Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (250.22 KB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Giáo dục Tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân,
có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ và thể
chất cho các em. Từ đó hình thành nhân cách và sự phát triển toàn diện cho mỗi
học sinh.
Để đạt được mục tiêu trên, nhà trường Tiểu học đã coi trọng việc dạy đủ
9 môn học trong đó Tiếng Việt là một trong 9 môn được coi trọng và chiếm thời
gian nhiều nhất. Môn Tiếng việt bước đầu dạy cho các em những nhận thức, tri
thức cơ bản. Trên cơ sở đó rèn luyện các kĩ năng ngôn ngữ nghe, nói, đọc, viết.
Nhằm giúp học sinh sử dụng hiệu quả Tiếng Việt trong suy nghĩ, giao tiếp và hỗ
trợ học tốt các môn học khác. Ngoài ra còn góp phần bồi dưỡng cho các em
những tình cảm chân chính, lành mạnh. Đồng thời hình thành và phát triển cho
các em những phẩm chất tốt đẹp.
Trong môn Tiếng Việt có rất nhiều phân môn: Tập đọc, chính tả, Luyện từ
và câu, kể chuyện,... Mỗi phân môn có vị trí nhiệm vụ khác nhau. Chúng đều hỗ
trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Đặc biệt Tập làm văn là phân môn chủ đạo, tổng hợp
cao nhất của tất cả các phân môn. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh kĩ
năng sinh sản ngôn bản. Mục tiêu của người dạy và người học là viết văn có
cảm xúc. Chương trình văn ở Tiểu học chủ yếu là văn miêu tả. Văn miêu tả là
một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng
như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn trong việc
tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả
năng nhận xét đánh giá con người. Với đặc trưng của mình, làm cho tâm hồn trí
tuệ người đọc thêm phong phú, giúp cảm nhận văn học và cuộc sống một cách
tinh tế, sâu sắc hơn. Chính vì vậy văn miêu tả được đưa vào nhà trường rất lâu
với những đề tài rất quen thuộc, gần gũi với trẻ thơ. Các em có thể quan sát một
cách dễ dàng cụ thể.
Ngay từ lớp 2,3 các em đã được làm quen với văn miêu tả dưới dạng trả
lời câu hỏi..Lên lớp 4 các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan
sát, tìm ý, lập dàn ý, viết đoạn văn và liên kết đoạn thành một bài văn miêu tả cụ


thể những đối tượng gần gũi và thân thiết với các em. Người giáo viên giúp các
em thấy được cái hay cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và
thể hiện nó bằng những ngôn ngữ giàu hình ảnh. Nhưng thực tế chúng ta đều
biết hiện nay các cấp học đặc biệt là Tiểu học, phần lớn học sinh viết văn rất khô
khan. Bài viết của các em hầu như chỉ diễn đạt nội dung. Câu văn mới mang tính
chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm xúc. Vì ở lứa tuổi này vốn
kiến thức của các em còn hạn hẹp. Đứng trước thực tế đó tôi rất băn khoăn và
trăn trở: làm thế nào để các em yêu thích môn văn, để giúp các em tiếp cận với
1


vẻ đẹp của con người, của cảnh vật thiên nhiên đất nước. Giúp các em có cơ hội
bộc lộ cảm xúc cá nhân, mở rộng tâm hồn và phát triển nhân cách. Để trả lời câu
hỏi này ngay từ đầu năm nhận chủ nhiệm lớp 4A trường Tiểu học Quảng Phú,
tôi đã cố gắng với khả năng và kinh nghiệm của mình để giúp cho mỗi học sinh
học tốt môn Tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng. Trong
khuôn khổ bài viết này tôi mạnh dạn trình bày “Một số biện pháp rèn kĩ năng
viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4”
2. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp học sinh lớp 4 có kỹ năng làm bài văn miêu tả cây cối
hay, sinh động và sáng tạo
- Giúp giáo viên khối 4 có một số kiến thức và kinh nghiệm
khi hướng dẫn học sinh viết bài văn miêu tả nói chung và tả
cây cối nói riêng.
- Giúp bản thân tự học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 4A trường Tiểu học Quảng Phú – TP Thanh
Hóa
4. Phương pháp nghiên cứu .
+ Phương pháp điểu tra

+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp thu thập thông tin
+ Phương pháp thống kê, xử lí các số liệu .

2


II.

NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó người viết dùng ngôn ngữ có
tính chất nghệ thuật để tái hiện sao chụp lại hình ảnh với những đặc điểm nổi bật
nhằm giúp người đọc có những hiểu biết và rung cảm, cảm nhận về đối tượng
miêu tả đó như được trực tiếp tiếp xúc với đối tượng thông qua các giác quan
của mình.
Tả là mô phỏng, là tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hoá bằng hình ảnh...
chứ không phải kể lể. Tả là dùng lời văn của mình giúp người đọc thấy cụ thể
trước mắt hình dáng, đặc điểm của đối tượng như thế nào? Các bộ phận ra sao?
nó có ích lợi gì? Đây chính là vấn đề mà mỗi giáo viên muốn truyền thụ để học
sinh cảm nhận, hiểu và thực hành trong mỗi bài văn miêu tả của bản thân các
em.
Tập làm văn được coi là phân môn khó trong môn Tiếng Việt đặc biệt với
học sinh lớp 4. Các em phải làm quen với nhiều thể loại văn mà mỗi thể loại đòi
hỏi các em có kĩ năng và phương pháp làm bài khác nhau. Chương trình văn
miêu tả lớp 4 có 3 dạng bài (Tả đồ vật, tả cây cối , tả con vật) chiếm tới 30 / 62
tiết. Văn miêu tả phù hợp với đặc điểm tâm lý tuổi thơ ( ưa quan sát, thích nhận
xét, sự nhận xét thiên về cảm tính ). Đồng thời góp phần nuôi dưỡng mối quan
hệ sự quan tâm của các em với thế giới xung quanh. Góp phần giáo dục tình
cảm, thẩm mĩ, lòng yêu cái đẹp, phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Học văn miêu tả học

sinh có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất giữa tư duy và tình cảm, giữa
con người với thiên nhiên, với xã hội để khêu gợi những tình cảm, cảm xúc, ý
nghĩ cao thượng và đẹp đẽ.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Đầu năm học 2016 – 2017, tôi được trường phân công dạy lớp 4. Qua
quá trình giảng dạy và dự giờ tôi nhận thấy việc dạy và học văn miêu tả ở lớp 4
gặp một số khó khăn:
a. Về giáo viên:
-. Một vài giáo viên còn tỏ ra lúng túng khi hướng dẫn học sinh lập dàn
bài chi tiêt của bài văn miêu tả theo đúng yêu cầu của đề bài.
- Chưa thực sự khai thác hết thế mạnh của các phương pháp dạy học tích
cực và những kĩ năng dạy học mới vào bài dạy trong tiết học.
- Ở một số tiết dạy do chưa có sự chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo dẫn
đến giáo viên không có câu hỏi gợi mở, dẫn dắt học sinh chưa phù hợp.
- Một vài giáo viên chưa chú ý khơi gợi vốn hiểu biết, cách sử dụng từ
ngữ mà đôi khi còn yêu cầu học sinh nhớ để “bắt trước” rồi áp dụng vào làm các
dạng bài tương tự.
3


