Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.15 KB, 21 trang )

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đang đòi hỏi phải đổi
mới giáo dục, trong đó có sự đổi mới cơ bản về phương pháp dạy học. Những
phương pháp dạy học tích cực kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi tư duy của học sinh.
Muốn đạt được mục tiêu này thì dạy và học Toán trong trường phổ thông là một
khâu quan trọng của quá trình dạy học.
Đối với môn toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất phát
của cả một bộ môn khoa học. Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở
Tiểu học. Chương trình kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy Toán lớp 1 nên nó
có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong mỗi cấp học.
Dạy học môn Toán ở lớp 1 nhằm giúp học sinh:
* Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về
các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20, về tuần
lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình học (Điểm,
đoạn thẳng, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn.
* Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh các số
trong phạm vi 100; cộng trừ và không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ
dài đoạn thẳng (với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm). Nhận biết hình
vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm, đoạn thẳng). Giải một
số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một
số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp,
trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ
với đời sống thực tế của học sinh.
Thực tế “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức xuyên suốt chương trình toán
cấp Tiểu học, là mạch kiến thức rất mới và khó đối với học sinh và đặc biệt càng
khó khăn hơn với học sinh lớp1. Bởi vì đối với học sinh lớp 1 vốn từ, vốn hiểu biết,
khả năng tư duy logic còn hạn chế. Là một giáo viên nhiều năm trực tiếp dạy lớp 1
tôi nhận thấy học sinh giải toán có lời văn còn lúng túng và gặp nhiều khó khăn. Các
em rất ngại làm và hoàn thành bài chậm do các em đọc, viết còn chậm nên việc hiểu
đề bài ở mức chưa cao. Chính vì thế, đôi khi các em chỉ ghi được phép tính nhưng


chưa nêu được đầy đủ câu lời giải, sai đơn vị hoặc sử dụng không đúng dấu ngoặc
đơn. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh ngại làm toán có lời văn dẫn đến chất lượng
chưa cao. Chính vì vậy tôi rất trăn trở và suy nghĩ cần phải làm gì để dạy cho học sinh
lớp 1 học tốt mạch kiến thức này? Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu đó
là:“Một số giải pháp nâng cao chất lượng Giải toán cho học sinh lớp 1.”
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích:
+ Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo của bài toán có lời văn lớp 1.
+ Giúp học sinh đọc - hiểu - phân tích - tóm tắt bài toán.
+ Giải bài toán đơn về thêm (bớt) bằng một phép tính cộng (trừ).
+ Trình bày bài giải gồm: câu lời giải, phép tính, đáp số.
+ Tìm lời giải phù hợp cho bài toán bằng nhiều cánh khác nhau.
1


1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng Giải toán cho học sinh lớp 1.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu và thực nghiệm đề tài, tôi sử dụng những phương pháp cơ bản sau:
+ Phương pháp thực nghiệm: Dạy thực nghiệm tại lớp 1B.
+ Phương pháp trực quan: Hướng dẫn học sinh quan sát mô hình nêu bài toán,
tìm hiểu bài toán, trình bầy bài giải.
+ Phương pháp thực hành luyện tập: Hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập
và cũng cố kiến thức.
+ Phương pháp hỏi đáp: Giáo viên đặt hệ thống câu hỏi ngắn gọn, phù hợp để
học sinh dể hiểu.

2



II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong các môn học ở Tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vai trò
quyết định vì:
- Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời
sống, rất cần thiết để học tiếp các môn học khác ở Tiểu học và học tiếp môn Toán ở
cấp Trung học.
- Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng, hình dạng
không gian của thế giới hiện thực, nhờ đó học sinh có phương pháp nhận thức một
số mặt của thế giới xung quanh, biết cách hoạt động có hiệu quả trong cuộc sống.
- Môn Toán góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ,
suy luận, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập,
linh hoạt, sáng tạo. Góp phần quan trọng vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết
của người lao động.Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của
Toán 1(Số và phép tính - Đo đại lượng - Yếu tố hình học - Giải toán có lời văn)..
Trong chương trình môn toán lớp 1, trước khi học giải toán có lời văn (sẽ học ở
kì II) học sinh có giai đoạn “chuẩn bị” cho học giải toán có lời văn (học kì I). Trong
giai đoạn chuẩn bị này, học sinh làm quen với các “tình huống” qua tranh vẽ, từ đó
hình thành bài toán có lời văn (nêu miệng bài toán) và bước đầu có hướng giải quyết
bài toán (ở mức độ nêu phép tính thích hợp). Sang học kì II chính thức được học
giải toán có lời văn thông qua các bài học mang tính chất làm quen đó là: “Bài toán
có lời văn”. “Giải toán có lời văn” trong giai đoạn học tập này trên cơ sở “làm quen”
với giải toán có lời văn thì bước đầu hình thành ở học sinh kĩ năng giải các bài toán
đơn về thêm (bớt) một số đơn vị. ( Viết được bài giải bao gồm: Câu lời gải, phép
tình và đáp số ). Bước đầu phát triển tư duy, rè luyện phương pháp giải toán, có khả
năng diễn đạt ( phân tích vấn đề, giải quyêt vấn đề, trình bày vấn đề bằng ngôn ngữ
và viết...).
Khả năng giải toán của học sinh chính là phản ánh năng lực vận dụng kiến thức
toán học vận dụng giải toán kết hợp với kiến thức Tiếng Việt để giải quyết vấn đề
trong toán học. Từ ngôn ngữ thông thường trong các đề toán đưa ra cho học sinh

