Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Giải pháp chỉ đạo giáo dục kỹ năng sống để phát huy tính mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp cho học sinh lớp 5 trường tiểu học văn nho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 27 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu

Trang
1
1
2
3
3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm

3
3

2.2. Thực trạng
2.3. Giải pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống để phát huy tính

4
5

mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp cho học sinh lớp 5 trường tiểu học
Văn Nho - Bá Thước”
2.4. Hiệu quả đạt được:
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ:


3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị, đề xuất:
Tài liệu tham khảo

16
17
17
19
21

1. MỞ ĐẦU:
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giao tiếp là một hoạt động thường xuyên, là kĩ năng sống vô cùng quan
trọng của mỗi con người. Mọi sự thành công, thất bại của con người đều xuất
0


phát từ giao tiếp. Kĩ năng giao tiếp được hình thành, phát triển trong quá trình
hoạt động hàng ngày của mỗi cá nhân do đó việc rèn kĩ năng giao tiếp phải được
thực hiện một cách đồng bộ trong các nhà trường mà nền tảng đầu tiên chính là
trường Mầm non, Tiểu học.
Hiện nay, nội dung giáo dục kĩ năng sống luôn được quan tâm, chú trọng
và đã được nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam chúng ta đã đưa
vào dạy học cho học sinh trong các nhà trường phổ thông. Đây cũng chính là
định hướng đổi mới giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các nội dung giáo
dục kĩ năng sống được thực hiện dạy học lồng ghép, tích hợp trong các môn học,
hoạt động ngoài giờ lên lớp với mục tiêu trước mắt là nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện cho học sinh và mục tiêu lâu dài góp phần đào tạo thế hệ trẻ, đáp
ứng nguồn nhân lực cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, hội nhập quốc tế.

Nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi
mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp
cận kĩ năng sống, đó là: học để biết, học để tự khẳng định mình và học để cùng
chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang
bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Đặc
biệt, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong những nội
dung cơ bản của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” trong các trường phổ thông.
Nhiều năm qua, Bộ GD&ĐT đã phát động phong trào này với yêu cầu
tăng cường sự tham gia một cách hứng thú của học sinh trong các hoạt động giáo
dục trong nhà trường và tại cộng đồng với thái độ tự giác, chủ động và ý thức sáng
tạo. Phong trào này được triển khai, hưởng ứng mạnh mẽ trong các cấp học và
hiện tại đã trở thành hoạt động thường niên của mỗi nhà trường nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục, chất lượng giáo dục đạo đức, kĩ năng sống cho học sinh,
đặc biệt là học sinh Tiểu học.
Nghị quyết 29- NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã chỉ rõ tầm quan
1


trọng của việc học đi đôi với hành nhằm định hướng học sinh phải biết vận dụng
từ lí thuyết vào hoạt động thực tiễn.
Là một trường nằm trong vùng dự án của Chương trình phát triển vùng Bá
Thước, trong những năm qua, được sự hỗ trợ tích cực của chương trình Vùng,
nhà trường đã tổ chức nhiều hoạt động thực tiễn nhằm giáo dục, hình thành, bồi
dưỡng, phát triển kĩ năng sống cho HS. Qua quá trình tổ chức hoạt động cho
thấy học sinh nhà trường còn nhiều hạn chế về kĩ năng giao tiếp, đặc biệt là sự
thiếu mạnh dạn, thiếu tự tin bộc lộ qua quá trình giao tiếp giữa thầy với trò, giữa
trò với trò. Do đó hiệu quả hoạt động chưa đem lại kết quả như mong muốn.

Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp chính là tạo cho các em sự
chủ động trong hoạt động, giải quyết các vấn đề một cách tự tin, thích ứng được
với các tình huống trong thực tiễn.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống, đặc biệt
là kĩ năng giao tiếp sau nhiều năm làm công tác quản lí tại nhà trường tôi luôn
trăn trở: Làm thế nào để học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp, đó là lí do tôi
chọn đề tài: “Giải pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống để phát huy tính mạnh
dạn, tự tin trong giao tiếp cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Văn Nho”.
1.2 . Mục đích nghiên cứu .
Với sáng kiến này tôi mong muốn các em học sinh nhà trường, học sinh
miền núi, học sinh dân tộc thiểu số nói chung, học sinh lớp 5 trường tiểu học
Văn Nho nói riêng luôn mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp để đem lại hiệu quả cao
trong mọi hoạt động.
- Giúp giáo viên nhà trường có một số kiến thức và kinh nghiệm trong giáo
dục kĩ năng sống nói chung, giáo dục kĩ năng giao tiếp mạnh dạn, tự tin cho học
sinh nói riêng.
- Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn và quản lí nhà
trường theo định hướng đổi mới giáo dục hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Các giải pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống để phát huy tính mạnh dạn,
tự tin trong giao tiếp cho học sinh lớp 5 ở trường tiểu học Văn Nho.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
2


- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: tôi đã tiến hành khảo sát bài tập
làm văn thuyết trình trước lớp cho học sinh lớp 5A trường Tiểu học Văn Nho.
- Phương pháp vấn đáp: Thông qua trao đổi bằng lời, vấn đáp trực tiếp đối
với giáo viên, phụ huynh về vấn đề nghiên cứu

- Phương pháp tổ chức các hoạt động thực tiễn: tổ chức cho học sinh trải
nghiệm các hoạt động thực tiễn trong và ngoài giờ học
- Phương pháp phân tích, xử lí số liệu: Sau khi có kết quả khảo sát, tôi tiến
hành phân tích tình hình thực tế để có biện pháp phù hợp.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm :
Kĩ năng sống cần cho suốt cả cuộc đời và luôn luôn được bổ sung, nâng
cấp để phù hợp với sự thay đổi, biến động của cuộc sống. Người trưởng thành
cũng vẫn cần học kĩ năng sống.
+ Giáo dục kĩ năng sống là trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị,
thái độ, kĩ năng phù hợp.
+ Hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực;
loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực.
+ Kĩ năng sống giúp học sinh có khả năng ứng phó phù hợp và linh hoạt
trong các tình huống của cuộc sống hàng ngày.
+ Kĩ năng sống giúp học sinh vận dụng tốt kiến thức đã học, làm tăng tính
thực hành.
+ Kĩ năng sống tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn
phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là nhằm giúp các em rèn luyện kĩ
năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; thói quen và kĩ năng làm việc theo
nhóm, kĩ năng hoạt động xã hội. Đối với học sinh Tiểu học việc hình thành các
kĩ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến
quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này. [1]
Trong giai đoạn hiện nay, thế hệ trẻ thường xuyên chịu tác động đan xen
các yếu tố tích cực và tiêu cực, luôn được đặt vào hoàn cảnh phải lựa chọn
những việc gì nên làm và không nên làm. Do đó, tùy theo từng cấp học, bậc học
3



các em học sinh trước khi ra trường cần được trang bị những kiến thức, hiểu biết
xã hội, những kĩ năng cần thiết để bước vào cuộc sống và trở thành công dân tốt
phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. [2]
Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng
giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của
mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ
bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập
của học sinh tại trường. [3]
Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh nói chung, học sinh lớp 5
nói riêng được thực hiện dạy lồng ghép trong các môn học và hoạt động ngoài
giờ lên lớp. Thông qua hoạt động giao tiếp, các kĩ năng của học sinh được bộc
lộ, hình thành, phát triển.
Để việc rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh đạt hiệu quả cao, giáo viên cần
thực hiện thông qua 4 bước: Giúp học sinh hiểu rõ những vấn đề căn bản trong
giao tiếp; tạo sự lôi cuốn đối với người đối diện; Sử dụng từ ngữ mềm dẻo và
linh hoạt; biến giọng nói thành một sức mạnh trong giao tiếp.
Đối với học sinh tiểu học( học sinh lớp 5) khi rèn kĩ năng giao tiếp cần tập
trung hình thành 7 kĩ năng cơ bản mà học sinh phải thực hiện hàng ngày phù hợp
lứa tuổi và môi trường giao tiếp đó là: Kĩ năng chào hỏi và tạm biệt, kĩ năng lắng
nghe, kĩ năng quan sát, kĩ năng kiểm soát cảm xúc, kĩ năng nói chuyện – diễn
đạt, kĩ năng đặt câu hỏi, kĩ năng mời hẹn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thực trạng công tác giáo dục Kĩ năng sống để phát triển tính mạnh
dạn, tự tin trong giao tiếp cho học sinh lớp 5 của giáo viên trường tiểu học
Văn Nho – Bá Thước:
- Một số giáo viên chưa quan tâm công tác giáo dục kĩ năng sống cho học
sinh do đó việc giảng dạy còn hời hợt, chưa đạt hiệu quả.
- Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh chưa linh hoạt, chưa đổi mới, thiếu tính sáng tạo.
- Trong quá trình rèn kĩ năng giao tiếp cho học sinh, giáo viên chỉ quan

tâm mức độ giao tiếp tối thiểu tức là giúp học sinh hiểu đúng nội dung giao tiếp
và sử dụng ngôn ngữ đúng, chưa biết tạo sự lôi cuốn đối với người đối diện, sử