- Đứng trước một bài viết của học sinh, giáo viên đưa ra những lời nhận
xét cụ thể về ưu nhược điểm nhưng chưa giúp học sinh sửa sai để rút kinh
nghiệm cho bài Tập làm văn sau.
b. Về phía học sinh:
- Các em rất ngại học phân môn Tập làm văn nhất là những bài văn viết.
Bởi kỹ năng làm bài của các em còn hạn chế. Do đặc điểm tâm lý, học sinh Tiểu
học còn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh tế, năng lực sử
dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt dẫn đến viết văn miêu tả còn thiểu hiểu biết
về đối tượng miêu tả, không biết cách diễn đạt điều định tả.
- Khi miêu tả mang tính chất liệt kê: Các em không biết chọn đối tượng

miêu tả, thấy gì tả đó khiến bài văn trở nên rời rạc, thiếu sự liên kết giữa các ý
và không làm nổi bật trọng tâm. Cụ thể là các em không biết và không có thói
quen quan sát cây cối để miêu tả. Nhiều em còn chưa hiểu quan sát là gì?
Thường thì nghĩ cái gì, viết cái ấy theo kiểu liệt kê chứ không biết chắt lọc các
chi tiết tiêu biểu, trình tự miêu tả lộn xộn.
- Mặt khác, vốn từ của các em chưa phong phú nên các em dùng từ chưa
chính xác, câu què, câu cụt. Câu văn còn mang nhiều ngôn ngữ nói đôi khi còn
lặp từ. Đặc biệt các em chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả
như nhân hoá, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, lớp từ có tác dụng gợi tả, gợi cảm như
từ láy, từ tượng thanh, tượng hình... Một số bài viết của học sinh còn mắc nhiều
lỗi chính tả, chấm phẩy một các tuỳ tiện. Thậm chí có bài văn cả bài không có
một dấu chấm.
- Đa số các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và
cách hành văn lưu loát hoặc nếu có đọc, các em thường vay mượn ý của sách, lệ
thuộc vào bài mẫu, có thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận
dụng, liên tưởng một cách sáng tạo và linh hoạt.
- Vốn sống và vốn hiểu biết của học sinh vùng nông thôn còn hạn chế nên
học sinh thiếu các tài liệu tham khảo .
c . Kết quả khảo sát đầu năm: Qua giảng dạy tôi đã nắm bắt tình hình
học tập của học sinh, đồng thời tổ chức khảo sát học sinh qua bài kiểm tra.
Đề bài: Em hãy tả lại một đồ vật mà em yêu thích.
* Kết quả như sau:
Tổng số
HS
30

HS HTT

Tỉ lệ


HS HT

Tỉ lệ

3

10%

20

66,6 %

HS
chưaHT
7

Tỉ lệ
23,3 %

Nhìn chung, bài viết của những học sinh chưa hoàn thành có bố cục của
bài chưa đúng quy định, nội dung sơ sài, câu văn mới chỉ mang tính liệt kê để tả
4


chưa thể hiện được cái hồn của người viết. Việc sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi
cảm, biện pháp nghệ thuật đã có ở một số bài nhưng chưa gây được ấn tượng
sâu sắc. Đôi khi sử dụng dấu câu còn tùy tiện. Đặc biệt giữa các phần, các đoạn
còn rời rạc, chưa có sự liên kết. Để khắc phục những khuyết điểm đã nêu tôi xin
đưa ra một số biện pháp sau:
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

Giải pháp1: Giúp học sinh nắm chắc yêu cầu của đề và biết quan sát tìm ý:
a/ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề bài:
Đây là việc làm quan trọng bởi nó giúp học sinh đi đúng hướng yêu cầu
của đề bài. Từ đó giúp các em không bị lạc đề.
Ví dụ: Em hãy tả một con vật nuôi ở trong nhà
Tôi hướng dẫn các em như sau:
- 2 HS đọc đề bài - Lớp đọc thầm.
- Đề bài thuộc thể loại văn gì ? ( văn miêu tả )
- Kiểu bài nào? ( tả con vật )
- Đối tượng ( hoặc nội dung) miêu tả là gì ? ( con vật ở trong nhà)
- Trọng tâm miêu tả là gì ? ( hình dáng bên ngoài và hoạt động)
- Học sinh thảo luận nhóm đôi kể tên các con vật có ở trong nhà? ( chó,
mèo, gà, lợn, thỏ...)
- Học sinh trả lời - giáo viên chốt lại và dùng phấn màu gạch chân các từ
ngữ quan trọng của đề bài.
b/ Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý:
Chống lối dạy theo mẫu giúp học sinh rèn luyện bộ óc, rèn luyện phương
pháp suy nghĩ, phương pháp vận dụng kiến thức thì việc đầu tiên cho học sinh
làm bài văn miêu tả là quan sát trực tiếp đối tượng sẽ tả.
* Một số lưu ý khi hướng dẫn học sinh quan sát :
- HS có thể đứng ở vị trí tùy ý để quan sát.
- Cho học sinh quan sát bên ngoài bằng nhiều giác quan: thị giác, thính
giác, vị giác, khứu giác, tri giác…
- Các em có thể quan sát từ xa đến gần hoặc ngược lại.
- Hướng dẫn các em quan sát theo hệ thống câu hỏi thích hợp, rèn luyện
thành nếp việc ghi chép các nhận xét, ấn tượng, cảm xúc…của bản thân.
Khi hướng dẫn học sinh quan sát bên trong chiếc cặp của em giáo viên
đưa ra hệ thống câu hỏi:
Ví dụ: Chiếc cặp có mấy ngăn? Vách ngăn được làm bằng gì? Trông như
thế nào? Em đựng gì ở mỗi ngăn? Cách sắp xếp như vậy khiến em có cảm giác

như thế nào?
- GV kèm cặp học sinh yếu, phát hiện vấn đề có tính chất chung, chọn
thời điểm thích hợp uốn nắn chung cho cả lớp.
5


