất ý kiến hoặc điều
chỉnh cách hiểu nếu có cách hiểu, lý giải vấn đề, định hướng nếu sai lệch…)
- Mục đích :
+ Xác định trọng tâm bài học, ý nghĩa tác phẩm.
+ Hiểu tác phẩm, đồng sáng tạo với nhà văn.
+ Giáo dục kĩ năng sống, rút ra bài học cho bản thân.

Minh họa: Với bài học Chí Phèo: Phần thảo luận tôi có câu hỏi:
- Theo em, để cứu lấy những con người như Chí Phèo thì xã hội cần phải làm
gì? Qua hình tượng nhân vật bất hủ Chí Phèo, theo em Nam Cao muốn đề cập
tới một vấn đề quan trọng nhất là gì? (Nhóm 1+2)
- Nếu được viết lại kết truyện Chí Phèo, em sẽ viết lại như thế nào? (Nhóm 3+4)
- Nếu trong lớp ta có một “Chí Phèo” thì chúng ta có kỳ thị như làng Vũ Đại kỳ
thị Chí Phèo của Nam Cao không?( Nhóm 5+6)
Tôi nhận thấy với cách này, thay vì chỉ có 1-2 em được trình bày ý kiến,
suy nghĩ của mình mà tất cả các em buộc phải suy nghĩ, phải viết ý kiến đó ra
trong cùng một khoảng thời gian nhất định. Vừa tiết kiệm thời gian vừa tạo điều
kiện cho nhiều học sinh hào hứng cùng hoạt động trong một bài tập. Cũng tránh
được sự nhàm chán và ỷ lại, lười suy nghĩ của các em.
Ví dụ 2: Thảo luận nhóm kết hợp với trò chơi:
Tôi sẽ trình bày một số trò chơi dễ vận dụng kết hợp với thảo luận nhóm
đã và đang đem lại hiệu quả học tập cao:
Minh họa: Trò chơi Nhanh tay - nhanh trí trong bài ôn tập phần Văn học (CTNV
11- HKI ), để hệ thống lại toàn bộ các tác phẩm, tác giả trong chương trình HKI,
GV tổ chức trò chơi nho nhỏ(trong vòng 10 phút). Gv chuẩn bị sẵn phiếu học
tập đã kẻ sẵn bảng biểu lần lượt các cột mục: STT, Tên tác giả, Tên tác phẩm,
thể loại, Năm sáng tác/ xuất xứ, Nội dung, Nghệ thuật. Chia lớp thành 6 nhóm.
Các nhóm thi viết các nội dung trên vào phiếu học tập, trong vòng 10 phút,
không sử dụng bất kì sách , vở, tài liệu nào, nhóm nào viết được sống lượng
nhiều và đầy đủ sẽ chiến thắng. Hình thức thưởng, phạt do lớp quy định. Việc
lồng ghép trò chơi điền bảng, thảo luận nhóm khi dạy các bài Khái quát, Ôn tập
khá phù hợp và đạt hiệu quả cao. Thay vì cho HS lập bảng thống kê bình
thường, trong giờ Ôn tập, GV chia lớp thành các nhóm khác nhau, cử đại diện
14


trình bày, nhận xét… Bằng cách này, tôi nhận thấy giờ học sinh động, hào hứng

hơn nhiều so với cách truyền thống.
Minh họa: Trò chơi Tiếp sức trong bài Thực hành về thành ngữ và điển cố
(CTNV 11), Bài tập 6: Đặt câu với mỗi thành ngữ sau:





Mẹ tròn con vuông.
Lòng lang dạ thú.
Trứng khôn hơn vịt.
Đi guốc trong bụng…

GV cho học sinh làm bài tập bằng cách chơi trò chơi: Tiếp sức theo nhóm.
Gọi một HS xung phong giải thích một thành ngữ và đặt câu với thành ngữ đó.
Nếu trả lời đúng thì sẽ được chỉ định mời một học sinh khác của nhóm mình tiếp
tục công việc này. Yêu cầu là người kế tiếp không chọn thành ngữ mà bạn trước
đó đã chọn. Như vậy, học sinh làm bài tập thực hành bớt nhàm chán và hào hứng
tham gia tích cực, sôi nổi, đem lại hiệu quả cho bài học.
Ngoài ra có thể sử dụng kĩ thuật ổ bi, các mảnh ghép, sử dụng phiếu học
tập ,…làm tăng hiệu quả của phương pháp thảo luận nhóm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Qua thực tiễn giảng dạy, tôi đã ứng dụng và khảo sát 3 lớp đang trực tiếp
giảng dạy là 10B1, 11C3 và 11C5 từ học kỳ I sang học kỳ II, thấy được hiệu quả
khả thi của việc khắc phục những hạn chế, tồn tại nổi bật khi sử dụng phương
pháp thảo luận nhóm.
* Bảng kết quả khảo sát lớp B1
Đồng ý
Các lĩnh vực