đoc, hiểu, biết hướng giải và đưa ra phép tính kèm câu trả lời và đáp số của bài toán,
giải toán góp phần cũng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng diễn đạt, tích cực góp phần
phát triển tư duy cho học sinh tiểu học.
Như vậy, năng lực tư duy của học sinh được nâng dần thông qua việc giải các
bài toán với mức độ khó tăng dần theo từng lớp.
Một số yếu tố tác động đến chất lượng giải toán có lời văn lớp 1.
* Khả năng hiểu ngôn ngữ của học sinh.
Học sinh phải có khả năng ngôn ngữ. Các em phải hiểu được vốn từ, hiểu được
ngôn ngữ được sử dụng trong đề toán. Hiểu được các lời nhận xét, giảng giải của
giáo viên. Biết sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt lại bài làm của mình.

3


*Đồ dùng trực quan được sử dụng trong tiết học.
Quá trình nhận thức của học sinh tiểu học ở các lớp đầu cấp của bậc Tiểu học
gắn với hình ảnh trực quan. Đặc điểm tư duy của học sinh tiểu học ở giai đoạn đầu
này mang tính trực quan cụ thể, tư duy trừu tượng chưa phát triển. Do đó để hỗ trợ
cho việc giải toán người ta thường sử dụng các phương tiện trực quan đó là hình ảnh
thực (có thể vật thật, tranh ảnh hay mô hình ở dạng hình ảnh hay sơ đồ). Như vậy,
các hình ảnh trực quan làm bộ phận của hoạt động nhận thức, hoạt động tư duy của
học sinh khi học toán nói chung và học giải toán có lời văn nói riêng. Đặc biệt là với
học sinh lớp 1.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Về phía giáo viên:
- Đội ngũ giáo viên trong nhà trường có ý thức tốt về trách nhiệm của người
giáo viên luôn sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau
tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng
như phẩm chất, năng lực.
- Ban giám hiệu nhà trường và tổ chuyên môn luôn quan tâm đến chất lượng

dạy toán lớp 1, đặc biệt là nội dung giải toán có lời văn.
* Về phía học sinh:
- Đa số các em là học sinh dân tộc thiểu số vốn từ của các em còn hạn chế dẫn
dến việc nắm bắt được đề toán rất chậm.
- Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 còn rất hạn chế.
- Học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời giải, viết
sai phép tính, viết sai đáp số. Với tiết đầu tiên của giải toán có lời văn mỗi lớp chỉ có
khoảng 4 học sinh biết nêu câu lời giải, viết phép tính và đáp số. Số còn lại là mơ
hồ, các em chỉ nêu theo quán tính hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em
lại lúng túng, làm sai, một số em làm đúng nhưng khi cô hỏi lại không biết để trả
lời. Bên cạnh đó, trình bày bài chưa sạch đẹp. Một số học sinh chưa biết cách đặt
câu lời giải phù hợp. Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn
đến không làm được bài.
Năm học 2018 – 2019 này, tôi được phân công giảng dạy lớp 1B Trường Tiểu
học Quang Hiến. Sĩ số là 28 em, trong đó có 13 nữ, 15 nam, sau một thời gian học
tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng như sau.
Kết quả khảo (đầu học kỳ 2)
Lớp

