Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học đông xuân, đông sơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.69 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

3

1.3. Đối tượng nghiên cứu

3

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.2. Thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân
môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học

4



2.2.1. Thực trạng chung

4

2.2.2. Thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường TH Đông Xuân - Đông Sơn

4

2.3. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học
Đông Xuân – Đông Sơn

6

2.3.1. Biệp pháp 1

6

2.3.2. Biệp pháp 2

6

2.3.3. Biệp pháp 3

9

2.3.4. Biệp pháp 4


13

2.3.5. Biệp pháp 5

16

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

18

3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận

19

3.2. Kiến nghị

20

Tài liệu tham khảo

21
1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội loài người, cuộc
cách mạng khoa học công nghệ như một luồng gió mới thổi vào và làm lay động
nhiều lĩnh vực trong cuộc sống.

Để theo kịp sự phát triển của xã hội và cung cấp cho học sinh những kiến
thức mới nhất, đầy đủ nhất trong một thời gian có hạn, việc đổi mới phương pháp
dạy học luôn là vấn đề bức xúc được nhiều người quan tâm. Thực tế cho thấy việc
dạy học nói chung và dạy học ở tiểu học nói riêng đã có sự đổi mới nhiều về
phương pháp. Những phương pháp dạy học kích thích sự tìm tòi, đòi hỏi sự tư duy
của học sinh được đặc biệt chú ý. Song để cho giờ học thực sự đổi mới, việc sử
dụng đồ dùng trực quan trong dạy học là hết sức cần thiết. Trong quá trình đổi mới
phương pháp dạy học việc sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những điều kiện
cơ bản không thể thiếu để giáo viên và học sinh thực hiện mục tiêu dạy học.
Bởi vì, như chúng ta biết con đường nhận thức ngắn nhất của học sinh nói
chung và học sinh Tiểu học nói riêng sẽ là con đường “Đi từ trực quan sinh động
đến tư duy trừu tượng” và phương tiện hết sức cần thiết để đi được trên “Con
đường” nhận thức này chính là đồ dùng trực quan.
Đặc biệt trong hướng dạy học mới hiện nay, “Hướng tích cực hoá hoạt động
học tập của học sinh”, yêu cầu người giáo viên phải biết tạo điều kiện cho học sinh
tự tìm tòi, khai thác kiến thức, biết điều khiển hoạt động nhận thức của mình bằng đồ
dùng trực quan, chính vì thế mà đồ dùng trực quan đã trở thành một nhân tố khá
quan trọng trong hoạt động dạy học, vì nó vừa là phương tiện giúp học sinh khai thác
kiến thức, vừa là nguồn tri thức đa dạng, phong phú mà học sinh rất dễ nắm bắt.
Hơn nữa đồ dùng trực quan tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động các
giác quan, các năng lực hoạt động nhận thức tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng
tự tìm tòi, kích thích khả năng khám phá, rèn luyện kĩ năng học tập và thực hành
của các em.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu
những hình ảnh, kiến thức nói chung và kiến thức lịch sử nói riêng.
Cùng với việc tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử, đồ dùng trực quan
còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy ngôn ngữ và khả năng
thực hành của học sinh. Đồ dùng trực quan góp phần quan trọng vào việc giúp học
sinh tái tạo hình ảnh chân thực của quá khứ, là cơ sở tạo biểu tượng lịch sử, khắc
phục tình trạng “hiện đại hóa” lịch sử. Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu

sắc bản chất của sự kiện lịch sử, nắm vững các quy luật phát triển của xã hội. Cùng
với việc trình bày miệng, các phương tiện trực quan góp phần giáo dục tư tưởng,
tình cảm cho học sinh. Vì vậy, việc cho các em quan sát đồ dùng trực quan rồi từ
đó các em rút ra những nhận xét, tiếp thu tri thức, bồi dưỡng, rèn luyện về học tập
là con đường phát triển tối ưu của giáo dục.
2


Song trong những năm gần đây cả xã hội nói chung và ngành giáo dục nói
riêng đang báo động về vấn đề trình độ yếu kém môn Lịch sử của học sinh nước ta.
Đặc biệt là học sinh nói chung và học sinh Tiểu học nói riêng, không thích học
phân môn Lịch sử thể hiện sự hiểu biết một cách mơ hồ về lịch sử nước nhà.
Những nhầm lẫn ngớ ngẩn không thể chấp nhận.
Nhận thức được điều này, là một cán bộ quản lý ở trường Tiểu học, tôi đã
băn khoăn trăn trở và tìm tòi được "Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu
quả sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 ở
trường Tiểu học Đông Xuân, huyện Đông Sơn" với mục đích cải tiến và nâng
cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử, phục vụ tốt hơn cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo ra đội ngũ con người phát triển toàn diện, chính
vì lẽ đó mà tôi phải tìm hiểu: “Biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả sử dụng sử
dụng đồ dùng trực quan vào dạy phân môn Lịch sử lớp 5 ở Tiểu học”. Trên cơ
sở thực tế nghiên cứu, đề ra một số phương pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích
cực, chủ động học tập phân môn Lịch sử cho các em để tìm ra những ưu điểm và
hạn chế của việc học tập phân môn, thái độ của từng học sinh đối với môn học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan trong
dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 trường Tiểu học Đông Xuân, huyện Đông Sơn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.

- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp điều tra viết.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phỏng vấn một số giáo viên có kinh nghiệm đã làm tốt công tác này.
- Phương pháp xử lí số liệu, thống kê.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong thời đại ngày nay, khoa học kĩ thuật phát triển với tốc độ nhanh, thông
tin khoa học ngày càng nhiều song thời gian dành cho mỗi tiết học trong trường phổ
thông không thay đổi. Đứng trước sự phát triển đó đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào
tạo phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm mục đích đào tạo con người mới, năng
động sáng tạo, những chủ nhân khoa học tương lai của đất nước, phù hợp xu thế phát
triển đi lên của đất nước. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ
dùng dạy học là một trong những điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học
sinh thực hiện mục tiêu dạy học. Hơn nữa thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực
tiếp cho học sinh huy động mọi năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn,
nâng cao khả năng tự học, rèn luyện kĩ năng học tập và thực hành.
3


"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng
lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”. [3]
Để thực hiện được mục tiêu trên, thì sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học là không
thể thiếu được. Đối với học sinh tiểu học, thiết bị dạy học lại càng đặc biệt quan
trọng vì nó giúp các em quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học
sinh nhận thức sâu hơn nội dung bài học, hình thành tốt kĩ năng kĩ xảo.

