Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn mỹ thuật cho học sinh khối 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (848.96 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Mĩ thuật là môn học có tính chất năng khiếu nghệ thuật, nhằm giáo
dục tính thẩm mĩ cho học sinh và hình thành một trong những yếu tố cơ bản của
giáo dục tính thẩm mĩ. Để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
môn Mĩ thuật đã chính thức đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông và là một
trong các môn học bắt buộc ở trường Tiểu học. Mục tiêu của môn Mĩ thuật trong
trường tiểu học là:
* Mục tiêu dạy-học mĩ thuật ở trường tiểu học
- Giáo dục thẩm mĩ, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc làm quen, cảm nhận
được vẻ đẹp của thiên nhiên, của đời sống và của các sản phẩm mĩ thuật.
- Cung cấp cho học sinh những hiểu biết ban đầu về môn mĩ thuật, hình thành
và củng cố các kĩ năng cần thiết để học sinh hoàn thành bài tập trong chương
trình.
- Bồi dưỡng năng lực quan sát, phân tích, phát triển trí tuệ, phát huy trí tưởng
tượng, sáng tạo, góp phần hình thành nhân cách người lao động mới.
- Phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu mĩ thuật của học sinh.
* Nhiệm vụ dạy-học mĩ thuật ở trường tiểu học
- Giáo dục thẩm mĩ là chính.
- Giúp học sinh tiếp xúc, làm quen, cảm nhận, thưởng thức và bằng kiến thức,
kinh nghiệm của bản thân thể hiện cái hay, cái đẹp trong thiên nhiên, trong cuộc
sống. Bước đầu hiểu cái đẹp và tạo ra cái đẹp theo khả năng và cảm nhận riêng
của chính mình, đồng thời vận dụng những hiểu biết về cái đẹp vào sinh hoạt,
học tập hàng ngày.
- Góp phần tạo dựng môi trường thẩm mĩ cho xã hội.
- Lấy giáo dục thẩm mĩ cho học sinh làm nhiệm vụ chủ yếu.
- Lấy người học làm trung tâm.
- Khuyến khích sự tương tác
- Kích thích tư duy sáng tạo
- Kích thích phát triển nhận thức thông qua hoạt động thực tế.
- Giúp học sinh tiểu học thêm yêu thích môn học thông qua các hoạt động học


tập.
- Giúp học sinh phát huy được trí tưởng tượng, sáng tạo, khả năng tư duy, rèn
luyện cho các em có khả năng biểu đạt, phân tích và tăng cường kỹ năng giao
tiếp.
- Rèn cho học sinh có thói quen học tập chủ động, thoải mái, nhẹ nhàng nhưng
1


vn m bo k lut lp hc.
- Giỳp hc sinh hỡnh thnh v phỏt trin cỏc nng lc:
+ Nng lc tri nghim: Cho cỏc em c lm vic vi nhng ch liờn quan
n kinh nghim ó cú ca bn thõn.
+ Nng lc k nng v k thut thụng qua cỏc hot ng : V cựng nhau,
chõn dung biu t, v theo nhc, to hỡnh t vt tỡm c, nn hoc un to
dỏng, xõy dng ct truyn(xõy dng bi cnh cõu chuyn).
+ Nng lc biu t: Cú ngha l hc sinh ng dng ngụn ng m thut din
t s tri nghim v thỏi ca bn thõn.
+ Nng lc phõn tớch v trỡnh by: Thụng qua cỏc hot ng trỡnh by v tỏc
phm ca mỡnh, tham gia gii thớch, phõn tớch, nhn xột v ngh thut, k thut
th hin tỏc phm.
+ Nng lc giao tip v ỏnh giỏ: Hc sinh tham gia giao tip, tho lun v ỏnh
giỏ tt c cỏc hot ng trong tit M thut, ỏnh giỏ nhng gỡ ó lm c, cú
nh mong mun hay khụng?...
i vi hc sinh khi lp 3 mc tiờu chớnh l l cung cp cho cỏc em nhng
kin thc ban u v M thut, bc u hỡnh thnh cỏc k nng cn thit cỏc
em hon thnh c cỏc bi tp theo chng trỡnh. Giỏo dc thm m cho hc
sinh, giỳp cỏc em cm nhn v vn dng cỏi hay, cỏi p ca m thut vo hc
tp v sinh hot hng ngy. Phỏt trin trớ tu, phỏt huy trớ tng tng, sỏng to,
gúp phn hỡnh thnh nhõn cỏch ngi lao ng mi.
L mụn hc thuc lnh vc ngh thut th giỏc, m thut cú vai trũ ch

yu trong vic bi dng, giỏo dc thm m, gúp phn ỏp ng mc tiờu giỏo
dc hi hũa v c, trớ, th, m cho hc sinh. Giỳp hc sinh tip xỳc, lm quen,
cm nhn, thng thc v bng kin thc, kinh nghim ca bn thõn th hin cỏi
hay, cỏi p trong thiờn nhiờn, trong cuc sng; ng thi vn dng nhng hiu
bit v cỏi p vo sinh hot, hc tp hng ngy. Gúp phn to dng mụi trng
thm m cho xó hi. Vậy phải làm thế nào để các em học tốt đợc
môn học này và còn có hứng thú, yêu thích sáng tạo trong các
bài học. Chớnh t nhng trn tr ny, tụi ó tin hnh nghiờn cu v thc hin
ti:
Mt s gii phỏp nõng cao hiu qu dy hc M thut cho hc khi lp 3
1.2. Mc ớch nghiờn cu
Nghiờn cu a ra gii phỏp nhm nõng cao hiu qu dy hc mụn M
thut cho hc sinh khi lp 3, cỏch t chc cỏc hot ng dy hc m thut mi
2


linh hoạt, lôi cuốn để cá thể hóa hoạt động học tập và phát huy sự sáng tạo trong
học tập của học sinh, giúp học sinh yêu thích học tập sáng tạo hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Một số phương pháp dạy học môn Mĩ thuật cho học sinh tiểu học
- Học sinh Trường Tiểu học Yên Thái huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Các phương pháp cơ bản được sử dụng vào nghiên cứu đề tài bao gồm:
- Sưu tầm tài liệu có liên quan
- Phương pháp tạo tình huống
-Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực nghiệm
-Phương pháp khảo sát thực tiễn
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
-Phương pháp vấn đáp, gợi mở