Số
HS
Học sinh thích giáo viên sử dụng
30
phương pháp TLN trong giờ dạy
TPVC.
Việc vận dụng phương pháp TLN phát
32
huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và tinh thần tự học của học sinh.
Phương pháp TLN giúp phát huy năng
30

%

Không đồng
ý
Số HS %

Không có ý
kiến
Số HS %

90,1

3

9,9

0


0

96,7

1

3,3

0

0

90,1

3

9,9

0

0
15


lực cộng tác, năng lực giao tiếp cho
học sinh.
Từ kết quả thực nghiệm trên, chúng ta có thể kết luận rằng đa số học
sinh thích giờ học có vận dụng phương pháp thảo luận nhóm. Phương pháp
này phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Mặc dù không thể

khắc phục hết hạn chế và tồn tại khi sử dụng nhưng đã góp phần hạn chế tối
đa những tồn tại.
Tôi đã thống kê chất lượng khảo sát đầu năm, sau đó phát phiếu thăm dò ý
kiến học sinh yêu thích học môn Ngữ văn ngay từ đầu năm học. Sau khi thi học
kì 2, người viết thống kê chất lượng 2 lớp và lại phát phiếu thăm dò ý kiến học
sinh yêu thích học môn Ngữ văn. Kết quả thu được đã có sự khác biệt tương đối
rõ. Tổng hợp kết quả tiếp thu bài của học sinh qua hoạt động kiểm tra, đánh giá
ở các lớp 11C3 và 11C5 như sau:
Kết quả thăm dò ý kiến học sinh
Thời gian
Hứng thú
Không hứng thú
Đầu năm học
18 học sinh
24 học sinh
Lớp 11C3
Cuối năm học
40 học sinh
2 học sinh

Lớp 11C5

Thời gian
Đầu năm học
Cuối năm học

Hứng thú
16 học sinh
37 học sinh


Không hứng thú
22 học sinh
1 học sinh

KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRƯỚC VÀ SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM:
KẾT QUẢ XẾP LOẠI
Khối lớp

Đầu
năm

Tổng số
học sinh

11C3

42

11C5

38

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu


TS

%

TS

%

TS

%

TS

%

0

0%

6

14,3%

24

57,1%

12


28,6%

6

15,8%

20

52,6%

12

31,6%

0

0%

16


Cuối
năm

11C3

42

11C5


38

2
2

4,8%

12

28,6%

26

61,9%

5,3%

10

26,3%

25

65,8%

2
1

4,7%

2,6%

Để tài này có khả năng ứng dụng và triển khai rộng rãi trong các giờ Ngữ
văn trong chương trình Ngữ Văn THPT. Các bài học nếu phù hợp nên vận dụng
phương pháp thảo một cách linh hoạt, sáng tạo, hạn chế những tồn tại bấy lâu
nay trong phương pháp dạy học này tạo hiệu ứng tích cực của phương pháp. Tôi
hi vọng sáng kiến này sẽ góp thêm một nguồn tài liệu có tính ứng dụng cao đối
với bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài trường THPT Như Thanh 2. Bởi để bài
dạy thành công, đạt hiệu quả thì cần rất nhiều yếu tố. Trong đó việc vận dụng
những phương pháp dạy học tích cực luôn được giáo viên chú trọng. Nhất là
phương pháp thảo luận nhóm giúp lôi cuốn học sinh tham gia vào bài học, làm
cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự
tin của các em, rèn luyện cho các em năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình và
hiểu ý diễn đạt của người khác, tích hợp kiến thức của nhiều môn học.
Khắc phục những hạn chế, tồn tại nổi bật trong dạy học bằng phương
pháp thảo luận nhóm, bản thân nhận thấy sự phấn khởi của không chỉ học sinh
mà ngay cả giáo viên cũng như được tiếp thêm động lực, thêm niềm tin để tiếp
tục yêu nghề và yêu hành trình không ít gian nan của nghề giáo.
Đề tài này được xây dựng từ chính thực tiễn dạy- học môn Ngữ văn ở
trường THPT Như Thanh 2. Nó thực sự đã đem lại hiệu quả: vừa định hình kiến
thức bài học; rèn luyện kĩ năng nói chung và nhất là hình thành và rèn luyện
được những kĩ năng sống cần thiết như năng lực hợp tác, năng lực thuyết trình,...
xây dựng được ở các em tinh thần chủ động, tự giác, tự bộc lộ và bảo vệ quan
điểm, chủ kiến cá nhân trước tập thể, sau nữa là cộng đồng. Và bởi một điều
quan trọng:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