Trong dạy học lịch sử, đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu về bản chất
của các sự kiện lịch sử, là phương tiện rất quan trọng để hình thành các khái niệm
lịch sử, giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội. Nó có vai
trò rất quan trọng trong việc giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu sâu những hình ảnh, những
kiến thức lịch sử, học sinh chỉ có thể dựa vào hình ảnh tái tạo của các sự kiện đó
qua một bức tranh, qua một hiện vật, qua phim ảnh, qua hệ thống ngôn ngữ giàu
hình ảnh…
Vì vậy trong năm qua, với cương vị phó Hiệu trưởng của trường, tôi thấy được
việc sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết học nói chung và trong dạy học phân
môn Lịch sử trường Tiểu học là rất quan trọng và xem đó là một trong những hoạt
động chuyên môn. Kết quả khích lệ học sinh hăng hái học tập, năng nổ hơn trong
hoạt động xã hội, vui vẻ ham học góp phần đưa chất lượng giáo dục toàn diện,
không khí học tập của học sinh toàn trường thân thiện, tích cực. Chính vì thế mà tôi
đã đúc rút được một số kinh nghiệm về nội dung "Một số biện pháp chỉ đạo nâng
cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 5
ở trường Tiểu học Đông Xuân, huyện Đông Sơn".
2.2. Thực trạng việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học phân môn
Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học
2.2.1. Thực trạng chung
Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Yêu cầu phân môn đòi hỏi học sinh
phải tái hiện những sự kiện, hiện tượng đó một cách sống động như đang diễn ra
trước mắt. Bên cạnh đó, khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn hạn chế nên
việc sử dụng phương tiện trực quan để giúp học sinh tái hiện những sự kiện, hiện
tượng là một nguyên tắc trong dạy học lịch sử. Trong khi đó, các phương tiện trực
quan phục vụ dạy học lịch sử hiện nay còn nhiều hạn chế, vừa thiếu lại vừa không
phù hợp, hệ thống bản đồ và tranh ảnh lịch sử trong danh mục đồ dùng do Bộ giáo
dục phát hành là không đủ cho các bài dạy.
2.2.2. Thực trạng của việc sử dụng trực quan trong dạy học phân môn
Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Đông Xuân, huyện Đông Sơn
Cũng như thực trạng chung, trong quá trình giảng dạy giáo viên đã sử dụng

các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy
học như: tranh ảnh, bản đồ, lược đồ sách giáo khoa, hiện vật, phim, đèn chiếu,…
từng bước ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử.
4


Đa số học sinh chú ý nghe giảng, tập trung tìm hiểu, suy nghĩ trả lời các câu
hỏi mà giáo viên đặt ra theo sự chuẩn bị bài mới ở nhà, trả lời câu hỏi ở cuối mục
trong bài, quan sát tranh ảnh, tập vẽ và trình bày diễn biến trên lược đồ cho nên khi
học các em luôn chú ý để hiểu nội dung bài dạy.
Song bên cạnh đó vẫn còn một số giáo viên cũng như học sinh chưa thực sự
coi trọng việc sử dụng trực quan trong dạy và học. Cụ thể:
a. Về phía giáo viên:
Đội ngũ giáo viên giảng dạy phân môn Lịch sử hiện nay của nhà trường có 06
người và đã được đào tạo trên chuẩn. Nhìn chung giáo viên có trách nhiệm trong
công tác giảng dạy nhưng chưa thực sự nhạy bén trong công việc, chưa thực sự đổi
mới trong giảng dạy, việc tiếp cận với tri thức mới thời hội nhập vào dạy học chưa
được thể hiện rõ nét.
Một số ít giáo viên chỉ cho học sinh khai thác đồ dùng trực quan sơ sài, qua loa.
Do đó nhiều học sinh không nắm vững kiến thức, khi trả lời câu hỏi thì nhìn vào
sách giáo khoa đọc nguyên bản nên học thuộc một cách máy móc nhanh quên.
b. Về cơ sở vật chất của nhà trường:
Nhìn chung cở sở vật chất của nhà trường hiện nay tương đối đầy đủ. Tuy
nhiên, do điều kiện kinh phí nên các thiết bị và đồ dùng dạy học nói chung và thiết
bị đồ dùng dạy học phân môn Lịch sử nói riêng (bản đồ, hiện vật, các tranh ảnh,
lược đồ .......) của nhà trường còn thiếu chưa đảm bảo yêu cầu.
c. Về ý thức, tinh thần học tập phân môn Lịch sử của học sinh:
Nhận thức của học sinh về phân môn còn chưa sâu sắc, học sinh coi đây là môn
học phụ nên, chưa thấy được vai trò, tầm quan trọng của môn học đối với bản thân.
Mặt khác, nhiều bậc cha mẹ học sinh quan niệm phân môn Lịch sử là phân

môn phụ nên không quan tâm đến việc tìm hiểu lịch sử của các em, không nhiệt
tình động viên các em tham gia học tập môn học này cho nên việc ghi nhận các sự
kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu.
Năm học 2016-2017, tôi đã tiến hành khảo sát kết quả học tập của các em để
nắm bắt tình hình về chất lượng học tập phân môn lịch sử ở lớp dưới (lớp 4) từ đó
để có những biện pháp chỉ đạo phù hợp để giáo viên dạy học. Kết quả khảo sát chất
lượng học sinh thu được như sau (tại thời điểm tháng 09 năm 2016):
Khối lớp
4
(2015-2016)



Điểm 9 - 10

Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6

số

TS

TL%

TS

TL%

TS


TL%

TS

TL%

30

2

6.7

7

23.3

11

36.7

10

33.3

Điểm dưới 5

Nhìn vào bảng khảo sát chất lượng trên, Tôi nhận thấy rằng: Số lượng các em
học sinh chưa hoàn thành ở phân môn Lịch sử ở khối lớp 4 rất cao. Hầu hết các em
điểm dưới 5 không thích học lịch sử, nắm kiến thức lịch sử còn mơ hồ. Điều này rất