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận
Luật Giáo dục đã nêu rõ: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học nhằm giúp cho học
sinh những cơ sở ban đầu nhưng rất quan trọng cho sự hình thành và phát triển
nhân cách một con người, chuẩn bị tốt cho các em về các mặt đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mĩ và lao động để học sinh tiếp tục học lên trung học hoặc đi vào
cuộc sống tùy theo nhu cầu và nguyện vọng bằng những hình thức thích hợp”.
Điều này khẳng định giáo dục thẩm mĩ trong trường Tiểu học là một nội dung có
ảnh hưởng mạnh mẽ đối với các mặt giáo dục khác, tạo nên sự hoàn thiện trong
việc phát triển nhân cách của học sinh. Chính vì vậy việc giáo dục và bồi dưỡng
cho học sinh có trình độ văn hoá thẩm mĩ phổ thông là hết sức cần thiết.
Dạy học Mĩ thuật giúp hỗ trợ học sinh phát triển khả năng tiếp thu thẩm
mĩ và sáng tạo, bằng cách khuyến khích các em trải nghiệm, sáng tạo, bày tỏ,
hợp tác và giao tiếp với nhau qua các hoạt động mĩ thuật thực tế. Thông qua hoạt
động thực tế, học sinh tự mình làm giàu cách biểu đạt, phân tích, đánh giá, lựa
chọn và nhận thức để hình thành, phát triển những năng lực ở cá nhân.Cùng lúc
với việc phát triển những năng lực này, học sinh cũng có thể phát triển các giác
quan, các kĩ năng sống, kinh nghiệm và khả năng giải quyết vấn đề, các năng lực
hợp tác, khả năng tự học và tự đánh giá. Cái đẹp trong hội hoạ vô cùng đa dạng.
Có thể là giống hoàn toàn như thực, hoặc có thể giản lược, ước lệ đi nhiều. Cũng
có nhiều tranh diễn tả không gian hư cấu song vẫn gợi sự liên tưởng về thực tế.
Vì vậy đối với việc dạy học Mĩ thuật chúng ta cần cho các em hiểu sự sáng tạo,
cách vẽ và nét vẽ cần tự nhiên thoải mái ,đôi khi cần méo mó một chút để tạo sự
mềm mại cho nét vẽ, sự hài hoà cho bức tranh.Việc học môn mỹ thuật ở trường
3


tiểu học không nhằm đào tạo các em trở thành hoạ sĩ mà chỉ mong muốn các em
tiếp nhận được những kiến thức cơ bản để hiểu biết và phục vụ đời sống hàng
ngày. Vậy phải làm thế nào để giúp học sinh học tốt môn mĩ thuật đó là điều mà

người giáo viên phải suy nghĩ.
Qua việc đúc kết những kinh nghiệm cũng chính là một trong những cách để
ghi nhận và xem xét lại quá trình thực hành giảng - dạy, để hoàn thiện kỹ năng
sư phạm của bản thân, để chọn lọc ra những gì đã làm tốt và chưa tốt, cái gì cần
phải làm tốt hơn và nghĩ cách khắc phục những gì chưa tốt. Việc tự phân tích
thiết yếu này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển nghề nghiệp của mỗi
giáo viên, đồng thời giúp cho mỗi giáo viên có cơ hội để trao đổi, học hỏi kinh
nghiệm lẫn nhau nhằm hướng tới mục tiêu giáo dục đạt kết quả cao hơn.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Thực tế quá trình giảng dạy bộ môn Mĩ thuật cho học sinh ở trường diễn ra
như thế nào? Có đạt mục tiêu giáo dục môn học như đã đề ra hay không? Qua
quá trình dạy học,quan sát và tìm hiểu hoạt động học tập của học sinh khối lớp 3
tôi nhận thấy một số thực trạng như sau:
2.2.1.Khi dạy học mĩ thuật, giáo viên vẫn chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học để cá thể hóa hoạt động học tập và phát huy sự sáng
tạo trong học tập của học sinh.
Do trong quy trình dạy học giáo viên vẫn quen dạy theo phương pháp
truyền thống: Giáo viên hướng dẫn -> vẽ mẫu ->học sinh quan sát làm theo.
2.2.2.Học sinh chưa chủ động tích cực lĩnh hội kiến thức và số ít còn trông chờ ỉ
lại khi thực hành.
Do tâm lí học sinh, các em đang ở độ tuổi hiếu động, chưa có sự tập trung,
chưa mạnh dạn tự tin phát huy sự sáng tạo khi tham gia các hoạt động học tập.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
* 2.3.1. Giáo viên mạnh dạn đổi mới hình thức tổ chức dạy học đảm bảo cá
thể hóa hoạt động học tập của học sinh, phát huy được tính sáng tạo chủ
động của học sinh trong qúa trình dạy học.
- Điều kiện tiên quyết để quá tình giảng dạy có hiệu quả, bao gồm: Tạo điều
kiện để học sinh học qua nhiều kênh; chú ý khả năng, phong cách học của từng
học sinh; kết hợp kiến thức của bản thân học sinh và chiến lược học tập của giáo
viên cho học sinh khối lớp 3; xây dựng môi trường học tập thân thiện, truyền

cảm hứng cho các em.

4


- Môi trường học tập: Có thể học tại lớp, học ở phòng chức năng hay sân
trường nhưng môi trường học tập thoải mái sẽ hỗ trợ rất nhiều cho quá trình dạy
và học.
- Hình thức tổ chức lớp học: Tùy theo từng chủ đề mà giáo viên chọn và tổ
chức các hoạt động vẽ nào cho phù hợp và hiệu quả. Sản phẩm của học sinh
không còn đơn thuần chỉ là tạo hình 2D, mà là 3D, 4D, xây dựng thành câu
chuyện bằng hình ảnh.
Ví dụ:+ Chủ đề Con vật quen thuộc: Có thể tổ chức hoạt động vẽ cùng nhau, tạo
hình từ vật dụng tìm được.
+ Chủ đề Mặt nạ con thú: Tổ chức vẽ biểu đạt hoặc vẽ theo nhạc.
+ Chủ đề Lễ hội quê em: Tổ chức hoạt động vẽ cùng nhau, tạo hình bằng
dây thép, đất nặn, vật dụng tìm được…
+ Chủ đề Trái cây bốn mùa: Tổ chức hoạt động vẽ cùng nhau hoặc vẽ theo
nhạc, tạo hình 3D từ đất nặn.....
- Quá trình học: Mỗi quá trình học là một sâu chuỗi các hoạt động diễn ra.
+ Hoạt động tìm hiểu.
+ Hoạt động hướng dẫn thực hiện.
+ Hoạt động hướng dẫn thực hành.
+ Hoạt động tổ chức trưng bày, giới thiệu và đánh giá sản phẩm.
+ Tổng kết chủ đề
- Đáng giá: Đánh giá từng giai đoạn và đánh giá cả quá trình thực hiện theo
tiêu chí lấy động viên khích lệ là chính.
- Môn Mĩ thuật là môn học dành thời gian chủ yếu cho học sinh thực hành,
do vậy giáo viên cần thiết kế tổ chức các hoạt động trải nghiệm phong phú, đa
dạng giúp học sinh chủ động tích cực tìm hiểu và tham gia vào quá trình tranh

luận, thảo luận, bàn bạc khi làm việc cùng các bạn nhưng không quá dài, mất
nhiều thời gian. Môn mĩ thuật ở lớp 3 có 13 chủ đề, mỗi chủ đề có thể áp dụng
nhiều quy trình dạy học khác nhau mà mỗi giai đoạn của một quy trình đều có
những hoạt động và mục tiêu giáo dục khác nhau, do đó đòi hỏi giáo viên phải
xây dựng và đề ra những nội dung công việc cụ thể, hình thức học tập, cách thực
hiện... Giáo viên cần tạo hứng thú cho học sinh bằng cách lập nên các quy trình
dạy - học mĩ thuật tích hợp, linh hoạt theo chủ đề liên quan đến kinh nghiệm cá
nhân, tâm lý lứa tuổi và kiến thức của học sinh. Tùy điều kiện cơ sở vật chất mà
giáo viên tổ chức các hoạt động học tập vận dụng linh hoạt 7 quy trình Mĩ thuật
mới. Khi thực hiện tích hợp các quy trình dạy - học giáo viên cần chú ý:

5


- Xây dựng dựa trên những gì học sinh đã biết và những gì liên quan đến sở
thích, mối quan tâm của các em nhưng phải phù hợp với chủ đề.
- Để học sinh chủ động trong quá trình học tập.
- Tạo điều kiện cho học sinh sáng tạo, giao tiếp và thể hiện.
- Hình thành cho học sinh những kĩ năng cần thiết như: nói, trình bày và làm
việc cùng nhau.
- Giáo viên cần tạo cơ hội cho học sinh thích học và học thực sự thông qua việc
học sinh tự làm và thích làm, bởi vì quy trình dạy - học mĩ thuật đó có liên hệ và
gắn với cuộc sống hàng ngày và quá trình học tập của các em, sẽ phát triển thêm
những kỹ năng sống mới cho các em.
- Quy trình vẽ cùng nhau: Học sinh biến những quan sát của mình thành các bức
vẽ cá nhân. Tất cả các bài vẽ cá nhân sẽ là ngân hàng hình ảnh của nhóm để các
em lựa chọn, sắp xếp theo một câu chuyện và vẽ cùng nhau, tạo thành một tác
phẩm lớn hơn.
- Vẽ theo nhạc: Học sinh đứng xung quanh mép bàn theo từng nhóm (có từ 5 em
trở lẹn). Trước mỗi học sinh là một bảng màu. Giáo viên lựa chọn nhạc (nhạc

không lời, nhạc thiếu nhi..). Tuy nhiên tùy theo tình hình thực tế có thể dùng
nhạc có lời, tiếng vỗ tay, nghe hát…từ nhẹ nhàng chuyển sang nhanh, mạnh, sôi
nổi. Học sinh lắng nghe và cảm nhận giai điệu, vẽ theo hướng dẫn của giáo viên:
thứ tự các màu từ sáng sang đậm. Ví dụ:Theo thứ tự vàng, đỏ, cam, xanh… và
kết thúc bằng màu đen. Sau khi hoàn thành bức tranh lớn, giáo viên yêu cầu học
sinh quan sát và tưởng tượng theo mức độ cảm nhận: Em nhìn thấy gì trong
tranh? Em nghĩ đến đề tài nào? Từ đó giáo viên gợi ý học sinh sáng tạo từ thế
giới tưởng tượng của mình để bắt đầu quy trình: lựa chọn một phần tranh trong
bức tranh lớn làm tác phẩm của mình. Học sinh có thể vẽ thêm vào để làm nổi
bật nội dung chủ đề hoặc bỏ bớt các chi tiết, để cuối cùng tác phẩm đạt được có
thể là: bưu thiếp, thiệp mừng, bìa sách, họa tiết trang trí đồ vật, tranh đề tài…
- Vẽ biểu đạt: Bao gồm vẽ không nhìn giấy và vẽ theo trí nhớ, cảm nhận của cá
nhân. Vẽ không nhìn giấy là học sinh quan sát người đối diện hoặc đồ vật trước
mặt và vẽ, không nhìn xuống giấy, nét vẽ liền mạch, không nhấc tay lên.
- Tạo hình bằng dây thép và vật dụng tìm được: Khuyến khích học sinh tạo hình
bằng lắp ghép, trang trí từ những vật liệu phế thải thông qua sự liên tưởng về thế
giới xung quanh để tạo thành các tác phẩm biểu đạt 2 chiều hoặc 3 chiều.
* Chúng ta cùng tìm hiểu phương pháp, hình thức tổ chức dạy học qua quy
trình “ Vẽ theo nhạc ”

6


VÍ DỤ: Khi sử dụng quy trình “ Vẽ theo nhạc ” chúng ta có thể áp dụng đối với
một số chủ đề: Những chữ cái đáng yêu, trái cây bốn mùa, Bưu thiếp tặng mẹ và
cô, cửa hàng gốm sứ, trang phục của em.....
- Hình thức tổ chức: Hoạt động cá nhân- hoạt động nhóm
- Mục tiêu của dạng bài này nhằm giúp học sinh:
• Biết lắng nghe và vận động, di chuyển theo giai điệu của âm nhạc
• Chuyển âm thanh và giai điệu thành những đường nét từ sự hứng khởi

• Phát triển trí tưởng tượng trong quá trình tạo ra sản phẩm
• Sáng tạo những sản phẩm mới từ bức tranh nhiều màu sắc được tạo ra theo giai
điệu của âm nhạc
• Biết chọn lọc và sử dụng hình ảnh từ bức tranh lớn để trang trí, giao tiếp…
* Đối với dạng bài này, nên thực hiện các bước dạy học như sau:
- Âm nhạc: Vẽ khi có âm nhạc, băng, đĩa hát. Trong trường hợp không có băng,
đĩa hát, giáo viên hướng dẫn học sinh tự chuẩn bị bài hát tập thể.
.Hoạt động 1: Nghe Nhạc hoặc các Nhịp Điệu, tiết tấu và vẽ theo Giai Điệu
GV tạo nhóm sao cho phù hợp với điều kiện của lớp học. khoảng 8-10HS/nhóm.
- Khởi động: GV bật nhạc nhẹ nhàng, HS lắng nghe và cảm nhận giai điệu của
âm nhạc. HS bắt đầu vẽ những nét màu trên giấy theo thứ tự các màu từ sáng
đến đậm. (Nếu sử dụng màu bột nghiền hoặc màu nước thì chú ý hạn chế màu
đen vì màu này dễ làm cho bức tranh bị xỉn màu). Âm nhạc tăng dần sang tiết
tấu nhanh tạo cảm xúc mạnh mẽ cho Hs. Các em chuyển động cơ thể và vẽ theo
giai điệu của âm nhạc.
Hoạt động này kéo dài khoảng 5 đến 7 phút. Thực hiện quy trình này cần linh
hoạt và sáng tạo với nhiều chất liệu màu, kích cỡ giấy, âm nhạc… theo điều kiện
của trường / địa phương mình. Có thể thay nhạc bằng bài hát hoặc tiết tấu gõ
đệm nhẹ nhàng, từ tiết tấu chậm đến nhanh, sôi nổi, mạnh mẽ…
* Với hoạt động này giáo viên sẽ khuyến khích học sinh:
• Tập trung và nghe nhạc ;
• Sử dụng âm nhạc, xúc giác và các giác quan thẩm mỹ;
• Trải nghiệm âm nhạc và giai điệu tạo cảm xúc;
• Trải nghiệm mối liên hệ giữa giai điêu, hoạt động cơ thể và hình ảnh;
7