4


dụng từ ngữ mềm dẻo và linh hoạt, biến giọng nói thành một sức mạnh trong
giao tiếp.
- Một bộ phận nhỏ giáo viên cho rằng học sinh chưa mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp là đặc điểm chung mang tính vùng miền của học sinh dân tộc
thiểu số, học sinh miền núi nên kĩ năng giao tiếp chưa mạnh dạn, tự tin là đương
nhiên. Đây là quan điểm sai lầm, cực đoan cản trở việc phát triển giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh.
2.2.2. Thực trạng về tính mạnh dạn, tự tin bộc lộ qua giao tiếp của học sinh
lớp 5 trường tiểu học Văn Nho.
- Ưu điểm: Một số các em đã có hành vi, thói quen, kĩ năng tốt về phát
triển bản thân, quan hệ bạn bè, ứng xử trong gia đình, ứng xử trong nhà trường,
có nhận xét, đánh giá về đúng sự việc. Một số học sinh biết chào hỏi và tạm biệt,
Kĩ năng lắng nghe, Kĩ năng quan sát, Kĩ năng kiểm soát cảm xúc, Kĩ năng nói
chuyện – diễn đạt, Kĩ năng đặt câu hỏi, Kĩ năng mời hẹn khá tốt.
- Hạn chế: Phần lớn học sinh việc thể hiện kĩ năng còn hạn chế, các em
chưa mạnh dạn, tự tin thể hiện bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết; khả
năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế đặc biệt là kĩ năng giao tiếp, tự bộc lộ bản
thân vô cùng yếu. Nhiều em rụt rè, nhút nhát, không dám bày tỏ ý kiến, thái độ
của mình trước một sự việc; nhất là trong hoạt động chung.
- Kết quả khảo sát trắc nghiệm khách quan về kĩ năng thuyết trình thông
qua môn Tập làm văn về nội dung tập làm báo cáo thống kê như sau:

Lớp


Số

Thể hiện thái độ

Thể hiện thái độ mất

HS Thời gian

bình tĩnh, tự tin,

bình tĩnh, thiếu tự tin

mạnh dạn
SL
TL(%)

5A

SL

TL(%)

Lớp
đối

30

Đầu năm học

9 em


30

21em

70

chứng
5B

31

Đầu năm học

8 em

25,8

23 em

74,2
5


Lớp
thực
nghiệm
- Đánh giá chung về thực trạng: Một số giáo viên và cả phụ huynh nhận
thức về vấn đề giáo dục kĩ năng sống chưa đầy đủ. Giáo viên còn coi giáo dục
kĩ năng sống chỉ là hoạt động bổ trợ, việc dạy kĩ năng sống chỉ là lồng ghép

không phải là hoạt động chính nên chất lượng giáo dục kĩ năng sống chưa đạt
hiệu quả cao. Kĩ năng giao tiếp của học sinh còn nhiều hạn chế, nhiều học sinh
chưa có thái độ thân mật khi giao tiếp, thiếu bình tĩnh, tự tin trong giao tiếp.
Để cải thiện thực trạng trên tôi xin trình bày các giải pháp thực hiện của
mình như sau:
2.3. Giải pháp chỉ đạo giáo dục kĩ năng sống để phát huy tính mạnh dạn, tự
tin trong giao tiếp cho học sinh lớp 5 trường tiểu học Văn Nho - Bá Thước”
2.3.1. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho giáo viên và phụ huynh học
sinh về việc giáo dục kĩ năng sống để phát triển tính mạnh dạn, tự tin trong
giao tiếp cho học sinh.
Ngay từ đầu năm học, tôi triển khai cho giáo viên học tập nghiên cứu
chuyên đề rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, để giáo viên nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh; qua đó giúp giáo viên
hiểu chương trình học chính khoá thường cho học sinh tiếp xúc từ từ với các
kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế học sinh sẽ học tốt nhất khi có
được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kĩ năng nhận
thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi học sinh tiếp thu được những kĩ năng giao
tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng
sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất.
Tuyên truyền thông qua các hội nghị của địa phương, hội nghị phụ huynh
đầu năm học để giáo viên và phụ huynh, nhân dân xác định rõ trách nhiệm của
gia đình và nhà trường, xã hội. Từ đó, phụ huynh và giáo viên, các lực lượng
trong xã có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ hơn trong công tác giáo dục kĩ
năng sống, trong đó giáo viên nhà trường giữ vai trò là lực lượng nòng cốt.
6