đáng lo ngại và là một câu hỏi lớn cho những người làm công tác giáo dục.
5


2.3. Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực
quan trong dạy học phân môn Lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Đông Xuân,
huyện Đông Sơn.
2.3.1. Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về công tác giáo dục truyền thống
lịch sử
Dân tộc Việt Nam có một truyền thống lịch sử rất đáng tự hào với nhiều chiến
công hiển hách. Những mốc son, dấu ấn đáng nhớ ấy là kết tinh của lòng yêu nước,
ý thức tự tôn, tự hào dân tộc, tinh thần chiến đấu hi sinh anh dũng của bao thế hệ
cha anh đi trước. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc chống
thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, biết bao anh hùng liệt sỹ đã ngã xuống. Trong số đó
có rất nhiều tấm gương trẻ tuổi: Kim Đồng, Lê Văn Tám, Bế Văn Đàn, Phan Đình
Giót, Nguyễn Viết Xuân…
Để học sinh hiểu và đánh giá đúng ý nghĩa và giá trị của các sự kiện lịch sử
đối với tiến trình phát triển của một đất nước, một dân tộc, trước hết, nhà trường
cần phải xác định một cách nghiêm túc vai trò của công tác giáo dục truyền thống
đối với học sinh từ đó có chương trình tuyên truyền, bồi dưỡng thường xuyên, liên
tục. Để công tác giáo dục truyền thống cho học sinh có hiệu quả cần đa dạng hoá
các hình thức tuyên truyền: tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về lịch sử nhân các ngày
lễ lớn nhằm khơi dậy ý thức tự tôn, tự hào dân tộc ở học sinh. Cần đưa ra những
hình thức tuyên truyền, giáo dục phù hợp với lừa tuổi học sinh Tiểu học nói chung
và học sinh lớp 5 nói riêng. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương pháp giảng dạy,
nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Lịch sử sẽ góp phần không nhỏ trong
việc nâng cao chất lượng công tác giáo dục truyền thống, bồi đắp lòng yêu nước
cho học sinh.
Tóm lại: Công tác giáo dục truyền thống lịch sử là một phần không thể thiếu
để hình thành và phát triển đạo đức, nhân cách của học sinh nói chung và học sinh

lớp 5 nói riêng. Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng,
việc giáo dục truyền thống dân tộc cho học sinh càng có ý nghĩa quan trọng.
Tăng cường giáo dục truyền thống lịch sử của dân tộc đối với học sinh những chủ nhân tương lai của đất nước chính là góp phần hình thành bản lĩnh, cốt
cách con người Việt Nam trong quá trình hội nhập.
2.3.2. Biện pháp 2: Chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn
Lịch sử
Để phân môn Lịch sử thu hút học sinh thì cần tạo sự đột phá trong phương
pháp giảng dạy của giáo viên.
Coi việc đổi mới phương pháp dạy học vừa là yêu cầu, vừa là nhu cầu của cán
bộ quản lý và giáo viên.
Thứ nhất, Chỉ đạo thực hiện dạy học phải bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng
phân môn Lịch sử trong chương trình giáo dục Tiểu học; đồng thời xác định rõ kiến
thức, kĩ năng cơ bản, kiến thức trọng tâm trong từng bài học, tăng cường hệ thống
6


câu hỏi phát huy khả năng tư duy, trí tuệ của học sinh, rèn luyện kĩ năng tư duy cho
học sinh trong việc học tập phân môn Lịch sử.
Thứ hai, Chỉ đạo khai thác hiệu quả nội dung sách giáo khoa: việc khai thác
hiệu quả sách giáo khoa sẽ tránh tình trạng quả tải, dàn trải trong dạy học; giúp học
sinh nhận thức được nội dung cơ bản của bài học.
Ví dụ: Khi dạy bài: Thu - Đông 1947, Việt Bắc “mồ chôn giặc Pháp”.[5]
Yêu cầu cần đạt theo chuẩn kiến thức, kĩ năng là:
- Trình bày sơ lược được diễm biến của chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm
1947 trên lược đồ, nắm được ý nghĩa thắng lợi (phá tan âm mưu tiêu diệt cơ quan
đầu não kháng chiến):
+ Âm mưu của Pháp đánh lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não và
lực lượng bộ đội chủ lực của ta để mau chóng kết thúc chiến tranh.
+ Quân Pháp chia làm ba mũi (nhảy dù, đường bộ và đường thủy) tiến công
lên Việt Bắc.

+ Quân ta phục kích chặn đánh địch với các trận tiêu biểu: Đèo Bông Lau,
Đoan Hùng, …
Sau hơn một tháng bị sa lầy, địch rút lui, trên đường rút chạy quân địch còn
bị ta chặn đánh dữ dội.
+ Ý nghĩa: Ta đánh bại cuộc tấn công quy mô của địch lên Việt Bắc, phá tan âm
mưu tiêu diệt cơ quan đầu não và chủ lực của ta, bảo vệ được căn cứ địa kháng chiến.[1]
Theo Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học các môn học cấp tiểu học thì
“Không yêu cầu trình bày diễn biến, chỉ kể lại một số sự kiện về chiến dịch Việt
Bắc Thu - Đông năm 1947”.[2]
Với bài này chỉ đạo giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy theo chuẩn kiến
thức, kĩ năng và theo Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học các môn học cấp tiểu
học để lập kế hoạch bài học thời gian dư do giảm bớt bài, hoặc giảm bớt nội dung
trong từng bài, giáo viên không đưa thêm nội dung khác vào dạy mà dùng để củng
cố kiến thức và rèn kĩ năng đã học (trong bài đó hoặc bài trước) cho học sinh hoặc
tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp.
Thứ ba, Chỉ đạo khai thác hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa. Khai
thác thông tin từ kênh hình trong sách giáo khoa giúp rèn cho học sinh kĩ năng
quan sát, phân tích và diễn đạt; học sinh hiểu bài sâu sắc và đầy đủ hơn. Vì vậy, để
thực hiện có hiệu quả cần qua các bước như sau:
- Bước 1: Quan sát toàn bộ hình vẽ, mô hình.
- Bước 2: Mô tả lại theo sự quan sát của bản thân.
- Bước 3: Phân tích và đưa ra nhận xét về nội dung kiến thức ẩn chứa bên trong.
Ví dụ: Khi giảng dạy bài 3 - “Cuộc phản công ở kinh thành Huế”.[5]
Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát ảnh của nhà vua Hàm Nghi và ảnh
của Tôn Thất Thuyết đặt để rút ra nhận xét: Nhìn trong ảnh, ta thấy vua Hàm Nghi
trong trang phục rất giản dị, gọn gàng, đầu quấn khăn đen, mặc áo the như dân
thường. Nhưng vẻ mặt lộ rõ sự hồn nhiên, kiên nghị, tính tình khẳng khái, thông
7



minh và quả cảm. Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa vua Hàm Nghi, ra Chiếu Cần
vương, kêu gọi nhân dân cả nước đứng lên giúp vua cứu nước.