Sĩ số

28
1B

Học sinh viết
đúng câu lời giải

Học sinh viết
đúng phép tính


Học sinh viết
đúng đáp số

Học sinh giải
đúng cả 3 bước

Số
lượng

Tỷ lệ
%

Số
lượng

Tỷ lệ
%

Số
lượng

Tỷ lệ
%

Số
lượng

Tỷ lệ
%


8

28.6

10

35.7

10

35.7

7

25

- Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy chất lượng giải toán có lời văn của học
sinh lớp 1 chưa cao. Tỉ lệ học sinh nắm được cách giải bài toán đúng cả 3 bước còn
thấp. Có thể nói: kĩ năng giải toán có lời văn của các em còn hạn chế. Đa số các em
4


chưa biết viết câu lời giải, viết phép tính không phù hợp với câu lời giải. Đặc biệt là
kĩ năng trình bày bài chưa tốt.
- Nếu không có giải pháp tích cực để kịp thời điều chỉnh thực trạng trên thì các
em tiếp tục hụt hẫng kiến thức. Muốn điều chỉnh hệ quả phải biết được nguyên
nhân. Qua thời gian nghiên cứu và trực tiếp giảng dạy, tôi nhận thấy: Học sinh làm
bài về dạng toán có lời văn chất lượng chưa cao là do một số nguyên nhân cơ bản
sau:
Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Nhiều em ở với ông bà già yếu

nên chưa để ý đến việc làm bài tập ở nhà của cháu, các em thích làm bài tập thế nào
thì làm.
Do học sinh mới làm quen với dạng toán này, hơn nữa tư duy của các em còn
mang tính trực quan là chủ yếu. Mặt khác ở giai đoạn này các em chưa đọc, viết
thành thạo, phần lớn các em còn đánh vần nên khi đọc xong bài toán nhưng các em
không hiểu bài toán nói gì.Thậm chí có những em đọc đi đọc lại nhiều lần nhưng
vẫn không hiểu đề toán dẫn đến việc nắm bài và giải bài toán có lời văn đối với học
sinh lớp 1 gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, học sinh không làm được hoặc làm
sai là điều dễ hiểu.
Vậy làm thế nào giúp học sinh lớp 1B Trường Tiểu học Quang Hiến nâng cao
chất lượng về giải toán có lời văn? Đây chính là điều mà tôi luôn trăn trở, suy nghĩ. Sau
thời gian dài nghiên cứu, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp với hy vọng giúp các
em học sinh lớp 1 tự tin hơn, thành thạo hơn khi giải toán có lời văn.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Giải pháp 1:Nghiên cứu, nắm vững nội dung chương trình trong môn Toán lớp
1.
a. Số học:
* Các số đến 10. Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 10 bao gồm:
- Nhận biết quan hệ số lượng.
- Đọc đếm, viết, so sánh các số đến 10. sử dụng dấu =, >, <.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép cộng.
- Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép trừ.
- Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10.
- Số 0 trong phép cộng,phép trừ.
- Mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ.
- Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng trừ.
* Các số đến 100. Phép cộng và phép trừ không nhớ trong phạm vi 100.
- Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 100. Giới thiệu hàng chục, hàng đơn vị.
giới thiệu tia số.
- Phép cộng và phép trừ không nhớ trong phạm vi 100. Tính nhẩm và tính viết.

- Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ.[1]
b. Đại lượng và đo lường:
- Giới thiệu đơn vị đo độ dài xăng ti mét. Đọc viết thực hiện phép tính với các
số đo theo đơn vị đo xăng ti mét.Tập đo và ước lượng độ dài.
- Giới thiệu đơn vị đo thời gian: tuần lễ, ngày trong tuần. Làm quen bước đầu
với đọc lịch, đọc giờ đúng trên đồng hồ. [1]
c. Yếu tố hình học:
- Nhận dạng bước đầu về hình vuông, hình tam giác, hình tròn.
5


- Giới thiệu về điểm, điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình, đoạn thẳng
- Thực hành vẽ đoạn thẳng, vẽ hình trên giấy kẻ ô vuông: gấp, ghép....hình[1].
d. Giải bài toán có lời văn:
- Giới thiệu bài toán có lời văn.
- Giải bài toán bằng 1 phép cộng hoặc một phép trừ, chủ yếu là các bài toán
thêm, bớt một số đơn vị.
- Như vậy chương trình toán lớp một giai đoạn đầu học sinh còn đang học
chữ nên chưa thể đưa ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến tuần 23, học sinh
mới được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" song chúng ta đã có ý
ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài:"Phép cộng trong phạm vi 3”
(Luyện tập) ở tuần 7.
* Bắt đầu từ tuần 7 cho đến tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép
cộng trừ trong phạm vi 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn tranh nêu phép
tính" đến đây học sinh được làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh). [2]
Ví dụ 1: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46(SGK)


Học sinh tập nêu bằng lời: “Có 1 quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi
có tất cả mấy quả bóng?” Giáo viên cho học sinh tập nêu miệng câu trả lời: “có
tất cả 3 quả bóng”, sau đó viết vào dãy năm ô trống để có phép tính.
- Kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu đề
toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy
năm ô trống, ở đây không còn tranh vẽ nữa (xem bài 3b - Trang 87, bài 5 Trang 89)[2].