Thường xuyên đổi mới về nội dung, đa dạng về hình thức tuyên truyền
nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong phụ huynh, làm động lực
để đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục và tham gia trong quá trình xây dựng

giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Các giải pháp mới trong tuyên truyền là tổ
chức hội thi, hoạt động trải nhiệm thực tiễn, tuyên truyền qua Facebook, sử dụng
thông điệp tuyên truyền, tranh áp phích, tờ rơi...
Phối hợp với Chương trình phát triển vùng Bá Thước tổ chức lấy phiếu
thăm dò ý kiến phụ huynh về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để họ có dịp
bày tỏ quan điểm đồng thời qua kênh này lan tỏa trong phụ huynh về tính cấp
thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho các em. Tổ chức tuyên truyền thông qua
các hội thi với hình thức sân khấu hóa để học sinh thể hiện sự mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp.
2.3.2. Chỉ đạo giáo viên xác định những kĩ năng sống cơ bản và phân loại,
lựa chọn kĩ năng mấu chốt để giáo dục cho học sinh- tính mạnh dạn, tự tin.
Đối với tâm sinh lý trẻ em bậc tiểu học thì có nhiều kĩ năng sống quan
trọng mà học sinh cần phải biết như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập,
tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp,… Việc xác định được các kĩ năng cơ bản
phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm
để dạy trẻ. Dựa vào các lĩnh vực tâm lí tôi đã yêu cầu giáo viên phân loại các
nhóm kĩ năng sống chính cần giáo dục cho học sinh lớp 5 ở trường Tiểu học Văn
Nho như sau:
- Kĩ năng giao tiếp: Rèn cho học sinh các kỹ năng giao tiếp thông
thường; thuyết trình, hùng biện và tự tin nói trước đám đông; kỹ năng phản hồi
và thể hiện cảm xúc; kỹ năng làm việc nhóm…
- Kĩ năng xử lý một số tình huống thường gặp trong cuộc sống: Rèn
cho học sinh kĩ năng xử lý một số tình huống thường gặp trong cuộc sống: Như
sơ cấp cứu ban đầu; kĩ năng xử lý đuối nước; kĩ năng thoát hiểm khi có hỏa
hoạn, động đất; kĩ năng tham gia giao thông an toàn; phòng tránh tệ nạn bắt cóc
trẻ em...
- Kĩ năng nhận thức: Kĩ năng ra quyết định, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ
năng giải quyết vấn đề, kĩ năng tư duy tích cực, kĩ năng tư duy có phê phán…
7



Trong mỗi nhóm kĩ năng trên có rất nhiều kĩ năng cụ thể. Mục tiêu đặt ra
của tôi trong giải pháp này là giúp giáo viên hiểu sâu sắc về bản chất của các kĩ
năng sống cần rèn luyện cho học sinh, đặc biệt là tính mạnh dạn, tự tin trong kĩ
năng giao tiếp. Bởi khi đã rèn luyện được kĩ năng này thì học sinh sẽ có nền tảng
để rèn luyện các kĩ năng khác một cách dễ dàng hơn.
2.3.3. Giáo dục tính mạnh dạn, tự tin cho học sinh bằng các phương phápkĩ thuật dạy học tích cực:
Sử dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực chính là thực hiện đổi mới
phương pháp, hình thức tổ chức dạy học. Trong quá trình chỉ đạo dạy học các
môn học và tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tôi yêu cầu giáo viên nhà
trường tăng cường các phương pháp dạy học và kĩ thuật dạy học tích cực sau :
- Phương pháp – hình thức tổ chức dạy học tích cực: Dạy theo nhóm;
sử dụng phương pháp động não; phương pháp giải quyết vấn đề; phương pháp
nghiên cứu trường hợp điển hình; phương pháp đóng vai; phương pháp trò chơi,
hình thức dạy cá nhân, dạy ngoài trời, dạy thông qua hoạt động trải nghiệm thực
tiễn...
Đối với trường Tiểu học Văn Nho, phương pháp được giáo viên sử dụng
thường xuyên, hiệu quả là phương pháp đóng vai, phương pháp trò chơi phóng
viên. Các phương pháp này phát huy tính mạnh dạn, tự tin của các em rất cao.
Sau mỗi lần được tham gia đóng vai, đặc biệt vai phóng viên các em sẽ nhanh
nhẹn, hoạt bát hơn nhiều. Khi sử dụng các phương pháp này cần chỉ đạo giáo
viên luân phiên các vai để tất cả các học sinh đều được trải nghiệm, được phát
huy mặt mạnh, khắc phục điểm yếu, tạo cho các em có “ Bản lĩnh cao” trong
giao tiếp.
Hình thức dạy học theo nhóm cũng là thế mạnh vô cùng hiệu quả của giáo
viên nhà trường. Hình thức này phát huy tối đa sự tự giác, chủ động, tích cực và
hợp tác của các thành viên trong nhóm. Khi trình bày trong nhóm hoặc trước
lớp, các em sẽ bình tĩnh, không e ngại, rèn luyện được tính mạnh dạn, tự tin
trong giao tiếp. Đây cũng là hình thức khuyến khích, nâng cao năng lực, tinh
thần, thái độ học tập cho học sinh.