- Khéo léo gợi mở để các em sử dụng vốn sống, khả năng tưởng tượng và
cảm xúc giúp cho việc quan sát được tốt hơn.
Ví dụ: Đôi mắt gà con được so sánh với hình ảnh nào? Nó có vẻ đẹp gì
hấp dẫn? ( Đôi mắt tròn nhỏ bằng hạt đậu, lúc nào cũng long lanh như giọt
nước)
* Quan sát tỉ mỉ các bộ phận kết hợp bằng nhiều giác quan:
- Quan sát tổng thể hình dáng, thế đứng của cây, đặc điểm riêng, hoạt
động của vật.
- Quan sát theo từng thời kỳ phát triển hoặc quan sát từng bộ phận của
đối tượng miêu tả. Song dù quan sát theo cách nào cũng phải dừng lại ở phần
trọng tâm, yêu cầu của đề để quan sát kỹ hơn.
+ Khi tả đồ vật cần tả bao quát toàn bộ đồ vật, sau đó đi vào tả những bộ
phận có đặc điểm nổi bật.
Ví dụ: Tả cây cho bóng mát cần quan sát kỹ ở tán lá, dáng vẻ cổ thụ của
cây.
Ví dụ: Tả cây hoa quan sát kĩ bông hoa về màu sắc, vẻ đẹp, hương thơm...
Tả cây ăn quả quan sát kỹ phần hoa, quả khi xanh, chín, màu sắc quả, hương vị.
Ví dụ: Tả con vật cần tả đặc điểm nổi bật của ngoại hình và hoạt động đặc
sắc nhất của con vật.
* Quan sát để phát hiện tìm ra những đặc điểm riêng của đối tượng
miêu tả:
Để giúp người đọc phân biệt được đặc điểm riêng của đối tượng định tả,
tôi định hướng cho các em tránh lối liệt kê các bộ phận mà cần phải nhằm vào
các chi tiết, bộ phận, đặc điểm riêng đặc sắc, rõ nét nhất có thể khắc hoạ sự vật

ấy ấy một cách rõ rệt, gợi cho em nhiều ấn tượng, tập trung vào quan sát những
nét độc đáo để hiện lên những nét riêng, độc đáo của vật khiến nó không lẫn lộn
với các sự vật khác
Ví dụ:
- Tả cái cặp nên tả kĩ màu sắc, chất liệu, cách sắp xếp bên trong.
- Tả cây bàng nên tả theo mùa để thấy nét đặc sắc của tán cây, lá, hoa,
quả.
- Tả con chó chú trọng đến màu lông, sự khôn ngoan, cách thể thể hiện
tình cảm với chủ.
* Quan sát phải gắn liền với so sánh và tưởng tượng:
Tưởng tượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong văn miêu tả. Nhờ tưởng
tượng mà hình ảnh, màu sắc, âm thanh được tái hiện. Từ sự tưởng tượng mà sự
vật hiện ra với những nét đặc trưng của nó đó là rõ nét hơn, cụ thể hơn và gần
gũi với ta hơn.

6


Giáo viên có thể đặt câu hỏi học sinh ghi chép lại những gì mình đã
tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết của mình đồng thời giáo viên
cho học sinh nghe những đoạn văn có nhiều hình ảnh, liên tưởng hay.
Ví dụ: Bao quanh bụng trống có gì, nó có đặc điểm thế nào? Nhìn đai của
trống em liên tưởng đến cái gì?
(Bao quanh bụng trống là vành đai, bện xoắn vào nhau lớn bằng ngón tay
cái. Nhìn từ xa trống như được mang chiếc thắt lưng giản dị, dân giả)
Giải pháp 2: Rèn kỹ năng lập dàn ý chi tiết cho bài văn miêu tả .
Bước 1: Kỹ năng chọn lọc chi tiết:
Khi quan sát, tìm ý, học sinh ghi chép chưa có sự chọn lọc. Khi lập dàn
bài chi tiết để hoàn chỉnh bài văn, các em phải lựa chọn, sàng lọc để tìm nội
dung cốt lõi, nổi bật trọng tâm.Vậy dựa vào đâu để chọn ý, nội dung phù hợp ?

Đó là ý chủ đạo của bài văn.
Ví dụ: Khi tả cây bóng mát ( cây bàng ) cần đi sâu vào các chi tiết của tán
lá, cành lá, sự già nua của cây... ( trọng tâm của đề )
Khi tả cây cho hoa cần đi sâu vào quan sát hình dáng, vẻ đẹp, màu sắc,
hương thơm của hoa, các loài chim, ong bướm, gió...
Bước 2: Kỹ năng sắp xếp ý:
Để làm tốt kỹ năng này, tôi luôn lưu ý học sinh bám vào dàn bài chung
để biến thành một dàn bài chi tiết với từng đề bài cụ thể.
Ví dụ: Dàn bài chung tả con vật:
* Mở bài: Giới thiệu con vật định tả: Loài vật này gặp ở đâu? trong
trường hợp nào?
* Thân bài: Tả con vật về:
+ Hình dáng tổng quát.
+ Về đặc điểm nổi bật của con vật.
+ Hoạt động và cách sinh hoạt.
+ Ích lợi và công việc mà nó giúp ích người.
* Kết bài:
+ Cảm nghĩ của ta về con vật
+ Tình cảm đối với con vật.
+ Cách chăm sóc.
Ví dụ: Dựa trên kết quả quan sát, tìm ý, lập dàn bài chi tiết cho bài văn tả
con thỏ
* Mở bài: Giới thiệu con thỏ ( hoàn cảnh, thời gian).
* Thân bài:
1) Ngoại hình của con thỏ:
- Bộ lông trắng nõn, toàn thân không có đốm khác
- Cái mõm: nhòn nhọn, động đậy.
7



- Cái mũi: Đo đỏ, luôn luôn hít hít, thở thở.
- Bộ ria: Trắng như cước, nhỏ hơn sợi tóc.
- Đôi mắt: Đỏ, tròn xoe, khôn, hiền.
- Hai tai: To, vểnh lên.
2) Hoạt động chính của con thỏ
- Động tác ăn: Vừa ăn, vừa nhìn, sợi ria mép vểnh lên cụp xuống, 2 tai
động đậy, đuôi ngoe nguẩy.
- Họat động, tình cảm con vật xung quanh thỏ: Thỏ khác ăn, nằm, liếc mắt
khen ngợi thỏ trắng nhanh nhẹn, láu lỉnh.
- Ích lợi của thỏ đối với người: Chú thỏ giúp cho gia đình em trở nên vui
nhộn và tăng thêm thu nhập sau mỗi lứa sinh sản.
* Kết bài: Cảm nghĩ của em về con thỏ
- Tình cảm đối với con thỏ: Yêu mến, thân thiết…
- Cách chăm sóc: Cho ăn đều đăn, đủ chất dinh dưỡng…
Với đề bài nào tôi cũng yêu cầu học sinh lập dàn ý chi tiết, làm nhiều lần
như vậy, học sinh đã có một thói quen tốt.
Giải pháp 3: Giúp học sinh tích luỹ vốn từ liên kết câu khi viết văn:
a) Tích luỹ vốn từ:
Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có
vị trí, ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể
diễn đạt và diễn đạt tố nội dung, ý kiến của mình. Những kiến thức lơ mơ, thiếu
vốn từ sẽ không làm bài văn hay được. Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn:
giao tiếp hàng ngày, đọc sách báo, trao đổi bạn bè…Thông qua tiết Tập đọc,
Luyện từ và câu tôi cho các em nêu và tập giải nghĩa các từ sau đó
ghi chép khi nhận các từ ngữ dùng để miêu tả trong bài.
* Đối với phân môn tập đọc:
Ở bài tập đọc “Đường đi Sa Pa” ( Tiếng Việt 4 tập 2 trang 102) để cung
cấp các từ miêu tả cảnh vật, đặc điểm con vật tôi đưa ra các câu hỏi sau:
Ví dụ: Tìm các từ dùng miêu tả cảnh vật có trong bài? (long lanh, nhỏ xíu,
mênh mông, thung thăng, cao vút, bồng bềnh, lướt thướt, liễu rũ, trắng xóa,