• Yêu thích quy trình dạy - học mĩ thuật hợp tác.
* Cuối hoạt động này học sinh có khả năng:
• Nghe nhạc;

• sử dụng tất cả các giác quan để học tập;
• Vẽ màu sắc, đường nét và các mảng màu dựa trên nền nhạc;
• kết nối âm nhạc, hội họa và hoạt động cơ thể;
• Hợp tác trong suốt quy trình dạy - học mĩ thuật.
* Khi kết thúc hoạt động, học sinh trưng bày và thưởng thức bức tranh mình vừa
tạo ra từ khổ giấy lớn (vẽ theo nhóm) hoặc giấy nhỏ (vẽ cá nhân).
Quy trình nên được thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo khi lựa chọn màu sắc,
cỡ giấy và thể loại âm nhạc. Điều quan trọng là giáo viên xây dựng kế hoạch,
thực hiện và đánh giá quy trình dạy - học mĩ thuật này tùy vào khả năng của học
sinh, vật liệu sẵn có và tùy vào từng địa phương. Vì vậy, giáo viên có thể tổ chức
hoạt động tiếp theo tùy vào độ tuổi, thời gian và khả năng của học sinh.
. Hoạt động 2: Từ vẽ tranh đến thưởng thức, cảm nhận về màu sắc:
a.Mục tiêu: Giáo viên sẽ khuyến khích học sinh:
• Chia sẻ kinh nghiệm từ ý kiến cá nhân;
• Tập trung, giao tiếp và lắng nghe nhau;
• Hiểu biết nhiều hơn về màu sắc, đường nét.
b.Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng:
• Biểu đạt được kinh nghiệm và ý kiến của bản thân;
• Nghe tập trung vào những bài thuyết trình của bạn;
• Nói về hình mảng, màu sắc và đường nét biểu cảm qua âm nhạc.
HS quan sát bức tranh và suy nghĩ, đưa ra những nhận xét và chia sẻ cảm nhận
về hoạt động vừa thực hiện. Các em tưởng tượng ra những hình ảnh/ đề tài từ
bức tranh lớn đó.
c. Câu hỏi gợi ý
• Em có cảm nhận như thế nào trong suốt quá trình di chuyển xung quanh bàn và
vẽ màu?

8



• Em có nghĩ là bức tranh này lộn xộn không? Em có hứng thú với hoạt động
vừa thực hiện không?
• Trong khi quan sát tranh em liên tưởng tới hình ảnh gì của đề tài ?
• Từ những hình ảnh đó em nghĩ đến những đề tài nào?
Giáo viên khuyến khích học sinh phản hồi và ghi chép lại ý kiến thành một
bản đồ tư duy ở trên bảng. Giáo viên có thể tập trung vào màu sắc và lần lượt
giới thiệu về một số khái niệm màu như: • Sáng tối • Nóng lạnh • Bổ túc •
Tương phản • Hòa sắc..
.Hoạt động 3: Lựa chọn hình ảnh trong thế giới tưởng tượng:
a.Mục tiêu: Giáo viên sẽ khuyến khích học sinh:
• Phát huy trí tưởng tượng của mình;
• Tự tìm hình ảnh trong bức tranh lớn;
• khuyến khích các em phát triển câu chuyện từ một mảng nhỏ của cả bức tranh;
• Thúc đẩy hình thức thuyết trình, tập trung lắng nghe.
b.Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng:
• Chọn được một phần bức tranh dựa theo1chủ đề;
• Sáng tác câu chuyện liên quan đến phần đã cắt khỏi bức tranh lớn;
• Thuyết trình bức tranh đã chọn và kể câu chuyện sáng tác cho cả lớp.
Mỗi học sinh dùng một khung giấy theo các hình tùy ý được trổ từ khổ giấy A4
và dịch chuyển trên bức tranh lớn để tìm kiếm phần màu sắc, đường nét mình
thích rồi dán khung giấy vào vị trí đó trên bức tranh lớn. Học sinh tưởng tượng
và lần lượt kể trước lớp về câu chuyện trong bức tranh mình đã lựa chọn.
Giáo viên sử dụng câu hỏi nhằm gợi ý, phát triển trí tưởng tượng của học sinh.
Ví dụ về một câu chuyện tưởng tượng:
“Ngày xửa ngày xưa có một con chim hiếm sống ở nước ta. Người ta nói rằng
nó đã quay lại. Bạn lấy camera là khung tìm hình được trổ ra từ giấy và đi tìm
con chim đó, “chụp hình” và kể cho chúng ta nghe về nguồn gốc, đặc điểm, điều
kiện sống,.thức ăn, hoàn cảnh khi nó được tìm ra…”

9



Giáo viên chuẩn bị một khung tìm hình được trổ ra từ giấy cho từng học sinh
hoặc để các em tự làm các khung tìm hình của riêng mình tùy vào sở thích của
học sinh.
Với ví dụ trên, mỗi học sinh sẽ tìm cho mình con chim đặc biệt đó. Các em
suy nghĩ và tự tìm ra cho mình những câu chuyện để kể. Các em sẽ lần lượt kể
câu chuyện đó cho cả lớp, khi kết thúc mỗi câu chuyện, người kể sẽ chỉ định
bức hình tiếp theo của bạn khác để trình bày và cứ thế tiếp tục, các em đều có cơ
hội kể câu chuyện của mình.
.Hoạt động 4: Tạo bức tranh theo tưởng tượng hoặc các sản phẩm trang trí phù
hợp với chủ đề.
a.Mục tiêu: Giáo viên sẽ khuyến khích học sinh:
• Xây dựng ý tưởng từ khung màu, lựa chọn để tạo ra một bức tranh theo tưởng
tượng phù hợp với chủ đề.
• Gợi mở và hỗ trợ học sinh thực hiện trang trí bìa sách, thiệp và các sản phẩm
ứng dụng theo ý thích…
• Tạo cơ hội cho học sinh vận dụng kiến thức trang trí vào sản phẩm.
b.Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng:
• Có ý tưởng hay, phù hợp với chủ đề để tạo được một bức tranh theo tưởng
tượng từ khung màu đã chọn;
• Lựa chọn được cách sắp xếp hình ảnh minh họa và chữ viết phù hợp, sáng tạo
trong trang trí bìa, thiệp;
• Thảo luận về hiệu quả của các cách trình bày khác nhau.
GV hướng dẫn và hỗ trợ các nhóm trang trí sản phẩm của mình với các câu
hỏi mang tính chất gợi mở để HS chủ động, sáng tạo theo ý thích và khả năng
riêng. Học sinh tự làm các sản phẩm của riêng mình một cách sáng tạo như:
• Em muốn tạo ra sản phẩm gì?
• Trong khung hình đã chọn, em muốn giữ lại và muốn lược đi chi tiết nào? Tại
sao? • Bố cục sản phẩm của em có theo những gì em muốn thể hiện không? Em