8


- Một số kĩ thuật dạy học tích cực: Được sự hỗ trợ tích cực của các
chuyên gia dự án, tạo sự đổi mới trong dạy học và giáo dục kĩ năng sống tôi chỉ
đạo giáo viên sử dụng các kĩ thuật dạy học như: Kĩ thuật chia nhóm; Giao nhiệm
vụ; Kĩ thuật đặt câu hỏi; Các mảnh ghép, Kĩ thuật khăn trải bàn; Động não; Kĩ
thuật trình bày 1 phút; Hỏi và trả lời; Hỏi chuyên gia; Kĩ thuật bản đồ tư duy;
Viết tích cực; Đọc hợp tác (còn gọi là đọc tích cực); Nói cách khác; Phân tích
phim; Tóm tắt nội dung tài liệu theo nhóm,... Các kĩ thuật dạy học trên giúp học
sinh được rèn kĩ năng giao tiếp, từ đó học sinh trở nên mạnh dạn, tự tin hơn.
- Để việc giáo dục kĩ năng sống đạt hiệu quả, vận dụng quy trình đã được
tập huấn từ các chuyên gia dự án Vùng, tôi chỉ đạo giáo viên nhà trường thực
hiện bài giảng theo 4 bước (giai đoạn): Khám phá, Kết nối, Thực hành, luyện
tập, Vận dụng. Khuyến khích giáo viên sử dụng các tài liệu bổ trợ đã được, sử
dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học để các em
chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu
không khí cởi mở thân thiện của lớp, của trường. Chỉ đạo giáo viên trong giờ
học phải tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước
tập thể, nhất là những em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém. Qua đó góp
phần tích lũy, rèn luyện tính mạnh dạn, tự tin cho các em. Tạo sự gần gũi và tạo
mối thân thiện đối với học sinh.
2.3.4.Giáo dục tính mạnh dạn, tự tin tích hợp lồng ghép vào các môn học.
Thực hiện các văn bản chỉ đạo của Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục và của
ngành về nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống. Để giáo dục tính mạnh dạn, tự tin cho
học sinh có hiệu quả, tôi chỉ đạo giáo viên nhà trường vận dụng lồng ghép, tích
hợp vào tất cả các môn học, tiết học, nhất là các môn: Tiếng Việt; Đạo đức; Toán
.... để các em được làm để học, được trải nghiệm như trong cuộc sống thực.
Để việc giáo dục lồng ghép này đạt hiệu quả thì tôi yêu cầu giáo viên hiểu
rõ và thực hiện các công việc sau:

Một là: GV cần phân biệt được sự khác nhau giữa dạy các môn học
với giáo dục kĩ năng sống:
Đối với môn đạo đức: Chương trình giáo dục môn Đạo đức ở cấp tiểu
học có một số nội dung trùng hợp với nội dung của giáo dục kĩ năng sống. Tuy
9