huyền ảo…)
Ví dụ: Tìm các từ tả đặc điểm của con vật có trong bài: (Con đen huyền,
con trắng tuyết, con đỏ son, chân dịu dàng, chùm đuôi cong quyến rũ. )
* Đối với phân môn luyện từ và câu:
Sau khi có từ ngữ tôi cho các em làm bài tập dạng luyện điền từ, chọn từ
để các em sử dụng từ phù hợp với nội dung câu văn.
Ví dụ: Những đêm trăng …( huyền ảo), lũy tre xanh như đang … ( bồng
bềnh) cùng gió.
b) Dạy viết câu có kết cấu đơn giản:
8


Để viết được những câu văn mang tính nghệ thuật trong kết cấu, trước
tiên các em phải nắm được các mẫu câu đơn giản đã học trong chương trình
Tiếng Việt nói chung phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Trước tiên tôi dạy
cho các em biết đặt câu đúng nội dung theo mẫu câu đã học, có chủ ngữ, vị ngữ
và biết xác định thành phần ngữ pháp trong câu.
Ví dụ: Đặt 3 câu theo mẫu câu đã học sau đó xác định chủ ngữ ( CN) – vị
ngữ ( VN) trong câu.
- Lan là cô bé ngoan ngoan.
- Lớp 4B lao động rất chăm chỉ.
CN
VN
CN
VN
- Chim vành khuyên đang hót véo von.
CN
VN
c) Dạy viết câu có kết cấu phức tạp:
* Câu có trạng ngữ: Để học sinh biết viết câu có trạng ngữ tôi cho các

em làm dạng bài tập xác định TN, CN,VN trong câu. Sau khi học sinh xác định
đúng các thành phần ngữ pháp tôi yêu cầu học sinh nêu ý nghĩa của từng trạng
ngữ. Cuối cùng yêu cầu các em viết câu có trạng ngữ chỉ nguyên nhân, mục
đích, thời gian, địa điểm về một thể loại văn miêu tả cụ thể.
Ví dụ:
- Năm ngoái, ông em mới trồng cây bưởi ở giữa vườn.
- Nhìn từ xa, những quả bưởi như chiếc đèn lồng thắp sáng.
* Câu có nhiều chủ vị:
Tôi hướng dẫn học sinh viết nhiều câu thành một câu để học sinh viết bài
văn không bị lặp từ, câu văn lủng củng, cứng nhắc, khô khan kể lể. Từ đó học
sinh sẽ viết câu văn hay và xúc tích hơn.
Ví dụ
- Đôi ba nụ hồng chúm chím e lệ, lấp ló trong nền áo xanh mỏng.
- Chiếc áo ấy mềm mại, mịn màng như tơ.
- Những chú gà con nhỏ nhắn, xinh xắn trông thật đáng yêu.
Giải pháp 4: Giúp học sinh biết cách sử dụng các biện pháp tu từ trong
miêu tả:
Muốn bài văn hay thì không thể thiếu tính nghệ thuật. Học sinh lớp 4 kiến
thức về lĩnh vực này còn lơ mơ, hời hợt.Vì vậy để bài văn sinh động, có hình
ảnh người giáo viên cần cung cấp cho các em khái niệm, ví dụ cụ thể từ đó vận
dụng để viết các câu văn giàu hình ảnh so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Ở lớp 3
các em đã được học biện pháp so sánh, nhân hoá.
- Vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng, lựa chọn từ
ngữ để đặt câu. Trước hết giáo viên cho học sinh làm quen với các dạng bài tập:
-Tìm câu văn có hình ảnh so sánh, nhân hóa có trong bài tập đọc.

9


Ví dụ 1: Cánh hoa nhỏ như vẫy cá, hao hao giống cánh sen…Nhìn trái sầu

riêng lủng lẳng dưới cành trông giống như tổ kiến.
Ví dụ 2: Lông sẻ già dựng ngược, miệng rít lên tuyệt vọng và thảm thiết.
- Nhận xét về tác dụng của hình ảnh so sánh, nhân hóa trong câu văn,
đoạn văn?
Ví dụ 1: Qua hình ảnh so sánh, liên tưởng giúp ta thấy rõ nét hơn về đặc
điểm cánh hoa cũng như trái sầu riêng.
Ví dụ 2: Tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa sẻ già như một con người
biết yêu thương, lo lắng, quan tâm và sẵn sàng hi sinh thân mình để bảo vệ đứa
con bé bỏng đang gặp nguy hiểm…Khiến mỗi chúng ta phải cảm động và trân
trọng biết nhường nào trước tình cảm mẫu tử thiêng liêng của loài vật.
- Điền từ thích hợp vào chỗ trống tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh,
(nhân hóa, gợi tả)
- Hãy thêm vế câu để được hình ảnh so sánh (nhân hóa) thích hợp vào mỗi
chỗ trống
- Tìm hình ảnh so sánh và tự diễn đạt thành câu.
Đối với biện pháp nhân hóa học sinh có thể gọi tên sự vật như khi gọi tên
con người hoặc gắn suy nghĩ, hành động của người vào sự vật.
Ví dụ: Cho cặp từ: quả chuối - trăng khuyết, đàn gà con - hòn tơ nhỏ hãy
đặt câu có biện pháp so sánh:
- Quả chuối dài, cong cong như vầng trăng khuyết.
- Đàn gà con như những hòn tơ lăn tròn trên cỏ.
Ví dụ: Cho cặp từ : Quyển vở - khoe; hồng nhung - kiêu hãnh hãy đặt câu
có biện pháp nhân hóa:
- Quyển vở sung sướng, hãnh diện khoe những điểm 10 đỏ chói.
- Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao.
- Hướng dẫn HS viết những câu văn có hình ảnh và sử dụng các biện
pháp nghệ thuật đã học. GV cần tiến hành theo mức độ yêu cầu tăng dần, bước
đầu chỉ yêu cầu HS đặt câu đúng, sau đó yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử
dụng phép so sánh, nhân hoá, dùng từ láy, từ ngữ gợi tả những âm thanh hay
những từ ngữ biểu lộ tình cảm.