Hình 2. Vua Hàm Nghi

Hình 3. Tôn Thất Thuyết

Như vậy, qua việc hướng dẫn học sinh khai thác ảnh của nhà vua Hàm Nghi
trong sách giáo khoa và thấy được tính cách của một vị vua trẻ tuổi nhưng rất gan
dạ, anh hùng. Từ đó đã phát huy được tính tích cực và hứng thú hơn trong học tập
của học sinh, hình thành và phát triển ở học sinh khả năng quan sát, trí tưởng
tượng, tư duy và ngôn ngữ, giáo dục cho các em lòng kính yêu và tự hào, biết ơn về
vị vua trẻ tuổi yêu nước.
Thứ tư, Chỉ đạo đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh: "Đánh giá vì
sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc động viên, khuyến khích sự cố gắng trong
học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học sinh phát huy nhiều nhất khả năng; đảm
bảo kịp thời, công bằng, khách quan.”[4] Đa dạng các hình thức kiểm tra đánh giá
trong giờ dạy. Công khai hóa các nhận định về năng lực và kết quả học tập của mỗi
học sinh, giúp học sinh nhận ra sự tiến bộ cũng như những tồn tại của cá nhân học
sinh. Từ đó khuyến khích thúc đẩy việc học tập của các em.
Tóm lại: Để phân môn Lịch sử lớp 5 trở nên hấp dẫn hơn, cần phải đổi mới
phương pháp dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động. Người giáo viên
phải thực sự kiên trì, tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao để hình thành thói quen chủ động cho học sinh theo
chuẩn kiến thức, kĩ năng, khai thác triệt để kênh chữ và kênh hình trong sách giáo
khoa phân môn Lịch sử trong chương trình giáo dục Tiểu học nói chung và trong
phân môn Lịch sử lớp 5 nói riêng. Việc phối hợp chặt chẽ giữa “kênh hình” và
“kênh chữ” đã giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn, nhớ bài lâu hơn. Đổi mới kiểm tra
đánh giá theo hướng chú trọng đánh giá phẩm chất và năng lực của học sinh. Các
hình thức kiểm tra, đánh giá đều hướng tới phát triển năng lực của học sinh; coi

8


trọng đánh giá để giúp đỡ học sinh về phương pháp học tập, động viên sự cố gắng,
hứng thú học tập của các em trong quá trình dạy học.
2.3.3. Biện pháp 3. Chỉ đạo sử dụng đồ dùng trực quan
2.3.3.1. Chỉ đạo sử dụng tranh ảnh, hình vẽ, chân dung lịch sử trong sách
giáo khoa để dạy học
Một trong những lợi thế của môn học Lịch sử là có rất nhiều tư liệu bằng hình
ảnh. Học lịch sử là học quá khứ nên học sinh rất thích được xem những hình ảnh
thực tế của quá khứ làm cho các em có cảm giác như đang sống cùng với thời kì
lịch sử đó. Nếu khai thác tốt hình ảnh sẽ giúp học sinh hiểu sâu hơn bàì học hơn.
Có hai hình thức sử dụng hình ảnh:
- Chân dung, hình vẽ:
Sử dụng chân dung, hình vẽ nhân vật lịch sử có ý nghĩa rất quan trọng trong dạy
học lịch sử nó có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội, của các nhà cách mạng v.v…chỉ đạo giáo viên sử dụng để giảng dạy nhằm
tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm, tính cách, tài đức của các
nhân vật lịch sử. Khi sử dụng chân dung phải phân tích, giải thích, định hướng cho
học sinh tự mình đánh giá vai trò của nhân vật đó.
Ví dụ: Bài 5: "Phan Bội Châu và phong trào Đông du".[5]
Giáo viên cho học sinh quan sát hình dáng bên ngoài của nhân vật để rút ra
nhận xét. Cụ Phan là trí thức phong kiến theo xu hướng dân chủ tư sản sinh ra trong
một gia đình nho giáo, có truyền thống yêu nước ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An,
nơi có phong trào chống Pháp phát triển mạnh mẽ.

Giáo viên đồng thời sử dụng ảnh kết hợp với kể về những cống hiến của các
nhân vật lịch sử. Điều này không chỉ có sức truyền cảm giáo dục sâu sắc, mà còn
giúp các em suy nghĩ, đánh giá vài trò của nhân vật lịch sử.
9



Tóm lại, khi khai thác chân dung các nhân vật lịch sử (các anh hùng dân tộc,
lãnh tụ cách mạng, nhà phát minh khoa học ….), giáo viên phải làm nổi bật tính
cách thông qua việc miêu tả bề ngoài, hay nêu khái quát ngắn gọn tiểu sử nhân vật,
đặc biệt là những câu chuyện thời thơ ấu của nhân vật, dễ làm học sinh hứng thú,
kích thích óc tò mò, phát triển năng lực nhận thức.
Qua việc sử dụng chân dung các nhân vật lịch sử giáo viên cần giáo dục ở học
sinh lòng biết ơn, sự khâm phục tài chí, đạo đức của nhân vật từ đó có ý thức rèn
luyện mình theo gương đó.
- Tranh ảnh lịch sử:
Tranh ảnh lịch sử có ý nghĩa to lớn là nguồn kiến thức lịch sử, có tính giáo
dục tính cách, phát triển tư duy học sinh. Sử dụng tốt loại kênh hình này sẽ phát
huy được tính tích cực học tập của học sinh tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận
thức. Vì vậy khi sử dụng kênh hình tranh ảnh giáo viên cho học sinh quan sát tranh
ảnh tương ứng với nội dung kiến thức có liên quan và đồng thời nên sử dụng câu
hỏi miêu tả hoặc tường thuật kiến thức lịch sử biểu hiện trong đó sẽ giúp học sinh
hiểu sâu sắc tính chất sự kiện lịch sử nói chung và lịch sử Việt Nam nói riêng, tạo
cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về quá khứ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX”.[5]