6


- Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là
chuẩn bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy
ngay sau các bài tập "nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống"
chúng ta nên đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng.
Ví dụ 2: Từ bức tranh "3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới" ở trang
47 [2] sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống:

- Giáo viên nên hỏi tiếp:"Vậy có tất cả mấy con chim?" để học sinh trả lời miệng:
"Có tất cả 4 con chim"; hoặc "Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim có tất cả là
4) ...Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng.
Từ đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
- Trước khi chính thức học “Giải các bài toán có lời văn” học sinh được
học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành phần chính là
những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết). Vì khó có thể giải
thích cho học sinh "Bài toán là gì?" nên mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu
cho các em hai bộ phận của một bài toán:
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Và cái phải tìm (câu hỏi).
7



- Để làm việc này, sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề
toán: 2 đề còn thiếu dữ kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện lẫn
câu hỏi (biểu thị bằng dấu,...) Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán,
sau đó điền số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi (còn để trống).
Từ đó giáo viên giới thiệu cho các em “Bài toán thường có hai phần”
+ Những số đã cho.
+ Số phải tìm (câu hỏi).
Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của "Bài toán có lời văn".
Các dạng toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai dạng toán
"thêm, bớt"
Bài toán "thêm” thành bài toán “gộp”, chẳng hạn: An có 4 quả bóng, Bình có 3
quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?, dạng này khá phổ biến.
* Đối với bài toán đơn về “Thêm”
- Gv cho học sinh xem tranh (nếu có) rồi đọc bài toán và trả lời câu hỏi của
bài toán đó. Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?
- Hướng dẫn học sinh tìm lời giải của bài toán.
- Hướng dẫn học sinh trình bày bài giải.
+ Viết câu lời giải (Dựa vào câu hỏi của bài toán).
+ Viết phép tính (Tên đơn vị viết vào dấu ngoặc đơn).
+ Viết đáp số.
* Đối với bài toán đơn về “Bớt”
- Bài toán "Bớt" chính là bài toán tìm số hạng, chẳng hạn: "Lớp 1A có 18
bạn, trong đó có 8 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?", dạng này ít gặp
vì dạng này hơi khó (trước đây dạy ở lớp 2).
- Hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo
quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5.
+ Câu lời giải.
+ Phép tính giải.

+ Đáp số.
* Kết luận: Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh
khi "Giải bài toán có" chương trình toán 1 đã có những giải pháp cụ thể
Giải pháp 2: Giúp học sinh nắm vững một số phương pháp giải toán.
Phương pháp dạy học tích cực là hệ thống các phương pháp tác động liên tục của
giáo viên nhằm kích thích tư duy của học sinh, tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh
theo quy trình. Phương pháp này giúp học sinh và giáo viên đều tham gia tích cực vào
quá trình dạy học, học sinh được tiếp cận kiến thức bằng hoạt động làm bài tập, học sinh
làm việc cá nhân, nhóm, lớp trao đổi với bạn với thầy.
* Phương pháp trực quan.
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 chúng ta thường sử dụng
phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử
dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ, … giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra đường
lối giải toán một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai loại tranh vẽ
giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là:
Loại gợi ra phép cộng

8


- GV yêu cầu học sinh quan sát tranh và cho cô biết (GV nói hỏi đến đâu
thì mở tranh đến đó):
+ Cô có mấy con thỏ?
+ Cô thêm mấy con thỏ nữa?
+ Có 5 con thỏ thêm 3 con thỏ nữa thì có tất cả mấy con thỏ?
+ Con làm phép tính gì để có kết quả là 8? ......
Loại gợi ra phép trừ.
- GV yêu cầu học sinh quan sát tranh và cho cô biết:
- Lúc đầu ở dưới ao có tất cả mấy con vịt?
- Có mấy con vịt chạy lên bờ?