có muốn thay đổi hay chỉnh sửa gì không?
.Hoạt động 5: Trình bày, thảo luận, đánh giá sản phẩm.
10


a.Mục tiêu: Giáo viên sẽ khuyến khích học sinh:
• Giúp HS phát triển kĩ năng thuyết trình, giao tiếp và chia sẻ kinh nghiệm của
quá trình thực hiện sản phẩm;
• Nâng cao khả năng phân tích, đánh giá và tự đánh giá cho HS.
b.Kết quả: Cuối hoạt động này học sinh có khả năng:
• Biết cách tổ chức trưng bày sản phẩm;
• Có kĩ năng giải thích, nhận xét, đánh giá các sản phẩm;
• Lắng nghe và phản hồi tích cực từ phần thuyết trình của các HS khác.
* Tổ chức các nhóm HS trưng bày sản phẩm: Lần lượt từng HS lên giới thiệu
sản phẩm và chức năng của sản phẩm.Thầy cô tiến hành các hoạt động như:
• Học sinh tự đánh giá
• Đánh giá giữa các cặp, nhóm
• Kết hợp đánh giá của giáo viên và học sinh
* Đánh giá giúp học sinh học tập và tiến bộ !
• Em có hài lòng về tác phẩm của mình (nhóm mình), nhóm bạn?
• Em có thấy ý tưởng của tác phẩm như thế nào ?
• Em có thích thú khi học và thực hiện sản phẩm này không ?
- Học sinh nhận xét, đánh giá bức tranh của bạn
- HS tự đánh giá
- Giáo viên đánh giá học sinh
GV và HS thường xuyên trao đổi ý kiến về mục tiêu và kết quả của các hoạt
động và việc đánh giá cần được thực hiện trong suốt quy trình. Nó có tính giáo
dục hơn khi giáo viên tiến hành đánh giá liên tục bằng cách ghi chép lại sự tiến
bộ của học sinh và chụp các bức ảnh trong suốt quy trình và sản phẩm triển lãm
cuối cùng của học sinh.

* Ý Tưởng Mở rộng : Trang trí lớp học của chúng ta.
Giáo viên có thể xây dựng kế hoạch trang trí lớp học bằng cách tạo ra những
khung cảnh học tập đầy cảm hứng trong phạm vi lớp học cùng với sự tham gia
của học sinh.
. Kết quả là HS được tham gia vận động để tạo nên bức tranh màu sắc, khám
phá được vẻ đẹp, sự phong phú đa dạng của thiên nhiên thông qua trí tưởng
11


tượng về đường nét, màu sắc của bức tranh, phát triển được khả năng diễn đạt
những suy nghĩ của bản thân và kết quả học tập được trưng bầy, giới thiệu tại
lớp tạo niềm vui hứng thú cho học sinh.
Qua quá trình thực hiện giảng dạy môn Mĩ thuật như trên tôi thấy đạt kết quả
rất tốt. 100% học sinh hứng thú tham gia hoạt động học tập, sáng tạo để hoàn
thành và hoàn thành tốt sản phẩm, bài vẽ của cá nhân cũng như của nhóm.

* 2.3.2: Giúp học sinh chủ động chiếm lĩnh kiến thức, phát huy tính tích cực
trong tiết học và cùng nhau tham gia hoàn thiện sản phẩm.
Học sinh thích học thông qua các họat động nên giáo viên không nên sử dụng
hình thức thuyết giảng mà nên dạy học tích cực, dạy học tương tác, lý thuyết gắn
với thực hành. Học sinh được nói, được làm và vận dụng ngay thì sẽ tự động
chiếm lĩnh kiến thức và nhớ lâu bền. Trong giáo dục mĩ thuật, học sinh được
phát triển không ngừng và có sự khác biệt ở mỗi em về khả năng quan sát, trí
tưởng tượng, trí nhớ, cách thức thể hiện con người, con vật, đồ vật về hình dáng,
đặc điểm, cấu trúc, tỉ lệ...Học sinh được kích thích thông qua các khả năng của
bản thân cũng như trải nghiệm với người khác như: những thành viên trong gia
đình, bạn bè và thậm chí những người mới quen biết, với con vật yêu thích, đồ
vật thân quen. Học sinh bị ảnh hưởng thông qua tiếp xúc với sự vật, hiện tượng
xung quanh thông qua các kênh thông tin như: ti vi, tạp chí, sách vở, truyện
tranh, quảng cáo, internet và các tác phẩm điêu khắc công cộng. Dần dần học

sinh nhận biết được những cách thức thể hiện hình ảnh con người khác nhau về
hình dáng, cấu trúc, tỉ lệ như: phác họa con người, biểu cảm của nhân vật, biểu
tượng người khái quát... Do đó việc để học sinh trải nghiệm rất quan trọng, tùy
theo từng chủ đề mà giáo viên lựa chọn các hoạt động cho phù hợp giúp học
sinh nhớ lại kiến thức, những kỷ niệm và tưởng tượng, đồng thời cho các em cơ
hội chia sẻ những gì các em đã biết khi trình bày về sở thích, mối quan tâm, mơ
ước hay ý tưởng. Qua quá trình này học sinh sẽ có được những kiến thức thực tế
để gợi mở cách nhìn nhận, cảm giác, sự tò mò, trí nhớ, trí tưởng tượng và phát
triển sức sáng tạo và biểu đạt thông qua việc được nghe kể chuyện, chia sẻ
những trải nghiệm của bản thân về chủ đề liên quan, xem tranh ảnh, hoặc tổ
chức các trò chơi phù hợp với từng lớp học.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Con vật quen thuộc ” giáo viên nên tổ chức cho học
sinh kể về con vật em thích nhất (hình dáng, màu sắc, đặc điểm nổi bật…). Hay
chủ đề “ Lễ hội quê em” giáo viên tổ chức cho học sinh tạo dáng sẽ thấy ngay
12


hiệu quả bất ngờ. Vì tạo dáng gây hứng thú học tập, giúp cho học sinh nâng cao
hiểu biết về những tình huống sự kiện từ đời sống hàng ngày và trong các hoạt
động lễ hội mà các em biết hoặc thấy. Học sinh tự tạo lại các dáng hoạt động từ
đó dễ dàng nắm bắt được hình dáng, tư thế của người khi hoạt động để vẽ.
Hay như cách giới thiệu bài, nhiều giáo viên quan niệm: Giới thiệu chỉ cần
ngắn gọn, cứ nêu ngay tên bài là xong mà chưa chú ý nhiều đến tác dụng giáo
dục của việc này. Nếu làm phép thử nghiệm để so sánh giữa hai hình thức giới
thiệu bài trực tiếp và giới thiệu bài gián tiếp sẽ thấy rõ hiệu quả như thế nào.
Ví dụ khi giới thiệu chủ đề : Con vật quen thuộc ( lớp 3)
+ Cách 1: - Giới thiệu trực tiếp: Hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu về chủ đề
Con vật quen thuộc
- Hiệu quả: Học sinh nắm được tên bài học. Không khí lớp học không thay đổi,
học sinh chăm chú nghe nhưng chưa nắm được thêm bất cứ kiến thức gì ngoài