Hình 3. Nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc

Qua hình ảnh học sinh khắc sâu biểu tượng về hình ảnh người nông dân Việt
Nam trong thời kì Pháp thuộc phải kéo cày thay trâu, lưng trần, nón cời, gầy ốm
chứng tỏ người nông dân bị bần cùng hóa hơn so với thời phong kiến. Với cách sử
dụng tranh ảnh như vậy, giáo viên vừa khai thác nội dung lịch sử thể hiện qua tranh
ảnh, vừa phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ của học
sinh mà còn có ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc, thẩm mĩ rất lớn. Ngắm nhìn
bức tranh Nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc học sinh sẽ có những tình cảm

mạnh mẽ về nỗi cực khổ của người dân mất nước (kéo cày thay trâu), lòng căm thù
bọn xâm lược cai trị, ý thức đấu tranh giành độc lập.
10


Ví dụ: Khi sử dụng hình ảnh về Trương Định được suy tôn "Bình Tây Đại
nguyên soái".[5]

Hình ảnh minh họa

Giáo viên cần đặt câu hỏi gợi ý cho học sinh biết: Trương Định là người như
thế nào? Qua cảnh tượng Trương Định không nhận sắc phong của triều đình mà
nhận chức do nhân dân phong, em có suy nghĩ gì về Trương Định? Yêu cầu lớp
trao đổi, thông qua sự gợi ý của giáo viên và một, hai học sinh trả lời, giáo viên
mới giải thích và nhận xét. Tất cả những ý trên đều giúp học sinh nắm được cuộc
chiến tranh chính nghĩa luôn được nhân dân ủng hộ nhất định sẽ thắng lợi. Tuy lực
lượng quân sự còn ít, vũ khí trang bị còn thô sơ nhưng đã tích cực hoạt động góp
phần rất quan trọng vào thắng lợi của cách mạng.
Sử dụng tốt tranh ảnh lịch sử trong sách giáo khoa sẽ phát huy được tính tích
cực, chủ động, tạo ra sự hứng thú trong quá trình nhận thức.
Ví dụ: Khi dạy bài 21: “Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta”[5]
Giáo viên cho học sinh xem bức tranh:

Hình 1 - Lễ khánh thành nhà máy cơ khí Hà Nội

Giáo viên giới thiệu và phát vấn học sinh “Các em hãy quan sát bức tranh
hình 1 và rút ra nhận xét?”. Sau khi lớp trao đổi, giáo viên gợi ý và học sinh trả lời,
giáo viên mới giải thích rõ hơn về các bức tranh cho học sinh hiểu. Sau đó giáo
viên có thể giới thiệu thêm cho học sinh biết về nguồn gốc của ngành công nghiệp
nặng nước nhà. Từ đó giáo viên cho học học sinh rút ra ý nghĩa của những thành

11


tựu khoa học, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và thống nhất đất nước.
Tóm lại: Với việc sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, học sinh
khối lớp 5 của nhà trường đã hiểu bài tốt hơn. Giáo viên đã dẫn dắt học sinh trở về
với cội nguồn lịch sử gặp gỡ các anh hùng dân tộc, gặp gỡ các nhân vật lịch sử; Tái
hiện cuộc sống lao động của các tầng lớp nhân dân.
2.3.3.2. Chỉ đạo sử dụng bản đồ, niên biểu, lược đồ, sơ đồ
Bản đồ, niên biểu, lược đồ, sơ đồ không chỉ có tác dụng minh họa cho nội dung
bài học, mà còn là nguồn kiến thức không thể thiếu đựợc trong bài học. Nếu bản đồ
lược đồ được sử dụng tốt, sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ kết
hợp chặt chẽ hai hệ thống tín hiệu với nhau: tai nghe, mắt thấy, tạo điều kiện cho học
sinh dễ hiểu nhớ lâu, phát huy đựơc năng lực chú ý quan sát, hứng thú của học sinh,
lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Do đó, giáo viên phải tái hiện sự kiện sinh động cụ
thể. Sử dụng câu hỏi về sự phát sinh của sự kiện: Nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân
trực tiếp hay hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử của sự kiện. Đây là một đặc điểm tư duy
lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh.
Thông qua quan sát bản đồ, lược đồ đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lý đã
học, nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ, lược đồ sẽ được học sinh nhanh
chóng nắm bắt, việc sử dụng bản đồ, lược đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả
năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ,
củng cố thêm kiến thức về Địa lí.
Chú ý: Khi sử dụng bản đồ nhất thiết phải giới thiệu cụ thể cho các em kí hiệu
ghi trên bản đồ, đồng thời tập cho các em quan sát, đọc bản đồ và tìm hiểu nội dung
lịch sử được thể hiện trên bản đồ.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ”[5]

Hình 3: Lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ


12


Giáo viên cần kết hợp sử dụng lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ với vừa
tường thuật vừa chỉ trên lược đồ hình 3 để tái hiện 3 đợt tấn công của quân ta vào
Điện Biên Phủ. Thông qua quan sát bản đồ, đọc kí hiệu, liên hệ với kiến thức địa lí
đã học, nội dung lịch sử được biểu diễn trên bản đồ sẽ được học sinh nhanh chóng
nắm bắt, việc sử dụng bản đồ lịch sử còn góp phần phát triển khả năng quan sát, trí
tưởng tượng, tư duy và ngôn ngữ, đặc biệt là kĩ năng đọc bản đồ, củng cố thêm kiến
thức về Địa lí.
Một phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử không thể
thiếu là sử dụng niên biểu để hệ thống hoá các sự kiện quan trọng theo thứ tự thời
gian, đồng thời nêu mối liên hệ giữa các sự kiện cơ bản của một nước hay nhiều
nước trong một thời kì. Có nhiều dạng niên biểu khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy bài:
Ôn tập: Chín năm kháng chiến, bảo vệ độc lập dân tộc (1945-1954).[5]
Hệ thống một số sự kiện tiêu biểu nhất trong chín năm chống thực dân Pháp
xâm lược. Về hệ thống sự kiện, giáo viên có thể cho học sinh làm theo nhóm để
hoàn thành. Chẳng hạn:
Mốc lịch sử
Sự kiện lịch sử
Đêm 18 rạng sáng Trung ương Đảng họp, quyết định phát động toàn quốc
19/12/1946
kháng chiến
Sáng 20/12/1946
Đài tiếng nói Việt Nam phát lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Tháng 10/1947
Thực dân Pháp huy động một lực lượng lớn, chia làm 3 mũi
tấn công lên Việt Bắc