- Ở dưới ao còn lại mấy con vịt?
- Có 6 con vịt đang ở dưới ao, có 1 con vịt
chạy lên bờ. Vậy ở dưới ao còn lại mấy con vịt?
- Con làm phép tính gì để có kết quả là 5? ......
Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài
toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và
phương pháp trực quan.
* Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại)
Sử dụng phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) khi hướng dẫn học sinh tìm
hiểu, phân tích đề bài, tìm cách giải, chữa bài làm của học sinh ...
Ví dụ: Bài toán: Nhà Lan nuôi 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà nữa. Hỏi
nhà Lan có tất cả bao nhiêu con gà?
+ GV yêu cầu học sinh đọc đề toán trả lời các câu hỏi sau:
- Nhà Lan có mấy con gà? (Nhà lan có 5 con gà)
- Mẹ lan mua thêm mấy con gà? (Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi ta điều gì? (Nhà Lan có tất cả mấy con gà?)
Với phương pháp hỏi đáp sẽ giúp học sinh hiểu rõ hơn đề toán và từng
bước tìm ra cách giải bài toán đó.
*Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.
Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn”
trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này.
Dạng 1: Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:
Bài 1: Trang 115- [2]

9


Sau đó các em lại làm quen với bài toán khó hơn, phức tạp hơn.
Dạng 2: Viết tiếp câu hỏi để có bài toán:
Bài 3: Trang 116 [2]


Dạng 3: Vừa yêu cầu viết số, vừa yêu cầu hoàn thành phần câu hỏi để có bài toán giải.
Bài 4: Trang 116 [2]

10


Dạng 4: Cho học sinh đề bài toán giải yêu cầu học sinh hoàn thành tóm tắt và
bài giải. Cụ thể như sau:
Bài toán 1: An có 4 viên bi, Hà có 5 viên bi. Hỏi cả hai bạn có mấy viên bi?
Tóm tắt:
Bài giải:
An có :…viên bi
Cả hai bạn có :
Hà có: …viên bi
……………….=…(viên)
Cả hai bạn :….viên bi ?
Đáp số : ….viên bi.
Học sinh sẽ hoàn thành như sau
Tóm tắt:
Bài giải:
An có
: 4 viên bi
Cả hai bạn có số viên bi là:
Hà có
: 5 viên bi
4 + 5 = 9 (viên)
Cả hai bạn :…viên bi ?
Đáp số : 9 viên bi.
Dạng 5: Yêu cầu học sinh hoàn thành trọn vẹn bài toán giải (Lời giải, phép

tính vµ đáp số)
Bài 3: Trang 118 [2]

Tóm tắt:
Bài giải:
Dưới ao : … con vịt
……………………………….
Trên bờ : … con vịt
………………………………
Có tất cả : … con vịt
………………………………
Học sinh hoàn thành bài toán như sau:
Tóm tắt:
Bài giải:
Dưới ao : 5 con vịt
Có tất cả số con vịt là:
Trên bờ : 4 con vịt
5 + 4 = 9 (con)
Có tất cả : ... con vịt
Đáp số : 9 con vịt
Để học sinh nắm được bài, làm thành thạo dạng toán Giải toán có lời văn thì
các em lần lượt làm được bài Luyện tập trang 121 SGK Toán lớp 1. Nếu ở mức độ
đơn giản thì lời giải chung của bài toán giải thêm là: Có tất cả là
Giáo viên phân tích đề bài toán giải
+ Bài toán cho biết gì?
+ Bài toán yêu cầu làm gì ?
+ Bài toán giải có lời văn gồm mấy bước ?
(3 bước: lời giải, phép tính và đáp số). Cụ thể như sau:
Bài 1: Trang 121 [2]
11



Tóm tắt:

: 12… cây chuối ( Bài toán cho biết )
Thêm : 3 cây chuối (Bài toán cho biết )
Có tất cả :… cây ? (Bài toán yêu cầu tìm có tất cả bao nhiêu cây hay bài toán
hỏi có tất cả bao nhiêu cây?)
Muốn biết có tất cả bao nhiêu cây chúng ta làm phép tính gì?( phép cộng)
Lấy mấy cộng mấy?( 12 + 3 )
Lời giải như thế nào?(Có tất cả là :)
Đơn vị là gì?(cây chuối)
Bài giải:
Có tất cả là :
12 + 3 = 15(cây)
Đáp số : 15 cây chuối
Dạng 6: Cho học sinh tóm tắt bài toán và yêu cầu học sinh giải bài toán đó.
Với dạng bài toán này thì giáo viên hướng dẫn học sinh cách giải như sau:
Tìm lời giải dựa vào câu hỏi: Cả hai bạn :…quả bóng? Thì giáo viên hướng
dẫn học sinh viết lại lời giải bằng nhiều cách khác nhau:
Cách 1: Cả hai bạn có là:
Cách 2 : Cả hai bạn có số quả bóng là:
Cách 3 : Số quả bóng của cả hai bạn là:
Cụ thể như sau:
Bài toán 1: Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Tóm tắt: (Trang 122- SGK)
An có
: 7 quả bóng
Bình có : 2 quả bóng
Cả hai bạn :….quả bóng?

