Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận Thạc sỹ luật chính sách hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.02 KB, 30 trang )

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT HỌC

Họ và tên tác giả tiểu luận: Nguyễn Thị Thành

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÊN HỌC PHẦN: CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ

Ngành, chuyên ngành: Luật Hình sự
Giảng viên: GS. TS. VÕ KHÁNH VINH

Đồng Nai, năm 2019


HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT HỌC

Họ và tên tác giả tiểu luận: Nguyễn Thị Thành

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN

TÊN HỌC PHẦN: CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ
TÊN TIỂU LUẬN: CÁC NGUYÊN TẮC CỦA CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ

Ngành, chuyên ngành: Luật Hình sự
Giảng viên: GS. TS. VÕ KHÁNH VINH

Đồng Nai, năm 2019



CHƯƠNG 1: LỜI MỞ ĐẦU
Chính sách hình sự là một khoa học, có lịch sử của mình. Lịch sử của khoa
học này bắt đầu từ các công trình nghiên cứu của các nhà khai sáng và các
nhà cải cách thế kỷ XVIII: Chenzare, Bekharija, Vol’ter, Mongtexkio và
những người khác.
Chính sách hình sự là hướng nghiên cứu mang tính chất chính trị hình sự.
+ Pheierbakh là người đầu tiên nói về chính sách hình sự và đưa ra định
nghĩa về nó đặt trong mối quan hệ với pháp luật hình sự. Theo ông, chính
sách hình sự đưa ra các chỉ dẫn cho nhà làm luật để tổ chức tốt hơn công việc
xét xử hình sự.
+ Bentam nghiên cứu và đã đưa ra các nhiệm vụ chính trị hình sự rất quan
trọng của khoa học chính sách hình sự là nghiên cứu các tội phạm và các
phương thức đấu tranh với các tội phạm. Theo ông, chương trình chính sách
hình sự rộng lớn không chỉ bao gồm trừng phạt mà còn cả việc phòng ngừa
tội phạm.
+ Bemer gọi chính sách hình sự là “khoa học tuyệt vời” phục vụ công việc
đấu tranh với tình hình tội phạm. Ông cho rằng chính sách hình sự đưa ra đòi
hỏi về sự trừng phạt và phòng ngừa thích đáng, nghiên cứu các nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm.
+ Khenke cho rằng chính sách hình sự cần phải làm thoả mãn các đòi hỏi
phức tạp và hoá giải được một cách khó khăn hai vấn đề: một mặt, chính sách
hình sự phải nhìn thấy con người trong người phạm tội và người có khả năng
không có lỗi trong từng người bị tình nghi, còn mặt khác, chính sách hình sự
phải làm thoả mãn các nhu cầu xã hội trong việc bảo đảm an ninh khỏi các tội
phạm và bải bỏ sự bất công.
+ Líst cho rằng, chính sách hình sự phải trở thành “người lãnh đạo” đối
với nhà lập pháp hình sự. Chính sách hình sự nghiên cứu luật hình sự hiện
hành, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, phát triển các nguyên
tắc để phê phán pháp luật hình sự hiện hành, chỉ ra con đường cải cách pháp


1


luật hình sự và bằng cách như vậy hổ trợ cho đấu tranh một cách hợp lý với
tình hình tội phạm.
+ M.P. Chubinskij là nhà khoa học xây dựng lý luận khá hoàn chỉnh về
môn khoa học này. Theo ông, chính sách hình sự là một ngành khoa học về
luật hình sự, có nhiệm vụ soạn thảo ra các hướng dẫn cho việc tổ chức một
cách tốt nhất xét xử hình sự bằng cách tiến hành cả các cuộc cải cách xã hội
lẫn việc xây dựng pháp luật hình sự tốt nhất, làm thoả mãn nhu cầu của trí tuệ
con người trong việc phê phán cái đang tồn tại và mong muốn điều tốt đẹp
hơn, cần phải đưa các quan điểm chính trị hình sự vào khoa học luật hình sự.
+ Trong các công trình khoa học Xô viết thuật ngữ chính sách hình sự lần
đầu tiên xuất hiện vào những năm 70 của thế kỷ XX. Chính sách hình sự là
một lĩnh vực độc lập tương đối, đặc thù cần được tiến hành nghiên cứu và
thuộc chính sách xã hội của Nhà nước. Sự hồi sinh nghiên cứu chính sách
hình sự ở nước Nga.
+ Hội nghị tội phạm học quốc tế lần thứ IV ở Madrid năm 1970 đã dành
sự quan tâm cơ bản đến những vấn đề về khái niệm, bản chất và nội dung của
chính sách hình sự của các quốc gia.
Những vấn đề cơ bản của chính sách hình sự được bàn luận vào những
năm đầu của thập niên 90 thế kỷ XX. Những tác giả quan tâm đến chủ đề đó
là GS.TS. Võ Khánh Vinh, GS.TSKH. Đào Trí Úc, GS.TSKH. Lê Cảm,
GS.TS. Hồ Trọng Ngũ và những tác giả khác.
Trong phạm vi của bài viết này, học viên chỉ đề cập đến những nội dung
chính các nguyên tắc của chính sách hình sự được nêu cụ thể ở phần nội dung
của Tiểu luận này.
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG
1. KHÁI NIỆM
1.1. Khái niệm chính sách hình sự:

Hiện nay có nhiều định nghĩa, cách tiếp cận khác nhau về chính sách hình
sự.