tên bài.
+ Cách 2: - Giới thiệu gián tiếp: Giáo viên tổ chức trò chơi ô chữ đoán con vật
(chú ý chỉ nêu tên hoặc hình dáng con vật nuôi). VD : Treo ảnh một con vật đã
bị che và mở từng góc một để HS đoán tên con vật hoặc mô tả hình dáng để
đoán tên con vật. Khi học sinh đoán đúng thì hình con vật được lật ra. Kết thúc
trò chơi, giáo viên giới thiệu: Đây là những con vật quen thuộc có ở xung quanh
chúng ta. Để giúp các em có thể tạo hình được những con vật quen thuộc mà
mình thích, hôm nay cô và các em cùng tìm hiểu qua chủ đề Con vật quen thuộc
Hiệu quả: 100% học sinh nắm được tên bài học, biết được những con vật nào
là con vật quen thuộc, không khí lớp học sinh động, học sinh thích thú khi được
tham gia trò chơi. Vậy nên giáo viên cần chú ý giới thiệu bài thông qua nhiều
hình thức như: thông qua trò chơi, kể một câu chuyện nhỏ, một tình huống hay
đóng vai, tạo dáng, trải nghiệm thực tế…vừa tạo hứng thú học tập cho học sinh
vừa cung cấp kiến thức một cách dễ hiểu nhất vừa tạo không khí phấn khởi cho
giờ học, thu hút sự chú ý, gây tâm lý chờ đón, hồi hộp cho học sinh, giáo viên
không nên “đi ngay” vào nội dung bài học.
HS hát giải lao giữa tiết
HS vẽ cùng nhau

13


* Tăng cường tổ chức các trò chơi lồng ghép vào quá trình học tập:
Bên cạnh hoạt động học là chủ đạo thì nhu cầu chơi, giao tiếp với bạn bè
của các em cũng không thể thiếu. Nếu giáo viên biết phối hợp nhịp nhàng giữa
nhiệm vụ của hoạt động học với sự thỏa mãn nhu cầu chơi, giao tiếp của các em
"Học mà chơi, chơi mà học" thì các em sẽ hăng hái, say mê học tập và một điều
tất yếu là kết qủa học tập của các em sẽ được nâng lên. Đây cũng là một phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trên cơ
sở khai thác đặc điểm tâm sinh lý của học sinh. Khi tổ chức trò chơi, giáo viên

cần lưu ý:
+ Lựa chọn trò chơi vừa sức với học sinh. Các em học đấy nhưng phải
vui, khi vui thích thì việc học tập sẽ là tự nguyện, không bị gò ép, thúc bách. Khi
học mà như chơi thì việc học sẽ trở nên nhẹ nhàng, thoải mái, học sẽ trở thành
một trong những nhu cầu của học sinh. Song cần tìm những trò chơi sao cho
nhiều em được tham gia sẽ phát huy tính tích cực hơn. Giáo viên cần lưu ý cần
lựa chọn các trò chơi làm cho học sinh tự khám phá ra nội dung bài học một
cách chủ động, thích thú và ghi nhớ được kiến thức một cách tự nhiên và sâu
sắc. Trò chơi có chứa đựng những chủ đề, nội dung nhất định, có những quy chế
nhất định mà học sinh phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi giải
trí song đồng thời lại có ý nghĩa giáo dục. Dạy học bằng phương pháp tổ chức
trò chơi là đưa học sinh đến với các hoạt động vui chơi giải trí nhưng có nội
dung gắn liền với bài học.Trò chơi trong học tập có tác dụng giúp học sinh hăng
say vào học tập, chống mệt mỏi, tránh làm cho tiết học nặng nề nhàm chán, tăng
cường khả năng thực hành kiến thức của bài học, phát huy hứng thú, tạo thói
quen độc lập, chủ động và sự sáng tạo của học sinh, lôi cuốn các em vào những
hoạt động học tập. Hay nói cách khác: trò chơi học tập là hoạt động được tổ
chức có tính chất vui chơi, giải trí nhưng có nội dung gắn với bài học hay hoạt
động học tập của học sinh.
+ Tổ chức vào thời điểm thích hợp. Trong thực tế dạy học, giáo viên
thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ
chức cho học sinh chơi các trò chơi để giới thiệu bài hay hình thành kiến thức,
kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu
bài học mới. Do đó giáo viên nên linh hoạt tổ chức ở những thời điểm khác nhau
nhằm tạo sự bất ngờ và giảm căng thẳng của giờ học.

14


+ Lôi cuốn tất cả học sinh của lớp cùng tham gia. Trò chơi học tập là một

hình thức học tập bằng hoạt động, hấp dẫn học sinh nên duy trì tốt hơn sự chú ý
của các em với bài học. Trò chơi làm thay đổi hình thức học tập chỉ bằng hoạt
động trí tuệ, do đó giảm tính chất căng thẳng của giờ học, nhất là các giờ học
kiến thức mới. Trò chơi có nhiều học sinh tham gia sẽ tạo cơ hội rèn luyện kỹ
năng học tập hợp tác cho học sinh, tăng cường khả năng giao tiếp và giúp các
em rèn kỹ năng hợp tác. Một số trò chơi có thể áp dụng như: thi vẽ nhanh, vẽ
đẹp, tưởng tượng từ hình có sẵn… vào đầu, cuối tiết học hoặc trước khi thực
hành. Đây chính là thời gian để các em luyện vẽ và tăng cường khả năng vẽ
nhanh, vẽ đẹp một cách tự nhiên nghộ nghĩnh và giúp các em phấn chấn tinh
thần, hăng hái học tập hơn. Cách tiến hành như sau :
- Trò chơi Tưởng tượng từ hình có sẵn: Giáo viên vẽ lên bảng một số hình (có
liên quan đến chủ đề đang học), yêu cầu các đội cử đại diện tham gia thi đua vẽ
tiếp vào hình có sẵn để thành hình theo đúng chủ đề giáo viên yêu cầu. Ví dụ
như chủ đề “Con vật nuôi”, giáo viên có thể vẽ lên bảng những hình như sau:

Từ những hình này, học sinh vẽ tiếp thành hình các con vật mà em thích như:
con trâu, con heo, con mèo, con thỏ…
- Trò chơi : Ai nhanh hơn. Luật chơi: Mỗi nhóm cử 1 đại diện lên vẽ nhiều con
vật nuôi ( hoặc vẽ một tranh). HS dưới lớp hát 1 bài. Khi hát hết bài thì các đội
thi vẽ phải ngừng tay. Đội nào có học sinh vẽ nhanh, vẽ nhiều con vật (hoặc
tranh đẹp nhất) là đội thắng cuộc…
Khi tổ chức trò chơi, giáo viên cần đánh giá cao phần tham gia của các
đội, không làm qua loa đại khái, có khen thưởng, tuyên dương kịp thời cũng là
một biện pháp làm cho học sinh thêm tích cực vì em nào cũng thích được khen,
được thầy cô quan tâm đến việc làm của mình. Bên cạnh đó cần động viên
những đội còn lại để các em cố gắng hơn ở lần sau. Sau mỗi lần chơi giáo viên
cần nhận xét đánh giá kết quả của học sinh. Dựa vào yêu cầu, nội quy chơi, kết
quả cuộc chơi giáo viên đánh giá cuộc chơi và phân loại thắng thua thật công
bằng, rõ ràng. Giáo viên phải hết sức lưu ý vấn đề này vì đôi khi có giáo viên
15



nêu yêu cầu và luật chơi rất khắt khe nhưng khi đánh giá kết quả lại đại khái,
không chính xác hoặc không công bằng vì vậy sẽ làm cho học sinh mất phấn
khởi, đôi khi các em biểu lộ sự phản đối với sự đánh giá đó và không chấp nhận
kết luận của giáo viên. Để đánh giá đúng thực chất của cuộc chơi, giáo viên phải
thống kê ra được những ưu điểm, nhược điểm của từng đội tham gia chơi. Tuy
nhiên vẫn cần sự đánh giá nhẹ nhàng mang tính chất động viên, khích lệ là
chính, tránh tình trạng đánh giá để các em buồn và xấu hổ với bạn bè khi không
thắng trò chơi.
HS thi vẽ Ai nhanh hơn

Kết quả: Nhiều học sinh hăng hái phát biểu và thích được phát biểu, thích
tham gia nhận xét, đánh giá, hứng thú tham gia trò chơi học tập. Đặc biệt các em
tập trung trong học tập hơn, không còn hiện tượng nói chuyện riêng, làm việc
riêng trong giờ học.
Ngoài ra, việc đánh giá kết quả học tập không chỉ dựa trên thành tích
chung của cả nhóm mà còn dựa trên sự đóng góp của từng thành viên trong
nhóm. Để thực hiện việc đánh giá đảm bảo công bằng, đúng thực tế, giáo viên
cần có sổ tay theo dõi ghi nhận ngay những cá nhân tích cực, cá nhân thụ động
hay sáng tạo, những nhóm làm việc hiệu quả…Khi thực hiện việc đánh giá, giáo
viên cần nêu rõ những mặt được và chưa được để học sinh nắm và thực hiện tốt
hơn. Bên cạnh việc tuyên dương những học sinh tích cực, chăm chỉ, giáo viên
cũng cần nghiêm khắc nhắc nhở những học sinh chưa tập trung, lơ là, hay nói
chuyện, làm việc riêng…để các em có trách nhiệm và ý thức hơn.
Khi đánh giá hoạt động của một nhóm, giáo viên cũng cần lưu ý tới những
tiến bộ của các em. Bởi vì sự tiến bộ đó thể hiện tinh thần, thái độ tiếp thu bài
học có hiệu quả mà các em đạt được. Sản phẩm của một nhóm thường là hoàn
thành tốt thì không có gì phải bàn, nhưng có nhiều trường hợp ở hoạt động trước


16


các em chỉ hoàn thành hoặc chưa hoàn chỉnh, ở hoạt động sau lại có sản phẩm
nổi trội hoặc xuất sắc thì rất cần sự ghi nhận của giáo viên. Đó chính là
động lực để các em có tinh thần học tập tốt hơn ở các hoạt động sau.
Mặt khác Mĩ thuật là một bộ môn phụ thuộc nhiều vào năng khiếu của từng
cá nhân, do đó giáo viên không nên đòi hỏi quá nhiều ở các em. Học sinh hoàn
thành sản phẩm đúng theo nội dung chủ đề, qua mỗi giờ học các em có thể nhận
xét, đánh giá cái đẹp và cái chưa đẹp đã là thành công. Mỗi lời động viên, khích
lệ dù rất nhỏ của giáo viên cũng có thể là một động lực lớn để các em cố gắng.
Hiện tại việc đánh giá môn học được thực hiện theo thông tư 22, do đó đánh
giá hoạt động nhóm là một phần quan trọng để làm căn cứ cho giáo viên thực
hiện đúng thực chất, công bằng và khách quan. Nhất là đối với nội dung năng
lực và phẩm chất, nếu giáo viên chỉ dựa trên cơ sở là sản phẩm mĩ thuật của các
em là chưa đủ, chưa chính xác, mà phải dựa trên nhiều yếu tố như: Khả năng kết
hợp với bạn, khả năng giao tiếp, tính tích cực, sáng tạo…Chính vì vậy, giáo viên
cần coi trọng khâu đánh giá hoạt động nhóm của học sinh trong các giờ học, để
đảm bảo các yêu cầu về chuyên môn, đạt mục tiêu giáo dục của môn học Mĩ
thuật trong trường Tiểu học .
Kết quả 100% các em yêu thích, chủ động chiếm lĩnh kiến thức và hứng thú
hơn với môn học không còn tình trạng trông chờ hay ỉ lại.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm sau khi áp dụng
Các hoạt động diễn ra theo trình tự một cách khoa học và gắn kết với nhau.
Bản thân giáo viên cũng đã mạnh dạn đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh dễ tiếp thu bài hơn, hiệu
quả sáng tạo tăng lên rõ rệt. Hầu hết học sinh đều biết chủ động trong quá trình
học tập, tự tin trước lớp, giao tiếp tiến bộ, năng lực sáng tạo, biểu đạt có tiến bộ
rõ rệt. Nhiều học sinh hăng hái phát biểu và thích được phát biểu, thích tham gia
nhận xét, đánh giá, hứng thú tham gia trò chơi học tập. Đặc biệt các em tập trung

trong học tập hơn, ít nói chuyện riêng, làm việc riêng trong giờ học.Học sinh
tích cực tham gia các hoạt động học tập của nhóm hơn, nhiều em đã biết khắc
phục và khắc phục được những hạn chế của bản thân, sáng tạo nhiều sản phẩm
mĩ thuật độc đáo và đẹp mắt.
Một số sản phẩm của học sinh

17


Sản phẩm Vẽ theo nhạc của HS.