- Lên lớp 4, các em lại được học từ láy. GV cần cung cấp thêm cho các
em lớp từ gợi tả, gợi cảm ( tượng thanh, tượng hình...) Như vậy là các em đã có
vốn từ cho mình rất thuận lợi khi làm văn.
Ví dụ : Cho đoạn văn: “ Mười chú gà con to hơn quả trứng, bộ lông vàng
mượt, mịn như tơ. Cái mỏ hồng hồng, con con, nhú ra từ cái đầu mới to hơn
ngón chân cái, trông rất xinh. Đôi mắt tròn nhỏ bằng hạt đậu lúc nào cũng long

10


lanh như giọt nước. Hai cái chân nhỏ như hai que tăm. Đặc biệt đôi cánh cũn
cỡn thỉnh thoảng lại cố ve vẩy trông vừa buồn cười vừa đáng yêu.”
Em hãy tìm các từ láy có trong đoạn văn trên? ( hồng hồng, con con, long
lanh, cũn cỡn, thỉnh thoảng, ve vẩy).
Ví dụ: Khi tả con thỏ thường có các từ láy gì ? ( hồng hồng, xinh xinh,
ngộ nghĩnh, nhanh nhẹn, …)
Giải pháp 5: Giúp học sinh lồng cảm xúc của mình vào bài văn:
Một bài văn hấp dẫn, gây ấn tượng với người đọc không thể thiếu cảm
xúc của người viết. Nó phải thấm đẫm trong từng câu, từng lời của bài văn. Có
được điều đó thì bài văn không đơn thuần là liệt kê nó thể hiện những suy nghĩ,
cảm xúc của người viết. Đối với học sinh nhỏ thì điều này thật trừu tượng nhưng
chúng ta có thể cho các em biết cảm xúc chính là tình thương yêu, sự khen ngợi,
lời nhận xét đối với đối tượng miêu tả. Cảm xúc không chỉ có ở phần kết luận.
Ví dụ: Nhìn từ xa cây bàng như một chiếc ô khổng lồ mát rượi. Cành lá
mơn man đùa vui trong gió như vẫy chào chúng em. (Phần tả bao quát cây
bàng)
Ví dụ: Đặc biệt đôi cánh của gà con cũn cỡn thỉnh thoảng lại cố ve vẩy
trông vừa buồn cười vừa đáng yêu.( Phần tả đặc điểm của gà con).
Ví dụ: Chiều chiều em cùng bố đi hóng gió. Ở làng em có biết bao nhiêu
cảnh mà em yêu, nhưng em chỉ thích nhất được ngồi dưới gốc cây đa để hưởng

những làn gió mát. (Mở bài giới thiệu cây đa)
Giải pháp 6: Hướng dẫn HS xây dựng đoạn mở bài, kết bài và các đoạn của
thân bài:
Đây là bước cuối cùng để hoàn chỉnh đoạn văn. Từ các ý đã lập, các em
sử dụng ngôn ngữ, phát triển ý để dựng thành đoạn văn .
* Mở bài: Có thể vào trực tiếp hoặc gián tiếp. Nếu vào gián tiếp có các
cách sau:
+ Dẫn từ cái chung đến cái riêng, từ các sự vật đến một vật cụ thể.
Ví dụ: Giới thiệu về chú thỏ trắng: “Bà ngoại em sống ở vùng nông thôn
nên đất đai rất rộng. Trang trại của bà có rất nhiều loại gia cầm, gia súc khác
nhau. Mỗi con có một đặc điểm, tính nết riêng. Nhưng con vật em yêu thích nhất
là chú thỏ trắng.”
+ Dẫn từ môi trường, thời tiết, hoàn cảnh gắn với đặc trưng của sự vật ấy
Ví dụ: Giới thiệu về quyển vở: “Chủ nhật vừa qua, trong khi sắp xếp lại
tủ sách, em đã tìm thấy lại một quyển vở của mình từ hồi còn học lớp 2.”
+ Dẫn dắt từ liên tưởng tới kỷ niệm gắn bó vớí sự vật.

11


Ví dụ: Giới thiệu về chiếc bút: “Em thường ao ước có một chiếc bút máy,
nhưng bố bảo: “Bao giờ lên cấp II hãy dùng con ạ!”. Rồi một hôm, bố em mua
cho em một cây bút nhựa giống như bút máy.”
* Kết bài: Là một phần cuối của bài văn nhưng lại rất quan trọng bởi đoạn
kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả.
Thực tế cho thấy, HS thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết bài khô
cứng, thiếu chân thực. Sẽ không khó, nếu giáo viên hướng dẫn cho các em biết
sử dụng linh hoạt một số kiểu kết bài mở rộng sau đây:
+ Thể hiện tình cảm bằng cách nói lên mong muốn, ước mơ, đối với đối
tượng miêu tả.

Ví dụ: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, không có đàn trâu béo khỏe thì đội
em khó mà làm cho kịp thời vụ. Em chăm sóc nó rất chu đáo bao giờ nó cũng no
nê sạch sẽ. Mùa hè em hun muỗi, mùa đông em mặc áo ấm cho nó.”
+ Thể hiện cảm xúc, suy nghĩ bằng cách nhắc lại những kỉ niệm đẹp, hay
ấn tượng khó phai mờ.
Ví dụ: “Trống trường mãi là bạn đồng hành trong đời học sinh của chúng
em. Mai đây, chúng em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất cứ nơi nào trên Tổ quốc
song mãi mãi tiếng trống trường vẫn bập bùng trong tim.”
+ Thể hiện cảm xúc suy nghĩ thông qua cử chỉ, hành động, nỗi niềm tình
cảm thân thiết đối với đối tượng miêu tả
Ví dụ: Em thích cho đàn gà con của nhà em ăn lắm. Mỗi ngày em cho
chúng ăn đến ba lần. Em mong chúng sẽ chóng lớn để chúng đẻ trứng, ấp con.
Cứ nghĩ đến lúc nhà em có đàn gà mà em vui mừng phấn khởi.
* Phần thân bài: Hướng dẫn các em viết thành từng đoạn. Đoạn văn phải
đảm bảo sự liên kết giữa các câu trong đoạn để cùng tả một bộ phận. Các ý trong
đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ cụ thể hoá ý
chính.
Ví dụ: Khi tả con thỏ phần thân bài gồm các đoạn:
Đoạn 1: Tả ngoại hình của con thỏ
Đoạn 2: Tả hoạt động ăn của thỏ .
Đoạn 3: Sự ích lợi của thỏ đối với con người.
Giải pháp 7: Xây dựng hệ thống bài tập rèn kĩ năng viết văn miêu tả.
1/. Bài tập yêu cầu HS dùng từ, đặt câu với các từ ngữ, hình ảnh miêu tả
Những bài tập này có mục đích giúp HS vận dụng sự hiểu biết về ngữ
nghĩa, cấu tạo, khả năng kết hợp giữa các từ trong câu, để đặt câu phù hợp với
tình huống nói, viết. Câu văn HS viết ra phải đúng nghĩa, đúng ngữ pháp. Dữ
kiện của bài tập là các hình ảnh, từ ngữ, câu văn miêu tả đặc điểm, hoạt động
của đối tượng. Lệnh bài tập yêu cầu HS đặt câu hoặc viết lại thành câu văn miêu
tả từ những từ ngữ cho sẵn.
12