2


+ Các định nghĩa về chính sách hình sự.
> GS.TSKH. Đào Trí Úc cho rằng, chính sách hình sự, một mặt, đó là
chính sách nhằm thể hiện phản ứng của Nhà nước, của xã hội đối với các
hành vi phạm tội và người phạm tội, mặt khác đó là chính sách, đường hướng
cho việc tổ chức đấu tranh phòng và chống tội phạm. Nói cách khác chính
sách hình sự là chính sách về tội phạm và về tổ chức phòng, chống tội phạm.
> GS. TSKH. Lê Văn Cảm quan niệm rằng, chính sách hình sự trong giai
đoạn xây dựng NNPQ là một phần của chính sách xã hội nói chung, đồng thời
là chính sách pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng và bao gồm
tổng thể bốn chính sách – chính sách phòng ngừa tội phạm, chính sách PLHS,
chính sách pháp luật TTHS và chính sách pháp luật THAHS- với tư cách là
những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong
cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm nhằm bảo đảm thực hiện tốt đường
lối xử lý về hình sự, góp phần đưa các nguyên tắc của NNPQ vào đời sống
thực tế, giáo dục công dân ý thức tôn trọng, tuân thủ và chấp hành nghiêm
chỉnh pháp luật, tiến tới xây dựng thành công NNPQ ở Việt Nam. Nói một
cách ngắn gọn hơn, chính sách hình sự trong giai đoạn xây dựng NNPQ là
những phương hướng có tính chất chỉ đạo, chiến lược của Nhà nước trong
lĩnh vực tội phạm và hình phạt nhằm xây dựng và hoàn thiện PLHS, pháp luật
TTHS và pháp luật THAHS, cũng như thực tiễn áp dụng chúng, đồng thời
soạn thảo và triển khai các biện pháp đấu tranh phòng và chống tội phạm.
> Quan điểm khác cho rằng, chính sách hình sự là chính sách xã hội trong
lĩnh vực đời sống xã hội chính trị- pháp lý xã hội, là hệ thống những quan
điểm, tư tưởng chiến lược, tổng thể về tội phạm như một hiện tượng lịch sử

xã hội của xã hội có giai cấp và về những vấn đề cơ bản nhất (mục tiêu,
nhiệm vụ, nguyên tắc, phương hướng và tổ chức lực lượng) bảo đảm cho cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trên tất cả các phương diện
chính trị-xã hội, pháp luật và kinh tế được ghi nhận trong các văn kiện của
Đảng và pháp luật của Nhà nước.

3


> GS.TSKH. Kovalev M.I, Voronhin Ju.A cho rằng, chính sách hình sự là
phương hướng hoạt động của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện các biện
pháp chính trị - xã hội, kinh tế và soạn thảo các phương pháp tối ưu về mặt
pháp luật hình sự nhằm mục đích xoá bỏ tình hình tội phạm trong đất nước.
> GS.TSKH, Viện sĩ Kuddriacev quan niệm rằng, chính sách hình sự là
chính sách trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm bao gồm chính sách pháp
luật hình sự, chính sách xét xử, chính sách cải tạo lao động, chính sách phòng
ngừa xã hội các vi phạm pháp luật.
> GS. TSKH. Naumov A. V. cho rằng, chính sách hình sự là một bộ phận
cấu thành của chính sách xã hội gắn liền với việc sử dụng các khả năng và
phương tiện của luật hình sự để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, của xã hội và của Nhà nước.
+ Tiếp cận chính sách hình sự ở nghĩa hẹp.
> Chính sách hình sự ở nghĩa hẹp được hiểu là tổng thể tất cả các nguyên
tắc, mục đích, khuynh hướng và biện pháp hoạt động của Nhà nước trong lĩnh
vực bảo vệ các quan hệ xã hội bằng pháp luật hình sự. Chính sách hình sự ở
nghĩa hẹp được hiểu là chính sách pháp luật hình sự: xây dựng và sử dụng
pháp luật hình sự.
> Theo quan niệm hẹp, nội dung của chính sách hình sự bao gồm:
• Những luận điểm chung và các nguyên tắc của luật hình sự, khả
năng sử dụng luật hình sự để đấu tranh với tình hình tội phạm

• Soạn thảo các tiêu chuẩn để coi một hành vi nguy hiểm cho xã
hội là tội phạm (tiêu chuẩn tội phạm hóa)
• Xác định khuynh hướng hoạt động của các cơ quan xây dựng
pháp luật hình sự
• Xác định khuynh hướng hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp
luật hình sự
+ Tiếp cận chính sách hình sự ở nghĩa rộng.
> Chính sách hình sự ở nghĩa rộng được hiểu là tổng thể tất cả các nguyên
tắc, mục đích, khuynh hướng sử dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng

4


hình sự, pháp luật điều tra hình sự và pháp luật thi hành án hình sự để đấu
tranh với tình hình tội phạm.
> Theo quan niệm rộng, nội dung chính sách hình sự bao gồm:
. Chính sách pháp luật hình sự.
. Chính sách pháp luật tố tụng hình sự.
. Chính sách pháp luật điều tra hình sự.
. Chính sách pháp luật thi hành án hình sự.
. Chính sách phòng ngừa tình hình tội phạm.
> Sự chuyển dịch từ quan điểm hẹp sang quan điểm rộng.
> Sự thay đổi các quan điểm về chính sách hình sự.
-Tiếp cận hiện nay đến khái niệm về chính sách hình sự
+ Chính sách hình sự là khái niệm rộng lớn và nhiều khía cạnh hơn.
+ Chính sách hình sự là một loại chính sách pháp luật, một loại chính sách
xã hội, một loại chính sách công, một loại chính sách đối nội.1
+ Khách thể tác động của chính sách hình sự là tình hình tội phạm, tức là
một hiện tượng pháp luật - xã hội, được thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực, phổ
biến, bao gồm hệ thống các tội phạm đã được thực hiện ở một quốc gia

( vùng, thế giới) trong một giai đoạn nhất định, được đặc trưng bởi các chỉ số
về lượng và chất.
+ Chính sách hình sự tác động đến tình hình tội phạm thông qua hoạt động
của các cơ quan bảo vệ pháp luật và các thiết chế, tổ chức tham gia phòng
ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm.
+ Bản chất của chính sách hình sự thể hiện ở việc soạn thảo và thực hiện
các mục tiêu và nhiệm vụ của Nhà nước trong lĩnh vực phòng ngừa và đấu
tranh với tình hình tội phạm; ở việc xác định các phương tiện, các giải pháp,
các hình thức và các phương pháp hoạt động của Nhà nước và các cơ quan
nhà nước (trước hết của các cơ quan bảo vệ pháp luật) trong lĩnh vực phòng
ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm.
+ Mục tiêu cơ bản của chính sách hình sự là tính định hướng xã hội của
nó, là một trong những định hướng của chính sách xã hội, là chính sách của

5


Nhà nước trong lĩnh vực đấu tranh với tình hình tội phạm. Chính sách hình sự
xác định chiến lược và chiến thuật của cuộc đấu tranh đó nhằm hạn chế, khắc
phục, thu hẹp và từng bước giảm thiểu tình hình tội phạm, nói cách khác là
phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm.
1.2. Quan niệm về nguyên tắc của chính sách hình sự:
Trong mọi lĩnh vực hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, các nguyên
tắc được gọi là các tư tưởng chỉ đạo nền tảng xác định nội dung cơ bản của
hoạt động đó, các nhiệm vụ và các định hướng cơ bản của nó.
Quan niệm về các nguyên tắc của chính sách hình sự.
+ Dưới dạng khái quát nhất, các nguyên tắc của chính sách hình sự được
hiểu là những luận điểm cơ bản, các tư tưởng chỉ đạo làm cơ sở cho cuộc đấu
tranh với tình hình tội phạm.
+ Các nguyên tắc của chính sách hình sự và các nguyên tắc của luật hình

sự: hai phạm trù độc lập với nhau, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, rộng hẹp
khác nhau.
+ Các nguyên tắc của chính sách hình sự là các đòi hỏi mang tính chất đạo
đức, tư tưởng và chính trị được quy định bởi chế độ nhà nước và xã hội mà
dựa vào đó các quan điểm (quan niệm) và các mệnh lệnh của Nhà nước được
xác định mang tính hệ thống, việc soạn thảo các quy phạm pháp luật điều
chỉnh đấu tranh với tình hình tội phạm được hình thành và việc áp dụng các
quy phạm đó trên thực tiễn được thực hiện.
+ Các nguyên tắc đó có nội dung được xác định trước bởi các nhu cầu và
quy luật phát triển của xã hội, hướng đến việc thực hiện các nhiệm vụ của
pháp luật hình sự, (đạo luật hình sự) là bắt buộc cả đối với các cơ quan lập
pháp lẫn đối với các cơ quan áp dụng pháp luật và thực hiện các chức năng
điều chỉnh và bảo vệ trực tiếp và trung gian các quan hệ xã hội.
+ Các nguyên tắc của chính sách hình sự còn bao gồm cả các nguyên tắc
được thể hiện trong Bộ luật hình sự và các nguyên tắc không thể ghi nhận
trong Bộ luật hình sự (hạn chế sự trừng trị hình sự, không thoát khỏi và phân