Cách 1:
Bài giải:
Cả hai bạn có là :
7 + 2 = 9 (quả)
Đáp số : 9 quả bóng
Cách 2:

Bài giải:
Cả hai bạn có số quả bóng là :
12


7 + 2 = 9 (quả)
Đáp số : 9 quả bóng
Cách 3:

Bài giải:
Số quả bóng của cả hai bạn là :
7 + 2 = 9 (quả)
Đáp số : 9 quả bóng
Có thể nói khi hướng dẫn học sinh giải bài toán có lời văn thì sau khi cho học
sinh đọc đề, phân tích đề, xác định phép tính, giáo viên dạy cho các em mẹo để tìm
lời giải chính xác và nhanh nhất là:
Cách 1: Mức độ ban đầu với tất cả các bài toán thêm các em chỉ cần viết câu
lời giải là: Có tất cả là:
Cách 2 : Mức độ khó hơn một chút các em dựa vào phần câu hỏi để tìm lời
giải bằng cách: Bỏ từ “hỏi” và cụm từ “bao nhiêu” hoặc “mấy” và thêm “số” vào
trước các đơn vị sau đó thêm “là” sẽ được lời giải hoàn chỉnh. Với cách này tôi thấy
học sinh đều viết đúng được câu lời giải khoảng 90%.
Cách 3: Mức độ này phức tạp hơn cần tư duy của học sinh. Giáo viên hướng

dẫn học sinh viết lời giải bằng cách đảo từ: đảo từ “số + đơn vị ” lên đầu câu sau đó
viết lại lời giải.
Giải pháp 3: Nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh thông qua việc
lựa chọn sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học đạt hiệu quả.
Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: "Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực
tiễn". Đồ dùng thiết bị dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện hữu hình
cực kỳ cần thiết khi dạy:"Giải toán có lời văn" cho học sinh lớp Một. Cũng
trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt, dùng lời để
hướng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không hiệu quả và sẽ
khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ dùng thiết bị, tranh ảnh, vật thực để
minh hoạ. Chính vì vậy rất cần thiết phải sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học để
dạy học sinh "Giải bài toán có lời văn".
Ví dụ: Hàng trên có năm hình tam giác, hàng dưới có 3 hình tam giác. Hỏi
cả hai hàng có tất cả mấy hình tam giác?
Để giúp các em nắm và điền phép tính đúng bài này chúng ta sẽ yêu cầu
các em sử dụng đồ dùng để có thể nắm và làm được bài toán nhanh nhất.
* Bước 1 : Yêu cầu học sinh lấy trong bộ đồ dùng cá nhân (học sinh) 5
hình tam giác xếp thành 1 hàng.(Sau khi học sinh lấy xong giáo viên cũng lấy 5
hình tam giác gắn lên bảng lớp).
*Bước 2 : Yêu cầu học sinh lấy 3 hình tam giác nữa đặt lên bàn (và giáo
viên cũng làm tương tự).
*Bước 3 : Yêu cầu học sinh nêu xem mình có tất cả trên bàn bao nhiêu
hình tam giác.(giáo viên cần yêu cầu HS giải thích vì sao biết mình có 8 hình
tam giác để khắc sâu kiến thức thêm cho các em).
Như vậy với việc khai thác hiêụ quả bộ đồ dùng của giáo viên và học sinh
sẽ góp phần rất lớn vào hiệu quả của tiết dạy toán nói chung và của dạng toán
có lời văn nói riêng.
Giải pháp 4: Hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài toán và tìm cách giải.
13



* Quy trình "Giải bài toán có lời văn " thường qua 4 bước:
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm cách giải bài toán.
- Trình bày bài giải.
- Kiểm tra lại bài giải.
Bước 1: Đọc và tìm hiểu đề toán.
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu
tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ
chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như
"thêm, và, tất cả, cả hai” ... " hoặc "bớt, bay đi, còn lại, cho đi ..." (có thể kết
hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần
gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Giáo viên không nên gạch chân quá
nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi
gạch chân nên dùng phấn màu khác để gạch cho dễ nhìn.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các
em nhìn tranh và trả lời câu hỏi.Ví dụ, với bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (... có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? (... có 4 con vịt)
- Em có bài toán thế nào? (...)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở sách giáo khoa.
Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn
mẫu vật (gà, vịt, ...) bằng bảng từ để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời
hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
* Thường có 3 cách tóm tắt đề toán:
Cách 1:Tóm tắt bằng lời: Từ tóm tắt bài toán có sẵn học sinh nêu bài toán
bằng lời.
* Hà:
4 quyển