Ngày 01/05/1952 Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc
Ngày 13/03/1954 Quân ta nổ súng mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ
Ngày 07/05/1954 Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ
Khi tiến hành bài tổng kết: Giáo viên dựa vào niên biểu để dạy, yêu cầu học
sinh cùng xây dựng bảng niên biểu, trên cơ sở đó mà bổ sung, sửa chữa những điều
chưa chính xác trong niên biểu của các em.
Tóm lại: Với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, niên biểu, sơ đồ... trong quá trình
giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi gây được sự chú ý tập trung của học sinh,
phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như việc khái quát, tổng kết kiến thức lịch
sử của học sinh. Chính vì thế trong các giờ dạy lịch sử nếu có điều kiện cho phép
giáo viên nên tích cực sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng trực quan này.
2.3.4. Biện pháp 4: Chỉ đạo giáo viên tự làm và sử dụng đồ dùng trực quan
tự làm, hoặc sưu tầm
2.3.4.1. Chỉ đạo giáo viên tự làm và sử dụng đồ dùng trực quan tự làm
Đồ dùng dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao hiệu
quả giờ lên lớp và nó phải gắn liền với việc học của học sinh.
Thiết bị đồ dùng dạy học tự làm là một trong các khâu quan trọng không thể
thiếu được trong quá trình dạy học. Nó phù hợp với trình độ sử dụng của giáo viên
và điều kiện kinh tế.
13


Thiết bị đồ dùng dạy học tự làm rất đa dạng và phong phú, bao gồm các loại
hình như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, lược đồ, dụng cụ, sa bàn, mô hình, mẫu vật...
Từ những nguyên liệu rẻ tiền, phế liệu cũ dễ kiếm cùng với các ý tưởng khoa
học đã tạo ra được rất nhiều đồ dùng tự làm phong phú và hiệu quả. Với những đồ
dùng dạy học tự làm này ta có thể áp dụng cho nhiều bài học khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.[5]
Chỉ đạo giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu chiến dịch Điện Biên Phủ qua
sa bàn tự làm, sau khi quan sát và phân tích sa bàn giáo viên cho học sinh tìm hiểu

nội dung và tường thuật lại diễn biến của chiến dịch. Với cách tiếp cận bài mới như
vậy, học sinh không những dễ nắm vững kiến thức bài học mà còn hứng thú xây
dựng bài, và nhớ lâu hơn về sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc.

Đồ dùng dạy học tự làm

2.3.4.2. Chỉ đạo giáo viên sử dụng đồ dùng sưu tầm
- Chỉ đạo các giáo viên các lớp tự nghiên cứu, sưu tầm các hình ảnh, đồ dùng
trên các báo, tạp chí và khai thác trên mạng Internet.
Đồ dùng phải đảm bảo thực hiện theo mục tiêu giáo dục, mang tính thẩm mĩ,
phải giúp học sinh phát triển trí tưởng tượng, kích thích cho học sinh tính độc lập,
sáng tạo, đồng thời phải phù hợp với từng lứa tuổi.
Việc sưu tầm tranh ảnh tư liệu là rất quan trọng để các em dễ hình dung, dễ nhớ,
nhớ lâu các sự kiện đó. Chính vì vậy học sinh phải sưu tầm tranh ảnh từ ở nhà, đọc
trước sách giáo khoa kết hợp với những tư liệu sưu tầm được hoặc do giáo viên cung
14


cấp để nắm vững được nội dung bài. Học sinh được trình bày cơ sở hiểu biết đã có của
mình. Thầy và trò chuẩn bị sưu tầm tư liệu, tranh ảnh, bản đồ, tài liệu lịch sử:
Ví dụ: Khi dạy bài 1: Bình Tây Đại nguyên soái "Trương Định”.[5]
Khi dạy giáo viên có thể tự sưu tầm chân dung Trương Định, tổ chức cho học
sinh quan sát chân dung Ông và đặt câu hỏi: Em biết gì về Trương Định? Học sinh
trả lời, sau đó giáo viên có giới thiệu về Trương Định và những hoạt động của Ông.
Với cách giới thiệu như trên sẽ giúp cho các em biết kính trọng các bậc tiền
bối, tự hào dân tộc và yêu quê hương mình hơn.

Chân dung Trương Định (1820-1864)

- Khi tiến hành dạy bài 6: Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.[5]

Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu về tiểu sử của Nguyễn Tất Thành, giáo
viên có thể sưu tầm những bức tranh về quê hương Người cho học sinh quan sát:

QUÊ NGOẠI BÁC HỒ

Sau khi cho học sinh quan sát hai bức tranh trên, giáo viên đặt câu hỏi: Em
biết gì về Nguyễn Tất Thành? Với cách tiếp cận bài mới như vậy, học sinh không
những dễ trả lời câu hỏi phát vấn của giáo viên mà còn hứng thú xây dựng bài, và
nhớ lâu hơn về tiểu sử của Hồ Chí Minh.
15


Ví dụ: Khi dạy bài 17: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.[5]
Khi dạy đến phần "Hành động của anh Phan Đình Giót" - Giáo viên treo tranh
sau đó tổ chức cho học sinh khác thác tranh.

Hình ảnh anh Phan Đình Giót đang lấy thân mình lấp lỗ châu mai

Tổ chức cho học sinh trả lời câu hỏi: Hành động của anh Phan Đình Giót thể
hiện điều gì? Từ đó học sinh sẽ dễ ràng trả lời và khắc sâu được kiên thức hơn.
Tóm lại: Sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử dụng
các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho
sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy học lịch
sử. Song khi sử dụng giáo viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học phân môn Lịch sử.
2.3. 5. Biện pháp 5: Chỉ đạo ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
lịch sử
Hiện nay, ngoài các phương pháp dạy học truyền thống, việc ứng dụng Công
nghệ thông tin trong dạy học sẽ góp phần làm cho giờ học trở nên sinh động, hiệu
quả, kích thích được tính tích cực, sáng tạo của học sinh, học sinh sẽ thấy thích thú

hơn, nhớ lâu hơn kiến thức bài học.
Ngay từ đầu năm học, tôi đã chỉ đạo giáo viên đổi mới phương pháp dạy học ứng
dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy. Cụ thể là sử dụng phần mềm đa phương tiện
Microsoft Power Point để giảng dạy cho toàn thể giáo viên trong nhà trường.
Phần mềm Microsoft Power Point có vai trò, ý nghĩa rất lớn đối với việc dạy học lịch sử, nó có tác dụng hữu hiệu trong việc đổi mới phương pháp dạy học lịch
sử ở trường Phổ thông nói chung và ở trường Tiểu học hiện nay nói riêng. Với sự
hỗ trợ của phần mềm này trong dạy học lịch sử, nó không chỉ giúp ích cho cho giáo
viên từng bước nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ năng sử dụng phương tiện kĩ
thuật hiện đại trong dạy học, mà còn tiết kiệm được thời gian trong bài giảng có sử
dụng nhiều đoạn miêu tả, tường thuật,... Quan trọng hơn nữa, với sự trợ giúp của
phần mềm này, giáo viên không bị mất đi vai trò vốn có trước đây của mình, ngược
16