6


hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt, tối ưu hoá việc phòng ngừa tình hình
tội phạm bằng pháp luật hình sự).
+ Các nguyên tắc của chính sách hình sự “thâm nhập” vào toàn bộ cấu trúc
của chính sách hình sự, là hạt nhân và định hướng hoạt động phòng ngừa và
đấu tranh với tình hình tội phạm.
+ Đặc điểm đặc trưng của các nguyên tắc của chính sách hình sự là tính
quy phạm của chúng. Các nguyên tắc đó được ghi nhận trong Hiến pháp Việt
Nam, trong các văn bản luật điều chỉnh lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh với
tình hình tội phạm, hoặc được lấy ra từ các văn bản đó.
+ Tính bắt buộc của các nguyên tắc của chính sách hình sự. Các nguyên

tắc của chính sách hình sự là bắt buộc đối với tất cả các chủ thể của chính
sách hình sự. Do vậy, các nhà lý luận về chính sách hình sự, những người
soạn thảo chính sách hình sự, những nhà làm luật và những người áp dụng
pháp luật đều phải tuân thủ vô điều kiện các nguyên tắc của chính sách hình
sự, phải giải thích chính xác nội dung các nguyên tắc của chính sách hình sự
và phát triển các nguyên tắc đó khi có cơ sở, căn cứ.
+ Vi phạm các nguyên tắc của chính sách hình sự là không hợp pháp, là rất
nghiêm trọng.
+ Như vậy, các nguyên tắc của chính sách hình sự - đó là các tư tưởng mà
dựa vào đó các đạo luật, các văn bản dưới luật được soạn thảo, ban hành và
hoạt động của các cơ quan nhà nước và của những người có chức vụ, quyền
hạn trong lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm được tiến
hành.
2. CÁC NGUYÊN TẮC CỦA CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ:
2.1. Nguyên tắc pháp chế của chính sách hình sự.
> Sự phù hợp của chính sách hình sự với Hiến pháp Việt Nam; sự phù hợp
của toàn bộ các văn bản dưới luật và các quyết định trong lĩnh vực chính sách
hình sự với các luật; sự phù hợp của việc áp dụng đạo luật với tư tưởng chính
xác của nó.

7


> Đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn những vấn đề: tính tội phạm và tính
phải chịu hình phạt của hành vi và những vấn đề khác, chẳng hạn như, tính
nhân đạo của trách nhiệm hình sự và hình phạt, việc áp dụng các biện pháp
trách nhiệm hình sự, tính công bằng của thủ tục tố tụng, việc áp dụng các biện
pháp điều tra nghiệp vụ phải dựa vào luật, tính hợp pháp của chứng cứ, v.v…
> Tính hợp pháp và tính hợp lý: không cho phép đối lập pháp chế với tính
hợp lý, tính hợp pháp cần phải hợp lý, cần phải được lập luận cả ở giai đoạn

xây dựng pháp luật lẫn ở giai đoạn áp dụng pháp luật. Đến lượt mình, tính
hợp lý bao giờ cũng phải hợp pháp, ví dụ, quy định những phương án khác
nhau trong luật, lựa chọn phương án cụ thể khi áp dụng. Tính hợp lý thực
chất, chân chính bao giờ cũng hợp pháp, được dựa trên đạo luật hiện hành.
Tính hợp pháp và tính hợp lý và nguyên tắc tôn trọng, công nhận, bảo đảm và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Chính sách đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong các
nguyên tắc sau đây:
a. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình
sự:
Điều 7 BLTTHS 2015 quy định “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải
được thực hiện theo quy định của Bộ luật này. Không được giải quyết nguồn
tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định”.
Pháp chế là một nguyên tắc Hiến định, theo đó Nhà nước được tổ chức
và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và
pháp luật” (Điều 8 Hiến pháp 2013). Nội dung quy định tại Điều 7 BLTTHS
2015 là sự cụ thể hóa yêu cầu đó của Hiến pháp.
Trong tố tụng hình sự, khi mà quan hệ tố tụng chủ yếu là quan hệ quyền
lực thì yêu cầu bảo đảm pháp chế được đặt ra trước hết và chủ yếu là đối với
các cơ quan có thẩm quyển tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến

8


hành tố tụng. Vì vậy, ngay sau khi đặt ra yêu cầu chung về việc thực hiện các
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì liền theo đó Điều 7 của Bộ luật này
đã xác định: “Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật này
quy định”.

Trong bất kỳ lĩnh vực nào thì pháp chế đều có nghĩa là bảo đảm tính hợp
hiến, hợp pháp, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật. Trong tố tụng hình sự, tuân
theo những căn cứ, thẩm quyển và trình tự, thủ tục, tố tụng là yêu cầu số một.
Thủ tục pháp lý chặt chẽ luôn luôn được coi là yếu tố cốt lõi của chế độ pháp
quyền bởi đó là lá chắn hữu hiệu để bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật. Yêu cầu chỉ được giải quyết
nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo những căn cứ
và trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định được bảo đảm thực
hiện bởi nhiều quy định xuyên suốt Bộ luật tố tụng hình sự, trong đó có
những quy định về hậu quả bất lợi của việc vi phạm yêu cầu này. Có thể thấy
rõ điều đó qua một số quy định như: Theo Điều 86 BLTTHS 2015: “Chứng cứ
là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định...”; “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” (điểm d khoản 1 Điều 245)
là căn cứ cho việc Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan
điều tra để điều tra bổ sung; …
b. Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng hình sự
Trong các giai đoạn của tố tụng hình sự, Viện kiểm sát co trách nhiệm
kiểm sát mọi hoạt động tố tụng hình sự.
Viện kiểm sát thực hiện bằng các biện pháp được luật tố tụng hình sự
quy định như: Điều tra, hủy bỏ các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng,
tự mình tiến hành một số hoạt động hoặc ra các quyết định cần thiết trong
việc giải quyết vụ án, kháng nghị các bản án và quyết định của Tòa án...