nhiên, mục đích và phương pháp dạy các môn này không giống nhau hoàn toàn.
Chẳng hạn như: Trong chương trình môn Đạo đức lớp 5 tuần 9 có bài:
“ Tình bạn”. Mục tiêu của của môn đạo đức là:
- Học sinh biết được khái niệm thế nào là tình bạn;
- Bạn bè phải đoàn kết, thân ái, giúp đỡ lẫn nhau, nhất là những lúc khó
khăn, hoạn nạn.
- Biết được ý nghĩa của tình bạn, cư xử tốt với bạn bè trong cuộc sống
hàng ngày.
Tuy nhiên trong việc dạy kĩ năng sống thì giáo viên cần dạy cho học sinh
các kĩ năng sau:
- Kĩ năng tư duy phê phán (biết phê phán, đánh giá những quan niệm sai,
những hành vi ứng xử không phù hợp với bạn bè).
- Kĩ năng ra quyết định phù hợp trong các tình huống có liên quan tới bạn
bè.
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với bạn bè trong học tập, vui chơi và trong
cuộc sống. Kĩ năng thể hiện sự cảm thông chia sẻ với bạn bè.
Đây là sự khác biệt cơ bản của việc giáo dục kĩ năng sống với các môn
học khác (như môn Đạo đức).
Như vậy: từ sự so sánh trên giáo viên cần hiểu dạy các môn học phải thực
hiện song hành từ cung cấp kiến thức đến kĩ năng, thái độ hành vi còn việc giáo
dục kĩ năng sống chủ yếu là rèn kĩ năng thông qua hoạt động thực tiễn để tích
lũy kinh nghiệm.
Hai là: Giáo viên phải nắm được Mục tiêu giáo dục kĩ năng sống

trong môn Đạo đức ở tiểu học nói chung, ở các môn học khác trong chương
trình lớp 5 nói riêng.
+ Đối với môn Đạo đức : Giáo dục cho học sinh bước đầu biết sống và ứng
xử phù hợp với các chuẩn mực biến nhận thức thành hành vi chuẩn mực thể hiện
thông qua kĩ năng sống.
MỤC TIÊU GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA MÔN ĐẠO ĐỨC
Con ngoan

Trò giỏi

Công dân
tốt
10


- Bước đầu trang bị cho học sinh các kĩ năng sống cần thiết, phù hợp với
lứa tuổi.
- Hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực;
loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực.
-Phát triển khả năng tư duy và sáng tạo của học sinh.
- Rèn cho học sinh biết cách tự phục vụ bản thân và vệ sinh cá nhân, giữ
gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ môi trường.
- Rèn cho học sinh biết cách giao tiếp và ứng xử phù hợp và linh hoạt
trong cuộc sống hằng ngày.
- Hướng dẫn học sinh biết cách phối hợp công việc của từng cá nhân khi
làm việc tập thể.
- Biết sống tích cực, chủ động.
- Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình
và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Thông qua môn Đạo đức, kiến thức được hình thành trên cơ sở từ việc

quan sát tranh, từ một truyện kể, một việc làm, một hành vi, chuẩn mực nào đó,
sau đó rút ra bài học. Từ bài học đó các em liên hệ thực tế xung quanh, bản thân,
gia đình và xã hội và môi trường tự nhiên. Chỉ khác hơn là giáo viên cố gắng
trong phạm vi có thể khi soạn và giảng từng phần của bài học phải tạo một điểm
nhấn cụ thể, rõ ràng, nhằm khắc sâu những kĩ năng sống đã có sẵn trong từng bài
học và những kĩ năng sống chúng ta lồng ghép trong quá trình soạn giảng.
+ Đối với môn Tiếng Việt: Môn Tiếng Việt là một trong những môn học ở
cấp tiểu học đặt ra mục tiêu và khả năng giáo dục kĩ năng sống khá cao, bởi vì:
- Số lượng phân môn nhiều
- Thời gian dành cho môn học chiếm tỉ lệ cao.
- Hầu hết các bài học đều có thể tích hợp giáo dục kĩ năng giao tiếp cho
học sinh ở những mức độ nhất định. Đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết
thư; Giới thiệu địa phương; Kể chuyện được chứng kiến hoặc tham gia, thuyết
trình tranh luận... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp. Bản thân giáo
viên chỉ gợi mở sau đó cho các em tự nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò
11


bó áp đặt.
Đặc biệt; trong phân môn Kể chuyện và Tập đọc, việc rèn cho học sinh
tính mạnh dạn, tự tin rất nhiều. Thông qua việc học kể một câu chuyện trước
lớp; học sinh phải nắm được nội dung câu chuyện, cách kể để biểu lộ được cảm
xúc, tạo sự hấp dẫn cho người nghe; có như vậy thì học sinh mới thể hiện câu
chuyện một cách tự nhiên, có hiệu quả được.
Hoặc đối với phân môn Tập đọc; khi học sinh được luyện đọc hay, đọc
diễn cảm, trước lớp thì các em cũng sẽ thường xuyên thích đọc, thích được thể
hiện trước bạn bè và thầy cô.
+ Đối với môn Âm nhạc: Là môn học có đặc thù riêng, có nhiều điều
kiện thuận lợi để rèn luyện tính mạnh dạn, tự tin cho các em. Cần chỉ đạo giáo
viên sử dụng các học sinh có năng khiếu làm gương cho các bạn còn hay thẹn