17



3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Phương pháp thảo luận nhóm là một phương pháp dạy học hiện đại, phát
huy tính tích cực, chủ động, tự lực của học sinh, là một trong những phương
pháp thích hợp để vận dụng vào dạy học môn Ngữ văn.
Dựa vào cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm vào dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT Như Thanh 2, chúng tôi đi
sâu vào nghiên cứu, đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế,
khó khăn nổi bật của việc vận dung phương pháp dạy học này nhằm nâng cao
hơn nữa hiệu quả dạy và học.
Cần lưu ý là để khắc phục được những mặt còn tồn tại của phương pháp
thảo luận nhóm, giáo viên cần phải có sự sáng tạo, lòng yêu nghề,... cần vận
dụng phối hợp nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học khác thì bài dạy mới mang
lại hiệu quả cao.
3.2. Kiến nghị
Về phía học sinh: cần chủ động tích cực rèn luyện kĩ năng hợp tác dựa
trên sự hướng dẫn của giáo viên. Bản thân học sinh với năng lực và tính cách sẽ
có những ảnh hưởng lên nhóm, đồng thời cũng chịu những tác động của bạn bè
cả về điều tốt lẫn xấu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhờ các hoạt động
trong nhóm, chúng ta vừa phát triển những kỹ năng cá nhân, thu nạp những kiến
thức, kinh nghiệm cho bản thân, đồng thời góp phần vào các hoạt động đem lại
những giá trị về vật chất và tinh thần cho tập thể, cộng đồng.
Về phía giáo viên: xác định tầm quan trọng và ý nghĩa, thực trạng của
việc sử phương pháp thảo luận nhóm để có cách thức vận dụng sáng tạo mà hiệu
quả phương pháp dạy học này; tránh tình trạng áp đặt máy móc, lạm dụng
phương pháp mà không để tâm đến tác dụng ngược của nó trong dạy học môn
học có tính đặc thù như môn Ngữ văn.
Về phía nhà trường: cần có sự đầu tư về phòng học đủ diện tích, bàn đơn
ghế đơn; sĩ số không quá 35 em/lớp là điều quan trọng để thực hiện phương

18


pháp thảo luận nhóm. Đồng thời nhà trường và nhất là Ban chuyên môn cần tổ
chức buổi thảo luận theo chuyên đề để hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên; để giáo
viên, học sinh tiếp tục trao đổi, tìm ra những giải pháp thực sự hữu hiệu để vận
dụng phương pháp dạy học tích cực này.

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 05 năm 2019
XÁC NHẬN CỦA BGH

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép của người khác.
Người viết

Phạm Thị Phương Thảo

19


1.

2.
3.
4.
5.
6.
7.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nguyễn Văn Cường (2010), Một số vấn đề chung về đổi mới phương
pháp dạy học ở trường trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
Đặng Thành Hưng (2000), Dạy học hiện đại. Lí luận - biện pháp- kĩ thuật,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn trường phổ thông, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, 2000.
Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh (2003), Phương pháp dạy văn, tập 1, Nxb
Giáo dục.
Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh, Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt
(2005), Phương pháp dạy học văn, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội
Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà
trường, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
Lê Vinh Quốc (2011), Chuyên đề đổi mới dạy học theo khoa học giáo dục
hiện đại, NXB Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

8. Bùi văn Trực, Phạm Thế Hưng (2014), Phương pháp giảng dạy kỹ năng
sống, NXB Văn hóa – Thông tin.
9. Nguyễn Trọng Sửu (2008), ‘Dạy học nhóm, phương pháp dạy học tích
cực’, Tạp chí giáo dục số 171.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP SỞ GD&ĐT

Họ và tên tác giả: Phạm Thị Phương Thảo
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường THPT Như Thanh 2

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1. Sử dụng bản đồ tư duy trong
Cấp Sở
C
2011 - 2012
dạy học phần Văn học của
môn Ngữ văn ở trường THPT
Quan Sơn 2.
2. Một số biện pháp hướng dẫn Cấp Sở
C
2015 - 2016
học sinh lớp 12A1 trường
THPT Quan Sơn 2 làm tốt
dạng đề “Nghị luận về hiện
tượng trong đời sống” trong
kì thi tốt nghiệp THPT Quốc
gia.
3. Một số biện pháp hướng dẫn

Cấp Sở
C
2016 - 2017
học sinh khối 11 trường
THPT Quan Sơn 2 rèn luyện
kĩ năng viết đoạn văn nghị
luận trên con đường chinh
phục kỳ thi tốt nghiệp THPT
Quốc gia năm 2018.

21


22



×