Ví dụ: Thông qua hình thức học tập theo nhóm (Bằng phiếu giao việc)
a. Đánh số thứ tự từ 1 đến 4 vào ô tròn cạnh hình theo một chuỗi hành
động hợp lí (Thứ tự đúng là: hình 4, hình 3, hình 2, hình 1)
b. Tìm các từ tả hoạt động của con vật trong bức tranh: rình, rượt, vồ,
quắp.
c. Đặt câu một hoặc hai câu miêu tả có các từ tả hoạt động của con vật đó.

2/. Bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý, liên kết ý trong đoạn văn
Với bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý, HS sẽ ý thức rõ hơn về sự liên kết nội
dung giữa các câu trong đoạn văn, từ đó vận dụng sự liên kết này để viết ra
những đoạn văn miêu tả có các câu văn được sắp xếp hợp lí, logic, thống nhất,
mạch lạc về nội dung.
Bài tập rèn kĩ năng sắp xếp ý yêu cầu HS dựa vào ý để sắp xếp các câu
trong đoạn văn thành một chuỗi các hành động, sự việc liên tiếp nhau đề cập đến
một đối tượng chung hoặc các đối tượng có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Dữ kiện của bài tập là các câu văn miêu tả một bộ phận, một phần của đối
tượng sắp xếp lộn xộn, rời rạc. Lệnh của bài tập yêu cầu HS dựa vào sự liên kết
ý của các câu văn để sắp xếp lại trật tự của chúng trong đoạn văn, từ đó chọn
đúng thứ tự miêu tả cho các câu văn hoặc sắp xếp các câu văn miêu tả thành một
đoạn văn hoàn chỉnh.
Ví dụ 1: Một bạn viết bài tả vẻ đẹp của hoa mai. Các câu văn trên bị xáo trộn
thứ tự. Em hãy giúp bạn sắp xếp lại các câu trên thành đoạn văn miêu tả hoa
mai. Bài bạn viết có mấy câu sau:
a) Lá cây màu xanh nhạt lúc còn non, khi gần rụng lại có màu xanh đậm.
Hoa mai có năm cánh nhưng so với hoa phượng đỏ rực rỡ, hoa mai vàng óng,
khiêm nhường hơn.
b) Cây hoa mai cao khoảng hơn hai mét, rễ không uốn lượn trên mặt đất
như rễ phượng.

c) Em rất thích hoa mai vì hoa có màu sắc đằm thắm, dễ nhìn. Em luôn
chăm sóc để cây mai nhà em luôn xanh tươi và nở nhiều hoa.
d) Qua tết hoa rụng hết chỉ còn trơ cành, em giúp ba tưới nước cho cây để
cây đâm chồi non, ra lá mới, chuẩn bị cho mùa hoa năm sau.
Sắp xếp lại thứ thự đúng các câu trên thành đoạn văn miêu tả hoa mai
(Câu b – Câu a – Câu d – Câu c)
3/. Bài tập rèn kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ trong đoạn văn

13


3.1/. Bài tập nhận diện các biện pháp tu từ trong đoạn văn
Đây là những bài tập nhằm mục đích giúp học sinh nhận ra biện pháp tu
từ (so sánh, nhân hoá) trong đoạn văn. Dữ kiện bài tập là những đoạn văn miêu
tả có sử dụng các biện pháp tu từ. Lệnh của bài tập yêu cầu HS tìm ra những từ
ngữ, hình ảnh có sử dụng biện pháp tu từ (nhân hoá hoặc so sánh) hay nêu tác
dụng của chúng trong đoạn văn miêu tả.
Ví dụ 1 : Gạch dưới các từ ngữ có sử dụng biện pháp nhân hoá trong đoạn
văn sau:
Thân tre vừa tròn lại vừa gai góc. Trên những thân cây tua tủa những vòi
xanh ngỡ như những cánh tay vươn dài. Dưới gốc chi chít những búp măng non.
Búp thì mới nhô ra khỏi mặt đất, búp thì cao ngang ngực em, búp vượt quá đầu
em. Em cứ nghĩ những búp măng ấy chính là những đứa con thân yêu của tre.
Năm năm tháng tháng được mẹ chăm chút, ngày một lớn lên, ngày một trưởng
thành trong bóng mát yêu thương.
(theo Bùi Ngọc Sơn)
Ví dụ 2: Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu nêu bên dưới đoạn
văn:
“Mười chú gà con mới to hơn quả trứng, bộ lông vàng mượt, mịn như tơ.
Cái mỏ hồng hồng, con con, nhú ra từ cái đầu mới to bằng ngón chân cái, trông

rất xinh. Đôi mắt tròn nhỏ bằng hạt đậu lúc nào cũng long lanh như giọt nước.
Hai cái chân nhỏ như hai que tăm. Đặc biệt đôi cánh ngắn cũn cỡn, thỉnh thoảng
lại ve vẩy trông vừa buồn cười vừa đáng yêu.”
(Theo Vũ Thị Thuận - Đàn gà con)
a. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật nào để miêu tả đặc điểm của
chàng gà chọi? (so sánh)
b. Hãy ghi lại những từ ngữ, hình ảnh có sử dụng biện pháp nghệ thuật
được nêu ở câu a? (chú gà con to hơn quả trứng, bộ lông vàng mượt, mịn như
tơ. Cái mỏ to bằng ngón chân cái. Đôi mắt tròn nhỏ bằng hạt đậu,long lanh như
giọt nước. Hai cái chân nhỏ như hai que tăm.)
c. Biện pháp nghệ thuật được dùng trong đoạn văn có tác dụng gì? (Làm
cho câu văn sinh động và giàu hình ảnh)
3.2/. Bài tập rèn kĩ năng sử dụng các biện pháp tu từ
Bài tập rèn kĩ năng sử dụng biện pháp tu từ có mục đích giúp cho HS vận
dụng những kiến thức đã được học về biện pháp tu từ (nhân hoá, so sánh) để
thêm bộ phận còn thiếu trong câu, đoạn nhằm tạo ra những câu văn, đoạn văn
gợi tả, gợi cảm. Nhóm bài tập này được tôi phân chia thành 2 mức độ :
Mức độ thứ nhất: Dữ kiện của bài tập gồm các đoạn văn miêu tả được
lược bỏ những hình ảnh so sánh, nhân hoá. Lệnh của bài tập yêu cầu HS lựa
chọn những từ ngữ, hình ảnh so sánh hay nhân hoá cho sẵn vào chỗ thích hợp.
14