thùng, e dè. Thường xuyên động viên, tạo cơ hội để cả lớp được phát huy tinh
thần học tập tích cực, sôi nổi, sự thoải mái, tự tin khi thực hành ở từng tiết học.
+ Đối với các môn học còn lại: Môn học nào cũng liên quan đến giao
tiếp. Giáo viên phải chủ động tạo tình huống để rèn kĩ năng cho học sinh.
Ba là: Giáo viên phải nắm được các nội dung cụ thể liên quan đến giáo
dục kĩ năng sống, tính mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp xuất hiện ở môn Đạo
đức ở lớp 5.
Là một môn học được dạy từ lớp 1 đến lớp 5 ở trường tiểu học. Môn đạo
đức nhằm giáo dục học sinh bước đầu biết cách sống và ứng xử phù hợp với các
chuẩn mực xã hội. Dạy học môn Đạo đức kết hợp hài hoà giữa việc trang bị kiến
thức với bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và hình thành kĩ năng , hành vi cho học sinh.
Bản thân môn đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến các kĩ
năng như:
- Kĩ năng giao tiếp, ứng xử ( với ông bà, cha mẹ, anh chị em, bạn bè, thầy
cô giáo và mọi người xung quanh)
- Kĩ năng bày tỏ ý kiến của bản thân
- Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp với lứa tuổi
( Trong các tình huống đạo đức ở gia đình, nhà trường và xã hội)
- Kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân
12


- Kĩ năng tự phục vụ
- Kĩ năng thu thập và xử lí thông tin về các vấn đề trong thực tiễn đời sống
ở gia đình, nhà trường, cộng đồng có liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo
đức,...
Khả năng giáo dục kĩ năng sống của môn đạo đức không những thể hiện ở
nội dung môn học mà còn được thể hiện ở phương pháp dạy học đặc trưng của
môn học. Thông qua các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực như: Chơi trò
chơi, đóng tiểu phẩm, múa hát, đọc thơ, vẽ tranh, hoạt động nhóm, ... ...đã tạo

được cho học sinh có cơ hội để thực hành, trải nghiệm nhiều kĩ năng sống cần
thiết, phù hợp với lứa tuổi.
Cần làm cho giáo viên hiểu rõ: Đạo đức là môn học có tiềm năng to lớn
trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
2.3.5 . Giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá phân loại
hạnh kiểm của học sinh theo thông tư 22; rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh bằng chính cái tâm của người thầy.
Căn cứ vào việc thực hiện các nhiệm vụ của học sinh, rèn cho học sinh
khả năng tự học, tự chăm sóc bản thân, biết lễ phép, hiếu thảo,…học sinh tự
đánh giá bản thân cũng như tạo cơ hội, điều kiện để các em được nhìn nhận,
đánh giá bạn một cách khách quan. Giáo viên chủ nhiệm sẽ là người theo dõi sự
đánh giá lẫn nhau của học sinh. Sau khi có được kết quả từ phía học sinh, cộng
với sự đánh giá của bản thân; giáo viên phân loại hạnh kiểm của học sinh một
cách chuẩn xác, từ đó giúp các em biết phát huy thế mạnh và khắc phục tồn tại
để ngày càng tiến bộ.
Tăng cường động viên, khích lệ học sinh dù là tiến bộ nhỏ nhất:
Ông cha ta đã nói: “ Một miếng giữa đàng, bằng một sàng xó bếp”. Câu
nói đó thật có lí, có tình, phản ánh đúng tâm lí con người. Hơn nữa đối với
những học sinh còn rụt rè, nhút nhát lại càng cần được động viên, khích lệ kịp
thời. Điều này vô cùng quan trọng, nếu giáo viên biết để ý đến dù là những tiến
bộ rất nhỏ của học sinh. Nó sẽ có hiệu ứng tức thời do tâm lí học sinh Tiểu học
thích được khen. Tuy nhiên, giáo viên cũng phải có lời khen hợp lí theo từng
13