Sản phẩm Vẽ cùng nhau

18


Sản phẩm Mô hình tạo hình 3D
Tính tới thời điểm hiện tại, học sinh đã tương đối quen và thực hiện tương
đối tốt mô hình học tập mới này, áp lực học tập không còn là vấn đề với các em.
Đây chính là hình thức dạy học theo phương pháp mở, tăng cường dạy học hợp
tác nhưng vẫn coi trọng cá thể hóa học sinh. Tạo cơ hội cho học sinh thực hành
các bài tập ứng dụng thiết thực, phục vụ cho học tập và cuộc sống.
Số học sinh còn trông chờ ỉ lại, sao chép bài vẽ không còn . Xem sản phẩm
của các em chúng ta sẽ thấy ngay những tiến bộ vượt bậc mà các em đã có được.
Tính sáng tạo, độc đáo được học sinh thể hiện qua từng chủ đề sinh động, phong
phú và đa dạng. Những bức tranh có tạo hình tự tin, ngộ nghĩnh xuất hiện ngày
càng nhiều. Điều quan trọng là giáo viên đã tạo được không khí hào hứng, say
mê học vẽ ở học sinh. Cụ thể kết quả khảo sát ở học sinh khối lớp 3 như sau:
Trước khi áp dụng giải pháp
Tổng số HS

HTT
HT
CHT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
90
22
24,4 %
54
60 %
14
15,6 %

Tổng số HS
90

SL
63

Sau khi áp dụng giải pháp
HTT
HT
TL
SL
TL
70 %

28
30 %

CHT
SL
0

TL
0%

Qua những kết quả trên, chứng tỏ giải pháp mới này có hiệu quả và khả
quan. Đồng thời cũng khẳng dịnh một điều đó là: dạy Mĩ thuật cho học sinh tiểu
học không khó. Cái khó chính là giáo viên phải lựa chọn phương pháp giáo dục
19


sao cho phù hợp và để làm được điều này trước hết đòi hỏi giáo viên phải là
người có lòng yêu nghề - mến trẻ, ham học hỏi để nâng cao trình độ, tích cực áp
dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy và quyết tâm thực hiện theo đúng tinh
thần đổi mới giáo dục Mĩ thuật Tiểu học do Bộ Giáo dục &đào tạo đã triển khai.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Mĩ thuật là môn học nghệ thuật, kết quả của nó là kết quả của cảm xúc,
chứ không đơn giản là kỹ thuật hay kỹ năng. Muốn tạo ra cái đẹp, học sinh phải
có cảm xúc. Cảm xúc phải xuất phát từ sự rung động của học sinh trước vẻ đẹp
của đối tượng cùng với phương pháp giảng dạy hấp dẫn, lôi cuốn của giáo viên.
Cái đẹp phải phù hợp với cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận của mỗi học sinh.
Trẻ em có cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận riêng, không giống cách nhìn,
cách nghĩ, cách cảm nhận của người lớn.
Qua quá trình áp dụng tôi nhận thấy cái hay của phương pháp này là đặt

người học vào vị trí chủ động phải tìm hiểu vấn đề và tìm ra cách giải quyết hiệu
quả, sáng tạo nhất. Việc đánh giá học sinh cũng không còn bị đặt quá nặng vào
sản phẩm của các em mà nó được đánh giá dựa trên cả quá trình mà các em
tham gia. Đây là một cách học năng động, phát huy, rèn luyện được nhiều kỹ
năng cho học sinh, đặc biệt là kỹ năng sống. Giáo viên có thể cho học sinh mang
sản phẩm về nhà để trưng bày thành góc Mĩ thuật ở gia đình, ở trường có thể tổ
chức triển lãm, trưng bày sản phẩm của học sinh tại phòng học Mĩ thuật hoặc
phòng sinh hoạt tập thể. Tập cho học sinh thói quen sưu tầm và cất giữ những
vật dụng, vỏ hộp, chai nhựa....không còn sử dụng để khi cần có thể sử dụng làm
đồ dùng học tập. Làm tốt công tác tư tưởng với phụ huynh để phụ huynh tham
gia chuẩn bị tốt họa phẩm và vật liệu phục vụ cho việc học tập của con, có thể
tận dụng em mình.Đối với giáo viên cần vận dụng và tận dụng tối đa các phương
tiện, đồ dùng học tập sẵn có, sử dụng linh hoạt các chất liệu học sinh đã có và
hướng dẫn học sinh sưu tầm các chất liệu sẵn có ở địa phương, những vật dụng
bỏ đi để tạo ra nhiều chất liệu phong phú trong các hoạt động dạy - học Mĩ thuật
để bài học đạt hiệu quả cao.
Nói tóm lại : dạy học là một nghệ thuật, không có phương pháp nào là tối
ưu. Mỗi giáo viên có phương pháp giảng dạy riêng, nhưng dù thế nào đi chăng
nữa cũng cần hiểu rằng: Hãy để kiến thức mĩ thuật đến với học sinh như là một
nhu cầu hoạt động vui chơi để phát triển và lớn lên cùng cuộc sống của các em.
Qua quá trình tìm hiểu, đúc kết kinh nghiệm bản thân tôi cũng chỉ với mong
muốn được góp một phần công sức bé nhỏ của mình vào sự nghiệp giáo dục
20


chung. Có thể giải pháp nêu trên chưa phải là tối ưu nhưng đó chính là một cách
cần thiết và dễ dàng áp dụng có thể giúp giáo viên thực hiện tốt hơn vai trò của
mình khi giảng dạy bộ môn Mĩ thuật .
Với mong muốn là làm thế nào để việc dạy học môn Mĩ thuật Tiểu học
ngày càng hiệu quả và giúp giáo viên tháo gỡ những khó khăn, tôi xin kiến nghị

một số ý kiến như sau:
3.2. Kiến nghị
- Đối với Ngành cấp trên:
+ Như lời thầy Nguyễn Hữu Hạnh, chuyên viên chính Vụ Giáo dục Tiểu học,
BGD&ĐT : “Cái gì đổi mới, thời gian đầu cũng sẽ không tránh khỏi khó khăn,
điều quan trọng chính là ở chỗ, người giáo viên phải biết lấy học sinh làm trung
tâm của quá trình giảng dạy, hiểu trình độ từng em, từ đó có những hành động
thiết thực để cải thiện điều kiện học tập và kết quả học tập của các em”. Vâng,
khó khăn nào giáo viên cũng sẽ cố gắng vượt qua, nhưng khó khăn do cơ sở vật
chất nhà trường, do kinh tế gia đình học sinh thì có cố mấy cũng không hiệu
quả. Vậy nên kính mong ngành cấp trên sẽ có những điều chỉnh và sự giúp đỡ
phù hợp để giáo viên chuyên trách Mĩ thuật không còn quá lo lắng, băn khoăn
và an tâm công tác, nhằm huy động nguồn lực dạy học Mĩ thuật hiệu quả, giúp
học sinh có cơ sở vật chất để học tập một cách tốt nhất.
- Tổ chức tập huấn rút kinh nghiệm để giáo viên nắm vững thêm về phương
pháp dạy học mĩ thuật mới.
* Đề xuất
- Đối với Nhà trường : Bổ xung bàn ghế phù hợp cho học sinh học vẽ theo
nhóm. Tạo thêm điều kiện cơ sở vật chất như giá sách, tủ để đựng và trưng bày
các sản phẩm Mĩ thuật của học sinh.
Những vấn đề mà tôi đã nêu chắc chắn không tránh khỏi hạn chế và thiếu
xót. Song đó là những kinh nghiệm nhỏ mà tôi đã rút ra được trong quá trình
nghiên cứu và dạy thử nghiệm. Tôi rất mong được sự tham khảo, nhận xét, góp
ý bổ sung của đồng nghiệp, của cấp trên để giải pháp này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

21


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

ĐƠN VỊ

Yên Định,ngày 05 tháng 04 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

ĐINH THỊ TÌNH

22



×