9


c. Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự (nguyên tắc
mới)
Đây là nguyên tắc mới được tạo thành trên cơ sở kết hợp hai nguyên tắc
giám đốc việc xét xử và nguyên tắc giám sát của cơ quan, tổ chứ, đại biểu dân

cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Việc kiểm tra giám sát trong tố tụng hình sự góp phần kiểm tra tính đúng
đắn trong hoạt động tố tụng hình sự.
2.1.2. Chính sách bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích của
công dân được thể hiện rõ trong các nguyên tắc sau đây:
a. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân
Điều 8 BLTTHS 2015 quy định “Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những
biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu
xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”.
Đây là một nguyên tắc Hiến định quan trọng của tố tụng hình sự Việt
Nam. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người quyền công dân về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật”. Điều 8 BLTTHS 2015 đã xác định: trách
nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân là thuộc về cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Đối tượng của việc tôn trọng và bảo vệ trong tố tụng hình sự là quyền con
người, các quyền và lợi ích họp pháp của tất cả những người tham gia tố tụng:
bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại; nguyên đơn dân sự; người tố giác, báo
tin về tội phạm; người kiến nghị khởi tố; người bị tố giác; người bị kiến nghị

10


khởi tố; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã: người bị tạm giữ; bị can;

bị cáo; bị đơn dân sự; người bào chữa; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố hoặc của bị hại, đương
sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người
chứng kiến việc tiến hành hoạt động tố tụng do cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng yêu cầu; người giám định; người định giá tài sản; người phiên
dịch; người dịch thuật.
Trách nhiệm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân là thuộc về các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng và nội dung trách nhiệm đó bao gồm: Thông báo, giải thích cho những
chủ thể nêu trên về các quvền và nghĩa vụ của họ cũng như thực hiện những
việc cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện các quyền đó; Tạo đầy đủ các điều
kiện để công dân sử dụng đầy đủ và tiện lợi các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
họ, trước hết là quyền bào chữa; quyền trình bày lời khai, chứng cứ mà không
bị sức ép hay sự đe dọa nào, quyền khiếu nại, tố cáo các việc làm sai trái, xâm
phạm quyền của họ hay của người khác trong quá trình tố tụng, quyền được
Tòa án xét xử kịp thời; Bảo đảm sự bất khả xâm phạm về thân thể, bí mật
điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử, … cũng như sự bất khả xâm phạm về
danh dự và nhân phẩm, tài sản, chỗ ở, đời sống riêng tư; Bảo vệ và bảo đảm
an toàn về tính mạng và tài sản của những người tham gia tố tụng.
Để thực hiện được nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, Điều 8 BLTTHS 2015 đặt ra yêu cầu đối với
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải “Thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của
những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp
đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết”.

11


b. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của

con người
Điều 10 BLTTHS 2015 quy định “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết
định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc giữ người trong trưòng hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người
phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng
nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính
mạng, sức khỏe của con người”.
Sự bất khả xâm phạm về thân thể là giá trị cao nhất của mỗi con người,
là một trong những quyền hiến định đầu tiên của con người. Hiến pháp năm
2013 khẳng định: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân
thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một chế định quan trọng của tố
tụng hình sự bao gồm một loạt các quy phạm quy định sự tự do thân thể,
nhằm ngăn ngừa những trường hợp bắt, giam, giữ cũng như việc áp dụng trái
pháp luật các biện pháp cưỡng chế khác đe dọa sự bất khả xâm phạm vể thân
thể con người. Cùng với các chế định tương tự như quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; chế định về an
toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác của cá nhân; chế định về quyền bất khả xâm phạm thân thể hợp
thành cơ sở pháp lý tố tụng vững chắc bảo đảm sự tự do và an toàn cho con
người khi rơi vào những bối cảnh phải đối diện với các cơ quan có thẩm
quyển tiến hành tố tụng hình sự.
c. Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân

12



Điều 11 BLTTHS 2015 quy định “Mọi người có quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi
xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý
theo pháp luật. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà
nước khác”.
Nguyên tắc này có cơ sở hiến định tại Điều 19 của Hiến pháp 2013:
“Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”. Bảo đảm cho việc thực hiện quy
định của Hiến pháp, BLTTHS 2015 đã có những bổ sung quan trọng nhằm
tăng cường tính chặt chẽ của thủ tục về thi hành bản án tử hình trong đó có
hai loại thủ tục, gồm: thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi thi hành và thủ
tục của việc không ra quyết định thi hành án tử hình và xem xét để chuyển
hình phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị kết án (khoản 2 Điều 367).
d. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện
thoại, điện tín của cá nhân
Điều 12 BLTTHS 2015 quy định “Không ai được xâm phạm trái pháp
luật chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư
khác của cá nhân. Việc khám xét chỗ ở; khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín,
điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng
tư khác phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật này”.
Yêu cầu đặt ra trong nội dung của nguyên tắc này xuất phát từ quy định
của Hiến pháp năm 2013 với những điểm mới quan trọng. So với quy định
trước đây của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, thì quy định của Điều 12 nêu
trên có mấy điểm đáng lưu ý sau đây:

13



- Điều cấm của Bộ luật liên quan đến sự xâm phạm trái pháp luật. Điều
đó có nghĩa rằng, quyền bất khả xâm phạm này có thể có ngoại lệ, trong một
số trường hợp quyền đó có thể bị hạn chế theo quy định của luật, mà cụ thể là
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực
hiện việc khám xét chỗ ở; khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện thoại,
điện tín, dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác.
- Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự
cũng phát sinh trong những trường hợp được cho là đặc biệt như ghi âm, ghi
hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Những
trường hợp này cho đến nay là chưa được điểu chỉnh bởi pháp luật với tính
cách là biện pháp tố tụng thì nay, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa
vào đối tượng điều chỉnh của nó tại Chương XVI: “Biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt’ với việc xác định một danh mục các biện pháp được coi là biện
pháp điều tra tố tụng đặc biệt gồm: ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí
mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
Bên cạnh đó là những quy định chặt chẽ về trường hợp áp dụng. Theo
đó, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ có thể được áp dụng đối với các
trường hợp: các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm
về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; các tội phạm khác có tổ chức thuộc
loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 224).
Điều 225 của Bộ luật cũng quy định rõ thẩm quyền quyết định áp dụng
các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt nêu trên. Theo đó, thẩm quyền này chỉ
thuộc về Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, cấp quân khu trở lên; quyết
định đó phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi
thi hành. Bộ luật cũng đòi hỏi những chủ thể này phải giữ bí mặt.
đ. Nguyên tắc suy đoán vô tội
Điều 13 BLTTHS 2015 quy định “Người bị buộc tội được coi là không
có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy


14


định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ
và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Nguyên tắc này của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là nguyên tắc hoàn
toàn nói trên cơ sở quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
Bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
lá chắn quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền công
dân nhằm phòng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố
tụng là việc thừa nhận và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. Đây là nguyên
tắc “kinh điển” nhất của tố tụng hình sự được ghi nhận trong nhiều văn kiện
quốc tế quan trọng như Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948.
Thực tiễn không chỉ của các hoạt động điều tra, truy tố mà cả của hoạt
động xét xử của Tòa án cho thấy có một khuynh hướng nhìn nhận bị can, bị
cáo như là người đã được coi là phạm tội, dù lỗi của họ chưa được chứng
minh. Trong tâm lý học, khuynh hướng đó được gọi là khuynh hướng buộc
tội, còn luật học thì gọi đó là “suy đoán có tội”. Đó chính là một trong những
nguyên nhân cùa vấn đề án oan, sai hiện nay.
Từ nội dung và đòi hỏi cơ bản của Hiến pháp năm 2013, nguyên tắc suy
đoán vô tội đặt ra những đòi hòi cụ thể hơn mà pháp luật tô tụng hình sự Việt
Nam cần bảo đảm. Đó là:
- Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội đó được
chứng minh. Yêu cầu này đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội
trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này
hoàn toàn phù hợp với Công ước về các quyền dân sự và chính trị.
- Việc chứng minh đó phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định.

15


- Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ buộc tội, kết tội theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định thì cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
e. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
Đây là một nguyên tắc mới được quy định tại Điều 14 Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 trên cơ sở quy định tại khoản 3 Điều 31 Hiến pháp năm
2013. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền tố tụng không được khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác
cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm, tức là không thể truy cứu
trách nhiệm hình sự người này một lần nào nữa về cùng một tội phạm.
f. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, người bị
tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được thể hiện rõ
trong nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự
Điều 16 BLTTHS 2015 quy định “Người bị buộc tội có quyền tự bào
chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người
bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi
ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”.
Cơ sở hiến định của quy định này là khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm
2013, bảo đảm phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 với nội dung chi tiết về việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa
của người bị buộc tội. Những nội dung của Công ước đã được chuyển hóa vào
cac quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về quyền bào chữa của

người bị buộc tội và về địa vị pháp lý tố tụng của một loạt các chủ thể bị buộc
tội như người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường
hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt

16


theo quy định truy nã, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Đáng chú ý là, phần
lớn nội dung của Chương VI “Chứng minh và chứng cứ” cũng xuất phát từ
đòi hỏi của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội.
BLTTHS 2015 đã giành trọn một chương riêng về bào chữa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự nhằm cụ thể hóa những yêu cầu quan
trọng của nguyên tắc được xác định tại Điều 16 này.
g. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự được
thể hiện trong Điều 29 BLTTHS 2015 “Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố
tụng hình sự là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và
chữ viết của dân tộc mình, trường hợp này phải có phiên dịch”.
h. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được giữ
nguyên như quy định tại BLTTHS năm 2003, theo đó: "Việc giải quyết vấn đề
dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình
sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi
hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải
quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục
tố tụng dân sự."
i. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện tại Điều 31 BLTTHS 2015 : "1. Người bị
giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự.Nhà nước có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị giữ

trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án oan, trái pháp luật do cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng gây ra." "2. Người khác bị thiệt hại do cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng gây ra có quyền được Nhà nước bồi
thường thiệt hại."