Lan:
3 quyển
Cả hai bạn có: ... quyển?
* Hà :
Lan:

4 quyển
3 quyển

? quyển

Cách 2: Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
Ví dụ: Đoạn thẳng AB dài 3cm, đoạn thẳng BC dài 5cm. Hỏi đoạn thẳng
AC dài bao nhiêu cm?
- Giáo viên nên tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
3 cm
5 cm
B
A
C

? cm

14


Cách 3: Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật: (Giáo viên dùng vật mẫu như hình con
bướm. Bông hoa, con gà, hình vuông, hình tam giác trong bộ đồ dùng để tóm
tắt)
Ví dụ:


Hàng trên:
? hình vuông
Hàng dưới:

Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu dễ tưởng tượng và dễ
sử dụng. Vì thế chúng ta cần lồng "nội dung câu lời giải" vào trong tóm tắt, để
dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải hơn.
Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa
vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình. Không nên
vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải,
phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần
bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35)
trẻ đọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu.
Bước 2: Tìm cách giải bài toán.
* Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái
phải tìm, chẳng hạn:
Bài toán: An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?
- Bài toán cho biết gì? (An có 4 quả bóng)
- Bài toán còn cho gì nữa? (Bình có 3 quả bóng)
- Bài toán hỏi gì? (Cả hai bạn có mấy quả bóng?)
Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra
kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác
nhận kết quả là đúng, song cần hỏi thêm: "Em tính thế nào?" (4 + 3= 7). Sau đó
nhấn mạnh: "Khi giải toán em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (ở đây
là 7). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán.
* Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn
học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) việc chọn phép
tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách
giải loại toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời giải, vì sao phải

viết câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1 hiểu một cách thấu
đáo nên có thể giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được cách làm. Có thể dùng
một trong các cách sau:
*Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối
(mấy quả bóng?) để có câu lời giải: "Cả hai bạn có tất cả:” hoặc thêm từ "là" để
có câu lời giải: "Cả hai bạn có tất cả là: "
*Cách 2 : Mức độ khó hơn một chút các em dựa vào phần câu hỏi để tìm lời
giải bằng cách: Bỏ tiếng “hỏi” và cụm từ “bao nhiêu” hoặc “mấy” và thêm “số” vào
trước các đơn vị sau đó thêm “là” sẽ được lời giải hoàn chỉnh: “Cả hai bạn có số quả
bóng là”
15


*Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu
lời giải rồi thêm thắt chút ít.
Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Cả hai bạn có.....quả bóng?". Học sinh
viết thêm từ “số” vào dấu 3 chấm, thêm từ “là” vào cuối câu hỏi sẽ viết được
câu lời giải: "Cả hai bạn có số quả bóng là:"
* Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: “cả hai bạn có mấy quả bóng?”
để học sinh trả lời miệng: “cả hai bạn có 7 quả bóng” rồi chèn phép tính vào để có cả
bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): cả hai bạn có số quả bóng là:
4 + 3 = 7 (quả bóng)
* Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 4 + 3 = 7 (quả bóng), giáo viên chỉ
vào 7 và hỏi: "7 quả bóng này là số bóng của ai?" (là số bóng của hai bạn An và
Bình).
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác
nhau, sau đó bàn bạc dể chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc trẻ nhất
nhất phải viết theo một kiểu.
Bước 3: Trình bày bài giải
Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy.

Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả
học sinh hoàn thành tốt. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài
giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng
con hay vở, giấy kiểm tra.
Bước 4: Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm
bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh
xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số
hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi sử dụng các giải pháp trên trong giải toán, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi
đã có tiến bộ rõ rệt, nhiều em biết làm toán giải hơn. Đặc biệt các em rất hứng thú trong
học tập, các em biết đưa ra nhiều lời giải cho một bài toán, biết trình bày bài một cách
khoa học hơn. Các em từng bước đã nắm vững các bước giải toán.
Để đánh giá sự tiến bộ của học sinh, tôi đã tiến hành khảo sát dạng bài: Giải
toán ở lớp kết quả như sau:
Các lần
khảo
sát