lại sẽ giúp học sinh thêm say mê, hứng thú trong học tập, khắc phục quan niệm
trước cho rằng Lịch sử là môn học thuộc, khô khan và khó nhớ.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói chung, phần mềm Microsoft
PowerPoint trong dạy học lịch sử nói riêng có tác dụng to lớn trên cả 3 mặt: giáo
dưỡng, giáo dục và phát triển toàn diện học sinh, góp phần quan trọng vào việc đổi
mới phương pháp dạy học phân môn hiện nay. Nhận thức rõ vai trò của công nghệ
thông tin đối với phân môn Lịch sử ở lớp 5, nhất là những ưu điểm nổi bật của
phần mềm PowerPoint trong thiết kế và trình diễn bài giảng, chúng ta thấy rằng đã
đến lúc giáo viên cần phải tiến hành đồng thời “một cuộc cách mạng” về đổi mới
nội dung và phương pháp giảng dạy, cùng với việc sử dụng công nghệ thông tin
vào các môn học nói chung và phân môn lịch sử nói riêng.
Thiết kế bài giảng lịch sử trên phần mềm Microsoft Power Point với những
hiệu ứng đa dạng, phong phú, hình ảnh và tư liệu lịch sử sinh động sẽ có tác dụng
rất lớn đối với việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 19: Nước nhà bị chia cắt.[5]
Giáo viên trình chiếu ảnh Mĩ - Diệm tàn sát đồng bào ta cho học sinh quan sát.

Khi được quan sát bức ảnh chụp tội ác của Mĩ - Diệm giết hại đồng bào Nam Bộ,
kết hợp với lời gợi mở của thầy sẽ làm nảy sinh trong trái tim các em những tình
cảm yêu mến quần chúng nhân dân và căm thù quân xâm lược, bè lũ cướp nước,
cảm phục những tấm gương anh dũng hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.
Với sự tàn ác của mình, quyết tâm nhổ cỏ tận gốc Cộng sản, ngày 6/5/1959,
Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10-59, sau đó
được tổng thống Việt Nam Cộng hòa là Ngô Đình Diệm kĩ ban hành. Luật này quy
định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt với lý do "xét xử các tội ác chiến
tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa", mục đích nhằm tiến hành thanh trừ những
người cộng sản ở miền Nam Việt Nam.

Hình ảnh chính quyền Ngô Đình Diệm tàn sát đồng bào Miền Nam Việt Nam

Nếu học sinh chỉ được đọc tài liệu thoáng qua, hoặc nghe giáo viên dùng lời
kể sẽ không thể gây xúc động ở các em bằng việc được trực tiếp xem những hình
ảnh thật trên màn ảnh lớn, có sự thuyết minh của giáo viên. Chính thông qua sự hỗ
trợ của phần mềm này, mọi tâm tư tình cảm, thái độ yêu ghét sẽ được bộc lộ ở các
em. Đây cũng chính là đặc trưng giáo dục của phân môn Lich sử.
17


- Khi dạy bài 28: Xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình.[5]
Giáo viên dùng đèn chiếu trình chiếu một số hình ảnh đập ngăn nước của nhà
máy thủy điện Hòa Bình để học sinh quan sát.

Hình 2. Đập ngăn nước của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình

Tóm lại: Thông qua quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học nói
chung và sử dụng phần mềm Microsoft Power Point nói riêng có thể mang lại
những tác dụng lớn như: làm cho công việc dạy học nhẹ nhàng, thoải mái; hỗ trợ

giáo viên hệ thống hóa kiến thức; có khả năng phóng lớn nội dung bài giảng; sử
dụng hình ảnh, màu sắc, âm thanh phong phú, sống động. Thông qua trình chiếu
trên giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài học, chủ động trong việc lĩnh
hội các kiến thức lịch sử, giải thích, phân tích được các sự kiện lịch sử, biết liên hệ
thực tế. Đồng thời các em có ý thức hơn trong học tập và rèn luyện phẩm chất đạo
đức, ý thức về vị trí và vai trò của phân môn Lịch sử.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Mặc dù thời gian rất hạn chế nhưng tôi đã vận dụng sáng kiến kinh nghiệm
này vào chỉ đạo giáo viên nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng trực quan trong các
tiết dạy nói chung và trong dạy học phân môn Lịch sử nói riêng ở trường Tiểu học
Đông Xuân, huyện Đông Sơn đạt được kết quả khá cao. Các tiết dạy có sử dụng đồ
dùng trực quan gây được hứng thú học tập cho học sinh hơn, học sinh tích cực chủ
động, sáng tạo để mở rộng hiểu biết, đồng thời nhanh chóng lĩnh hội kiến thức,
không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn học hơn.
Khảo sát kết quả học sinh đạt được giữa học kỳ 2 năm 2016-2017 cụ thể là:
Khối lớp
Sĩ số
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8
Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
TS
%
TS
%
TS
%
TS
%
5

28
7
25.0
13
46.4
8
28.6
0
0
Kết quả đạt được ở trên cho thấy tính khả thi của việc chỉ đạo sử dụng đồ
dùng trực quan trong dạy học lịch sử là rất phù hợp, rất cần thiết. Bởi thông qua đồ
dùng trực quan giúp học sinh lĩnh hội tri thức, phát huy tính tích cực, chủ động
18


hoạt động độc lập gây hứng thú trong học tập, chất lượng học sinh đạt điểm 7 trở
lên tương đối cao, không còn học sinh đạt điểm dưới 5.
Qua việc phân tích, nghiên cứu và điều tra thực trạng kiến thức học tập của
các em ở môn lịch sử.
Tóm lại: Để cho chất lượng phân môn Lịch sử lớp 5 được nâng lên đòi hỏi
người giáo viên phải thực sự tâm huyết với nghề, đồng thời không ngừng tự học để
nâng cao chất lượng chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với
xu thế phát triển của nền giáo dục hiện đại.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Đồ dùng trực quan là phương tiện dạy học không thể thiếu được trong hoạt
động dạy học các môn học nói chung và dạy học phân môn Lịch sử nói riêng. Bằng
những dụng cụ trực quan sinh động, giáo viên sử dụng phương pháp tốt nhất giúp
học sinh tự khai thác, lĩnh hội kiến thức, phát huy được vai trò chủ thể của học sinh
trong quá trình học tập.