17


k. Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
được thể hiện tại Điều 32 BLTTHS năm 2015: "Cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền khiếu nại, cá nhân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong
hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó". "Cơ quan, người
có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời,
đúng pháp luật; gửi văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo,
cơ quan, tổ chức khiếu nại và có biện pháp khắc phục"."Trình tự, thủ tục,
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo do Bộ luật này quy định"."Nghiêm
cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố
cáo để vu khống người khác."
2.1.3. Chính sách bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động
tố tụng hình sự được thể hiện rõ trong các nguyên tắc sau đây:
a. Nhóm các quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan
tố tụng, bảo đảm các cơ quan thực hiện tốt trách nhiệm luật định; Phân
định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; tăng quyền, trách
nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được thể hiện trong
các nguyên tắc: xác định sự thật của vụ án (Điều 15); trách nhiệm của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 17); trách nhiệm khởi tố
và xử lý vụ án hình sự (Điều 18); trách nhiệm thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự (Điều 20); bảo đảm sự

vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng (Điều 21); thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia (Điều 22);
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (Điều 23);
Tòa án xét xử tập thể (Điều 24) và chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được
bảo đảm (Điều 27).
b. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra

18


Điều 19 BLTTHS 2015 quy định “Cơ quan điều tra, cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp luật khi tiến
hành hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này. Mọi hoạt động điều
tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát
hiện nhanh chóng, chính xác mọi hành vi phạm tội, làm rõ chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác
có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án”.
c. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Điều 26 BLTTHS 2015 quy định “Trong qua trình khởi tố điều tra, truy
tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành
tô tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tô tụng khác
đều có quyên bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa
ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Tài liệu, chứng cứ trong
hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp
pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo
quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng
hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định.
Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào
chữa, những người tham giatố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ

của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án. Mọi chứng cứ xác
định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác
định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo,
xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải
được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. Bản án, quyết định của Tòa
án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng
tại phiên tòa”.

19


Điều 26 có nội dung hoàn toàn mới trong BLTTHS 2015, là sự bảo đảm
phù hợp vói Hiến pháp năm 2013, đặt cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
chuyển hướng tích cực của TTHS nước ta, có tính đột phá theo tinh thần của
cải cách tư pháp.
Những quy định tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã hàm
chứa những yếu tố cần và đủ của nguyên tắc tranh tụng và nội dung tranh
tụng của tố tụng hình sự nước ta.
d. Nguyên tắc Tòa án xét xử công bằng, công khai
Điều 25 BLTTHS 2015 quy định “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn
luật định, bảo đàm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có
quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường
hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nưóc, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo
vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.
Nguyên tắc nêu trên đây là một nguyên tắc mới, bởi trong BLTTHS 2003
(Điều 18) chỉ có nội dung “xét xử công khai”. Quy định này bảo đảm sự phù
hợp của BLTTHS với Hiến pháp năm 2013: “Người bị buộc tội phải được
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường

hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”
(khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013).
đ. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án
Điều 28 BLTTHS 2015 quy định “ Bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng. Cơ quan,
tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách
nhiệm phối hợp, tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá
nhân có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án”.

20


2.1.4. Chính sách đảm bảo tính dân chủ trong hoạt động tố tụng
hình sự được thể hiện rõ trong các nguyên tắc sau đây:
a. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật
Điều 9 BLTTHS 2015 quy định “Tố tụng hình sự được tiến hành theo
nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân
tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần và địa vị xã hội. Bất cứ người
nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật. Mọi pháp nhân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế”.
Bình đẳng trước pháp luật là một nguyên tắc Hiến định quan trọng. Điều
16 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. 2. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế,
ván hóa, xã hội”.
Trong tố tụng hình sự, sự bình đẳng trước pháp luật trước hết là sự bình
đẳng trong địa vị pháp lý tố tụng. Cụ thể hơn, đều là bị can, bi cáo trong một
loại vụ án thì đều phải được có các quyền và được quy định nghĩa vụ tố tụng
như nhau, không phân biệt đối xử theo các yếu tố địa vị xã hội, chức vụ, giới
tính, tôn giáo, dân tộc. Sự bình đẳng pháp lý đó còn được bổ sung bởi đòi hỏi

về công bằng trong trường hợp một người, vì lý do khiếm khuyết về thể chất
tinh thần và lứa tuổi mà không thể sử dụng được các quyền tố tụng của họ.
Bộ luật hình sự năm 2015 đã coi pháp nhân thương mại là chủ thế của
trách nhiệm hình sự. Hiên pháp năm 2013 đã xác định: "Các thành phần kinh
tê đêu là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đảng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật”
(khoản 2 Điều 51). Để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và quy định
mới của Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 9 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
đã xác định nguyên tắc bảo hộ danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân trong
các hoạt động tố tụng hình sự.
b. Nguyên tắc Tòa án xét xử công bằng, công khai