Mức độ thứ hai: Dữ kiện của bài tập gồm tập hợp các câu văn miêu tả.
Lệnh của bài tập yêu cầu HS điền thêm vế câu để tạo ra những hình ảnh so sánh,
nhân hoá trong câu.
Ví dụ 1: Hãy thêm vế câu có hình ảnh so sánh thích hợp vào chỗ trống ở
mỗi dòng dưới đây, tạo thành một câu văn có ý mới mẻ, sinh động và đầy cảm
xúc.
Những bông hoa chuối rực lên như………………… ( ngọn lửa)

Chiếc ngòi bút được cắm vào quản như……………...(dao cắm vào cán)
Gà mẹ nằm xuống hiền từ xù bộ lông như……………(cái chăn ấm áp)
Ví dụ 2 : Dùng biện pháp nhân hoá để viết lại các câu văn sau cho gợi cảm
hơn
a. Chiếc đồng hồ tích tắc đếm thời gian. (Chiếc – Bác; tích tắc – cần
mẫn)
b. Chào mào trông rất sặc sỡ nhưng lại dễ thương. ( sặc sỡ – đỏm dáng,
ăn chơi; dễ thương – tử tế )
c. Những bông hoa đua nhau nở. ( nở - khoe sắc)
d. Ánh trăng chiếu qua kẽ lá.
(chiếu - dịu dàng )
e. Mặt trời đang mọc ở đằng đông. ( đang mọc – e ấp hé sáng )
4/. Bài tập sáng tạo yêu cầu học sinh sử dụng các biện pháp tu từ để luyện
viết câu văn có hình ảnh, cảm xúc
Đây là những bài tập giúp cho HS phát huy khả năng sáng tạo khi viết
câu, đoạn văn miêu tả. Loại bài tập này yêu cầu HS sử dụng biện pháp tu từ để
luyện viết những câu văn, đoạn văn có hình ảnh, cảm xúc. Dữ kiện của bài tập
thường là những chi tiết, sự vật cần được miêu tả. Lệnh bài tập yêu cầu HS đặt
câu hay viết một đoạn văn ngắn xoay quanh các đối tượng miêu tả đã cho, trong
đó có sử dụng các biện pháp tu từ đã học.
Ví dụ 1: Viết ba câu văn có hình ảnh nhân hoá hoặc so sánh để tả:
+ Tiếng chim hót … (véo von như một bản nhạc không lời)
+ Rễ cây …
(ăn sâu vào lòng đất để hút chất dinh dưỡng nuôi cây)
+ Khóa cặp…
(sáng loáng như một chiếc gương soi thu nhỏ)
Ví dụ 2 : Viết lại các đoạn văn sau cho phong phú và giàu hình ảnh hơn
Gốc cây màu nâu. Thân cây màu xanh đậm. Cành cây có nhiều gai nhọn.
Hoa hồng đỏ tươi. Cánh hoa tròn phân thành từng lớp cuộn chặt lấy nhau nhờ
một đài hoa nâng đỡ phía dưới.

Giải pháp 8: GV cần thực hiện nghiêm túc việc chấm chữa bài cho học sinh:
Mục tiêu lớn nhất của bài văn là chất lượng bài viết. Một bài viết hay là
một bài được kết hợp hài hòa nhiều yếu tố: Nội dung, nghệ thuật, cảm xúc.
- Bố cục bài văn đầy đủ. Trình bày đúng yêu cầu.
- Có sự liên kết giữa các ý, các đoạn.
15


- Phong phú về nội dung.
- Lựa chọn chi tiết nổi bật, đúng trọng tâm.
- Hành văn trôi chảy, giọng văn trong sáng.
Tiết trả bài có tác dụng giúp HS sửa chữa các loại lỗi, rút kinh nghiệm
cho bài viết lần sau và học tập được ở bạn những cách viết hay để vận dụng vào
bài viết của mình. Vì vậy tiết trả bài rất quan trọng. GV phải thực hiện kỹ lưỡng,
nghiêm túc không thể làm qua loa đại khái, càng không thể bớt xén thời lượng.
Điều này không mấy GV làm tốt. Vậy muốn có tiết trả bài có hiệu quả , GV cần
làm gì ?
- Chấm bài thật kỹ càng, chữa từng lỗi nhỏ trong bài viết của HS.
- Ghi cẩn thận các loại lỗi theo từng loại: lỗi về cách dùng từ, lỗi câu, lỗi
diễn đạt, lỗi chính tả và cũng cần ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Sau khi chấm bài, GV cần thống kê, đưa ra được nhận xét chung về ưu,
nhược trong bài làm của HS.
- Trong giờ trả bài cần làm tốt các công việc sau:
+ Nhận xét, đánh giá ưu nhược.
+ Nêu các lỗi HS mắc phải, hướng dẫn HS chữa lỗi.
+ Trả bài, tổ chức thảo luận nhóm bàn để các em trao đổi với bạn về cách
làm của mình, đọc cho nhau nghe các câu văn hay, giúp nhau cùng sửa lỗi trong
bài làm.
+ HS tự chữa lỗi hoặc viết lại đoạn văn có lỗi của mình cho đạt yêu cầu.
Tóm lại: Làm tốt được khâu trả bài, thực hiện đúng, đầy đủ trình tự các