hoàn cảnh, tránh lạm dụng kẻo vô hình dung lại ảnh hưởng đến mục đích khen
của mình.
Giáo viên phải thực sự có tâm, xem học sinh như con của mình để có sự
gần gũi, thấu hiểu, thông cảm với học sinh trong từng trường hợp cụ thể. Có như
vậy thì học sinh cũng mới thực sự gửi gắm niềm tin vào thầy cô và các em sẵn

lòng bộc bạch những điều cần thổ lộ. Từ đó những tình huống dù khó đến mấy
cũng dễ dàng được tháo gỡ và đây cũng chính là tạo điều kiện để học sinh mạnh
dạn bày tỏ những điều mình muốn nói.
2.3.6. Giáo dục tính mạnh dạn, tự tin cho học sinh thông qua việc tổ chức
các hoạt động tập thể và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Chỉ đạo đoàn đội tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết
thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh.
- Phối hợp các đoàn thể trong nhà trường, tổ khối, tổ chức tốt hoạt động
ngoại khóa. Tham quan các di tích lịch sử ở địa phương như: Miếu thờ Hà Văn
Nho, viếng nghĩa trang liệt sĩ Đồng Tâm,... Khi tổ chức cho các em đi tham quan,
ngoài việc đi theo tập thể lớp, phân theo nhóm học sinh khoảng 5- 6 em để các em
có thể, quan tâm, hợp tác, quán xuyến lẫn nhau khi đến những nơi đông người.
Ngoài ra, cần nhắc nhở các em mang theo một quyển sổ nhỏ, bút viết để có thể ghi
chép những gì mà các em thu thập được qua chuyến tham quan. Sau đó tổ chức cho
các em trình bày cảm nghĩ, những cảm nhận của bản thân sau chuyến tham quan,
trải nghiệm để các em tăng cường được rèn kĩ năng thuyết trình trước đám đông.
- Chỉ đạo tổng phụ trách tổ chức các cuộc thi trò chơi dân gian, các hoạt
động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
- Duy trì sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm để học sinh được học,
được hơi như: Chủ đề Ngày rằm trung thu (Tháng 8), an toàn giao thông (Tháng
9),Chào mừng ngày 20/11(Tháng 11), tiếp bước cha anh (Tháng 12), Ngày tết
quê em (Tháng 1), Việt Nam Tổ quốc em (Tháng 2), …bằng các hình thức như
thi Rung chuông vàng, Đối mặt, hái hoa dân chủ; ...
- Phối hợp với Chương trình phát triển vùng tổ chức các cuộc thi về an
toàn trường học nhằm phát huy kĩ năng giao tiếp cho học sinh tại trường.
14


Thông qua các hoạt động này, các em được trải nghiệm thực tế rất nhiều.
Chính vì vậy các em phát triển được nhiều kĩ năng như; mạnh dạn, tự tin, tự

khám phá, kĩ năng tự bảo vệ, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng thích tò
mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: ….
- Ngoài ra, trong các tiết hoạt động tập thể, chúng ta cần tổ chức cho học
sinh đọc và thi đọc sách tại phòng thư viện nhà trường. Thông qua đó rèn luyện
cho học sinh kĩ năng đọc hiểu, khám phá, tư duy và tăng thêm sự hiểu biết,…Từ
đó giáo dục cho các em tình yêu quê hương đất nước, sự cảm thông, ….
2.3.7. Giáo viên phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công
Với biện pháp này, tôi yêu cầu giáo viên thực hiện được những việc như
sau:
- Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt Chi đội.
Trong những tiết học này, giáo viên nên để cho học sinh tự đánh giá, sau
đó đến tổ trưởng, các trưởng ban, Chủ tịch Hội đồng tự quản của lớp,... với
cách làm như vậy, các em mạnh dạn bộc lộ mình, tự tin khi đứng trước tập thể,
biết tự đánh giá tổ, cá nhân, ….đồng thời nâng cao tính trung thực, thẳng thắn
mà chân thành cho học sinh.
- Trong từng giờ lên lớp và cuộc sống, cô giáo phải là tấm gương sáng về
đạo đức, nhất là tấm gương về các ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và
việc làm.
- Ngoài ra, cần phối hợp nhà trường, với gia đình, các tổ chức xã hội trong
và ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục kĩ năng sống cho các em.
Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của các em, trao
đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục các em tại
nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
2.3.8 . Giáo viên cần cụ thể hóa nội dung của những kĩ năng cơ bản cần
giáo dục cho học sinh
- Kĩ năng sống tự tin : Một trong những kĩ năng đầu tiên mà giáo viên
cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm
nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những
15





×