21


Điều 25 BLTTHS 2015 quy định “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn
luật định, bảo đàm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có
quyền tham dự phiên tòa, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định. Trường
hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nưóc, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo
vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của
đương sự thì Tòa án có thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai”.
Nguyên tắc nêu trên đây là một nguyên tắc mới, bởi trong BLTTHS 2003
(Điều 18) chỉ có nội dung “xét xử công khai”. Quy định này bảo đảm sự phù
hợp của BLTTHS với Hiến pháp năm 2013: “Người bị buộc tội phải được
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường
hợp xét xử kín theo quy định của luật thì việc tuyên án phải được công khai”
(khoản 2 Điều 31 Hiến pháp năm 2013).
2.2. Nguyên tắc công bằng của chính sách hình sự.
> Đòi hỏi nhà làm luật lựa chọn có căn cứ khoa học và đầy đủ các hành vi
được tội phạm hoá và phi tội phạm hoá, xác định các loại và mức chế tài cụ

thể tương xứng với từng tội phạm cụ thể, xác định các quy tắc chung của việc
thực hiện trách nhiệm hình sự, của áp dụng hình phạt và các biện pháp tác
động hình sự khác.
> Đòi hỏi nhà làm luật phải xây dựng được cơ chế pháp luật tố tụng hình
sự và pháp luật thi hành án hình sự làm sao để bảo đảm việc làm sáng tỏ được
tất cả những người thực hiện tội phạm- hành vi phạm tội bao giờ cũng xâm
hại đến công bằng trong mối quan hệ với công dân và xã hội.
> Ở khía cạnh áp dụng pháp luật: gắn liền với tính toàn diện, tính đầy đủ
và tính khách quan của việc điều tra theo thủ tục tố tụng hình sự tát cả các
tình tiết thuộc đối tượng chứng minh của vụ án hình sự.
> Công bằng đòi hỏi, thứ nhất, việc bảo đảm không thoát khỏi trách nhiệm,
làm giảm đến mức tối đa tình hình tội phạm ẩn và các tội phạm mà người
phạm tội lẩn tránh hình phạt; thứ hai, sự tương xứng của việc tác động pháp
luật hình sự với tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện,

22


các hậu quả đã gây ra, nhân thân người phạm tội, lỗi của người phạm tội, các
động cơ và mục đích của tội phạm đã được thực hiện, các tình tiết khác ảnh
hưởng đến tính chất và mức độ của trách nhiệm; thứ ba, công bằng cần phải
bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước pháp luật; thứ tư, các cơ quan bảo
vệ pháp luật cần phải phục hồi một cách tối đa có thể công bằng đối với nạn
nhân của tội phạm, của các nhóm người cụ thể và của xã hội nói chung.
2.3. Nguyên tắc tổng hợp của chính sách hình sự
> Đòi hỏi phải sử dụng các khả năng của tất cả các cấp độ và của tất cả các
tiểu hệ thống của chính sách hình sự và tất cả các chủ thể của nó; sự thay đổi
hài hòa trong toàn bộ hệ thống các mối liên hệ nhân quả của các hiện tượng
và các hậu quả của chúng;
> Đòi hỏi phải bảo đảm sự phối hợp hài hòa, sự tác động hài hòa của tất

cả các chủ thể của chính sách hình sự.
> Nguyên tắc này được thực hiện trong việc soạn thảo các kế hoạch và
chương trình phối hợp phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm do các
chủ thể của chính sách hình sự ở các cấp độ khác nhau, các cơ quan nhà nước
và các tổ chức xã hội khác nhau xây dựng và thực hiện.
2.4. Nguyên tắc tương xứng của các nhiệm vụ, thẩm quyền và các
nguồn lực của chính sách hình sự
> Đòi hỏi khi đặt ra các nhiệm vụ mới đối với các cơ quan bảo vệ pháp
luật trong lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội phạm cần phải
xem xét cả việc mở rộng các thẩm quyền tương ứng (nếu như là cần thiết, thì
cần có sửa đổi, bổ sung các quy phạm pháp luật);
> Đòi hỏi phải cung cấp các nguồn lực cần thiết để thực thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ đã được đặt ra của chính sách hình sự.
> Các nhiệm vụ cần phải được đo lường tương xứng, hài hòa với tình
huống hiện thực trong lĩnh vực phòng ngừa và đấu tranh với tình hình tội
phạm và các khả năng tác động hiệu quả đến các yếu tố phạm tội nhằm mục
đích làm ổn định tình huống và nâng cao mức độ bảo vệ các quyền và các lợi
ích hợp pháp của công dân, xã hội, nhà nước.

23


×