Cuối
năm

Lớp

Sĩ số

28
1B


Học sinh viết
đúng câu lời
giải

Học sinh viết
đúng phép
tính

Học sinh viết
đúng đáp số

Học sinh giải
đúng cả 3
bước

Số Tỷ lệ
Số Tỷ lệ
Số Tỷ lệ
Số Tỷ lệ
lượng %
lượng %
lượng %
lượng %
26

92,9

26


92,9

25

89.3

26

92,9

16


Từ bảng tổng hợp kết quả trên có thể nhận thấy tỷ lệ học sinh nắm được cách
giải đúng cả ba bước khá cao. Tức là các em đã biết và nắm vững cách viết câu lời
giải, viết phép tính đúng, biết ghi đáp số đúng đạt kết quả khá tốt. Khi áp dụng sáng
kiến vào giảng dạy giải toán có lời văn lớp 1 thì hầu hết học sinh nắm được kiến
thức và làm bài tập thành thạo giải toán có lời văn lớp 1. Số học sinh giải đúng cả 3
bước của bài toán giải có lời văn được nâng lên rõ rệt. Các em yêu thích hơn với
dạng toán giải có lời văn.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 1, tôi nhận thấy để có được thành
công và mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải thực
hiện tốt các nội dung sau:
- Giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề, nghiên cứu kĩ chương trình toán
lớp 1, đặc biệt là phần giải toán.
Đối với học sinh lớp 1, ghi nhớ của các em là ghi nhớ máy móc. Nên để các
em học tốt giải toán có lời văn, giáo viên cần chú ý:

- Lời nói phải ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu và phù hợp với đặc điểm của học sinh.
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, chuẩn bị đồ dùng cần thiết cho tiết dạy, lựa
chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp theo hướng lấy học sinh làm trung
tâm của mọi hoạt động, giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn. Tạo hứng thú cho
học sinh trong giờ học. Luôn tôn trọng ý kiến của học sinh, tuyên dương kịp thời
những học sinh hoàn thành tốt, động viên, khích lệ những học sinh còn hạn chế.
- Các bài toán dù đơn giản đến đâu cũng phải hướng dẫn thật kĩ lưỡng, thao tác
lặp đi lặp lại nhiều lần để học sinh nhớ.
- Xây dựng nề nếp học tập nghiêm túc, trật tự và tích cực ngay từ đầu năm học.
3. 2. Kiến nghị.
Qua quá trình thực hiện đề tài cũng như xuất phát từ thực tế dạy học môn Toán
tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Giáo viên trực tiếp giảng dạy trước khi lên lớp cần nghiên cứu kỹ bài dạy,
chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp và sử dụng triệt để đồ dùng dạy học.
17


Giáo viên phải thực sự quan tâm yêu thương, gần gũi học sinh, tạo không khí
vui tươi, phấn khởi trong các buổi học để giúp các em thích đi học và yêu thích môn
học.
Nhà trường cần bổ sung thêm tài liệu tham khảo, tranh ảnh minh họa cho môn
Toán để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn.
Các bậc phụ huynh cần quan tâm, dành nhiều thời gian kèm cặp con em luyện
tập thêm ở nhà, nhất là phần giải toán có lời văn.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân mà tôi đã vận dụng trong
quá trình giảng dạy giúp các em học sinh lớp 1 học tốt giải toán có lời văn. Mặc
dù đã cố gắng nhưng nhưng do thời gian và năng lực có hạn chắc chắn sẽ không
tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các đồng
nghiệp, chuyên môn nhà trường, các cấp lãnh đạo để việc nghiên cứu và áp dụng
trong những năm tiếp theo được hoàn thiện và đạt kết quả tốt hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
Quang Hiến, ngày 20 tháng 4 năm
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Nguyễn Thị Ngọc
Đỗ Thị Hạnh

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo viên Toán 1 NXB Giáo dục
2. Sách giáo khoa Toán 1 – Chủ biên Đỗ Đình Hoan, nhà xuất bản Giáo dục
3. Tài liệu BDTX TH Modul 16( Một số Kỹ thuật dạy học ở Tiểu học)

19


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đỗ Thị Hạnh
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường Tiểu học Quang Hiến

TT


1
2
3

Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 1 học tốt môn Đạo đức
Một số giải pháp rèn chữ viết
cho học sinh lớp 1 thông qua
môn Tập viết
Một số giải pháp nâng cáo chất
lượng giải toán cho sinh lớp 1

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp

Kết quả
đánh giá
xếp loại

huyện/tỉnh; Tỉnh...)

(A, B, hoặc C)

Cấp huyện
Cấp tỉnh
Cấp huyện


A
B
A

2011- 2012
2011-2012
2014-2015

Cấp tỉnh

B

2014-2015

Cấp huyện

A

2018-2019

Năm học
đánh giá
xếp loại

20


21




×