Việc sử dụng đồ dùng trực quan vào dạy học lịch sử đã thể hiện mối quan hệ
biện chứng về con đường nhận thức của học sinh đi từ “trực quan sinh động đến tư
duy trừu tượng”. Ở đây, nhờ được quan sát hình ảnh sinh động, được nghe giảng và
tư duy lịch sử mà những khoảng cách về thời gian, không gian của sự kiện dường
như đang xích lại gần với khả năng nhận thức của các em hơn. Về điểm này, nhiều
nhà giáo dục lịch sử đã nhấn mạnh: “Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức
tranh quá khứ càng phong phú bao nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu
nhận được càng vững chắc bấy nhiêu”. Đồng thời, việc sử dụng những loại đồ dùng
trực quan có liên quan đến phương tiện kĩ thuật hiện đại không chỉ góp phần tạo
biểu tượng lịch sử cụ thể cho học sinh, miêu tả bề ngoài sự kiện, mà còn đi sâu vào
bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự kiện.
Để việc thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới theo yêu cầu phương
hướng đổi mới có hiệu quả, việc sử dụng đồ dùng trực quan là một yêu cầu cấp
thiết trong công tác dạy học. Trước đây ta thường quan niệm thiết bị dạy học phân
môn Lịch sử chỉ nhằm minh họa làm cho kiến thức trở nên phong phú, sinh động.
Ngày nay ngoài chức năng, tác dụng đó, người ta còn đặc biệt nhấn mạnh đó là một
trong những nguồn nhận thức quan trọng của việc truyền bá và nhận thức lịch sử.
Khai thác triệt để chức năng, tác dụng này sẽ tạo điều kiện để giáo viên thực hiện
tốt việc đổi mới phương pháp dạy học.
Muốn thực hiện tốt phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy
lịch sử, đòi hỏi người giáo viên ngoài năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm thì
phải có ý thức trách nhiệm cao, phải có cái tâm mang đặc thù của nghề dạy học bởi
vì phương pháp dù hay đến mấy nhưng người thầy không có trách nhiệm cao,
không yêu nghề và thương yêu học sinh hết mực thì cũng không đem lại kết quả
như mong muốn. Có như vậy học sinh có điều kiện chủ động tích cực tham gia vào
quá trình tự nhận thức lịch sử một cách tốt nhất và có hứng thú học tập lịch sử hơn.
19


3.2. Kiến nghị:

* Với Phòng GD & ĐT:
- Hỗ trợ kinh phí cho các nhà trường để các nhà trường mua sắm thêm thiết bị,
đồ dùng dạy học.
- Cần trang bị những đồ dùng dạy học, tài liệu tham khảo, phương tiện công
nghệ thông tin cho bộ môn để giáo viên có điều kiện phục vụ cho bài giảng được
tốt hơn.
* Với nhà trường:
- Hàng năm cần lập dự toán mua bổ sung thiết bị, đồ dùng dạy học để phục vụ
cho việc dạy và học của nhà trường.
- Cần tổ chức những buổi học ngoại khoá để giúp các em có điều kiện tiếp
cận, tìm hiểu và bổ sung thêm vào những kiến thức ở sách vở, rút ngắn khoảng
cách giữa lí thuyết với thực tế.
- Giáo viên cần dành nhiều thời gian nghiên cứu tự làm bổ sung thêm thiết bị,
đồ dùng dạy học để nâng cai chất lượng dạy và học.
* Với gia đình:
Cần quan tâm đến con em, tạo điều kiện cho các em học tập thật tốt, giành cho
các em nhiều thời gian hơn để các em học lịch sử. Các em ngoài học trên lớp cũng
cần có nhiều thời gian ở nhà để tự học tập, nghiên cứu và tìm tòi.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nho nhỏ được rút ra từ thực tiễn trong quá
trình quản lý chỉ đạo quá trình dạy học trong nhà trường của bản thân tôi. Tôi nghĩ
rằng sáng kiến này chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế, rất mong sự đóng
góp ý kiến của lãnh đạo, của giáo viên, các đồng nghiệp cũng như sự chỉ đạo về
chuyên môn của Phòng GD&ĐT để bản thân được học hỏi thêm và phát huy tốt
hơn năng lực chỉ đạo quá trình dạy học lịch sử ở trường Tiểu học nói chung và
trường Tiểu học Đông Xuân, huyện Đông Sơn nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Đông Sơn, ngày 12 tháng 3 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của người khác, nếu sao
chép nội dung của người khác tôi xin
chịu trách nhịêm hoàn toàn.
Người viết

Lê Minh Năm

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức, Kĩ năng các môn học ở Tiểu học
Lớp 5 – Bộ Giáo dục và Đào tạo – Nhà xuất bản Giáo dục năm 2006
2. Hướng dẫn điều chỉnh nội dung các môn học cấp Tiểu học – Bộ Giáo dục
và Đào tạo ( Đính kèm Công văn số: 5842/BGD ĐT-VP ngày 01 tháng 9 năm 2011
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
3. Luật giáo dục năm 2005, sửa đổi năm 2009 – Quốc Hội Số:
44/2009/QH12 (Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá XII, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2009).
4. Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi Quy định đánh giá học sinh tiểu
học kèm theo Thông tư 30/2014/TT-BGDĐT – Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 22
tháng 9 năm 2016.
5. Sách giáo khoa Lịch sử và Địa lí 5 – Bộ Giáo dục và Đào tạo – Nhà xuất
bản Giáo dục năm 2007

21


DANH MỤC

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Minh Năm
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường Tiểu học Đông Xuân, huyện
Đông Sơn

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháp chỉ đạo
công tác chủ nhiệm

2.

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học

đánh giá xếp
loại

Phòng GD

C

2009

Sở GD

C

2012

Sở GD

C

2014

Một số biện pháp chỉ đạo
giáo dục thể chất ở trường
TH Đông xuân

3.

Một số biện pháp chỉ đạo
công tác giáo dục thể chất đạt
hiệu quả cao ở trường TH

Đông xuân – Đông Sơn

22


ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP HUYỆN
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................

...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................
...........................................................................................................................................................................................................................................

23



×