bước làm bài văn và không ngừng tích luỹ vốn từ không chỉ ở tiết Tập làm văn
mà ở tất cả các tiết học, bài học của môn tiếng Việt tôi tin chắc rằng HS sẽ ngày
một học tốt hơn phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài miêu tả nói riêng.
4 . Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục , với
bản thân , đồng nghiệp và nhà trường.
Sau khi nghiên cứu và áp dụng tôi thấy bài viết cuả học sinh đã có sự thay đổi
và tiến bộ rõ rệt. Những em có năng khiếu một chút đã có những bài viết độc
đáo, giàu sức sáng tạo, cảm xúc chân thành. Còn những em đầu năm viết kém
thì cuối năm bài viết cũng đã đạt yêu cầu của đề bài, câu văn trôi chảy, bố cục
bài chặt chẽ đủ các ý. Nhiều em đã biết cách sử dụng từ chính xác hơn, biết cách
sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá, từ láy, điệp từ...trong miêu tả. Cụ thể các
bài văn của học sinh đã có sự sáng tạo: Từ, ý văn, bài làm của các em không còn
giống nhau về ngôn ngữ và hình thức viết không theo khuôn mẫu nào cả. Các
em biết sử dụng từ ngữ, ngôn ngữ phong phú cần thiết vào bài viết của mình.
Viết đúng nội dung yêu cầu đề một cách chân thực, các em có hứng thú học văn,
16


trong khi viết các em đã tự tin vào nhận thức của bản thân mình.Trong giờ học
các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng cần miêu tả. Tôi
rất vui khi thấy có khá nhiều học sinh đã có cuốn sổ tay riêng để ghi những điều
quan sát được và những câu văn hay, từ ngữ gợi tả, gợi cảm,…Có thể nói rằng
học sinh đã không còn ngại khi học văn miêu tả. Học sinh dùng từ chính xác, sử
dụng từ hay biết viết thành câu, kĩ năng viết văn có tiến bộ, nhiều em viết hay
được chọn làm bài mẫu để đọc trước lớp. Thể loại văn miêu tả được các em
thích hơn.
Học sinh có tinh thần hợp tác, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn bè
mình và mạnh dạn nhận xét về bài làm của bạn.
Cuối năm tôi đã ra đề kiểm tra và đã thu được kết quả như sau :
Đề bài: Em hãy tả lại một con vật nuôi mà em yêu thích.

* Kết quả như sau:
Tổng số
HS
30

HS HTT

Tỉ lệ

HS HT

Tỉ lệ

7

23,3 %

23

76,7 %

HS
chưaHT
0

Tỉ lệ

Như vậy, so với đầu năm học, trong lớp không còn học sinh chưa hoàn thành.

17



III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
1. Kết luận
Muốn có những bài văn hay, giàu hình ảnh, đúng trọng tâm của đề, người
giáo viên có một vai trò vô cùng quan trọng. GV cần có sự chuẩn bị kỹ càng cho
mỗi giờ học, nắm chắc được các bước dạy một tiết Tập làm văn, nắm vững được
dàn bài chung của mỗi thể loại văn, hướng dẫn các em đi đúng trọng tâm của đề,
tránh lối viết lan man, hời hợt. Khơi dậy trong học sinh sự yêu thích môn học,
say mê tìm tòi, ham đọc sách. Bên cạnh đấy là sự nỗ lực không ngừng của bản
thân mỗi học sinh dưới sự quan tâm kèm cặp thường xuyên của các bậc phụ
huynh.
Để dạy tốt văn miêu tả, giáo viên cần phải đầu tư thời gian, công sức và
trí tuệ của bản thân. Cần rèn cho học sinh làm bài đúng quy trình, không cắt xén
những nội dung hình thức làm đã nêu ở trên.
- Việc dạy văn miêu tả cần phải coi trọng khâu quan sát. Đồng thời việc
thực hành ghi chép rất cơ bản.
- Không sao chép các bài văn mẫu.
- Luyện nói, viết rõ ràng mạnh lạc.
- Yêu cầu quan sát và miêu tả phải chân thực.
- Biết vận dụng vốn từ ngữ và vốn sống, nghệ thuật miêu tả linh hoạt
chính xác.
- Thường xuyên học hỏi qua sách tham khảo, tài liệu, sách giáo khoa và
học hỏi đồng nghiệp để có kiến thức, phương pháp dạy Tập làm văn vững vàng.
- Bồi dưỡng, phụ đạo học sinh yếu bắt buộc phải soạn thảo các bài tập, bài
làm rõ ràng phù hợp.
- Thay đổi phương pháp giảng dạy thích hợp.
- Khen thưởng, chấm bài tập kịp thời, chính xác.
2. Đề xuất.
a. Đối với chương trình, SGK

Chương trình SGK nên thay đổi một cách có hệ thống hơn sao cho nội
dung, kĩ năng mà các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu đều phục vụ cho các
kĩ năng viết đoạn văn miêu tả cho học sinh. Trong các bài Tập làm văn, cần phải
cung cấp những ngữ liệu miêu tả gần gũi với HS từng vùng, từng miền. Phân
môn Luyện từ và câu cần cung cấp thật nhiều bài tập cung cấp vốn từ miêu tả
cũng như kĩ năng về dùng từ, đặt câu, liên kết câu, sử dụng các biện pháp tu từ
trong câu, đoạn.
Chương trình cần xây dựng hệ thống bài tập đầy đủ và cụ thể cho từng bài
ở phân môn Tập làm văn theo hướng mà đề tài nghiên cứu.
Những bài văn miêu tả quá xa lạ đối với học sinh thì không nên đưa vào
chương trình: Ví dụ: Bài cối xay lúa, cây sầu đâu
18


b. Đối với trường Tiểu học.
Giáo viên phải thường xuyên tự bồi dưỡng về mặt kiến thức cũng như
chuyên môn, bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học; rèn luyện kĩ năng vận dụng
các kĩ thuật dạy học tích cực vào trong việc giảng dạy tập làm văn miêu tả.
Giáo viên cần chú ý hình thành và rèn luyện thói quen tự suy nghĩ, sáng
tạo của học sinh trong từng tiết học. Song song đó, giáo viên cũng cần có biện
pháp khuyến khích học sinh tự tin, mạnh dạn trong việc học hỏi từ bạn bè, thầy
cô các kĩ năng viết văn cũng như trong học tập nhằm phát huy hết năng lực cá
nhân trong giờ học tập làm văn miêu tả.
Trong phạm vi bài viết có hạn, những điều tôi trình bày ở trên chắc chắn
vẫn không tránh khỏi có những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của hội đồng
khoa học các cấp, của đồng nghiệp để tôi vận dụng trong việc hướng dẫn học
sinh viết bài văn miêu tả đạt kết quả cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, ngày 28 tháng 3 năm 2017
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG


NGƯỜI VIẾT

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Trần Thị Thanh Hà

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học số 89 tháng 4/2004 bài Diễn đàn về chỉ đạo giảng
dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản Giáo dục
2. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II. tác giả: GS.TS Lê Phương
Nga - Nguyễn Trí (Hà Nội 1995)
3. Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục năm 2005
4. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 Tập I + II Năm 2005
5. 207 đề và bài văn Tiểu học - Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội
6. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy môn Tiếng Việt ở Tiểu học - Nhà xuất bản
Giáo dục - năm 1999.
7. Thế giới quanh ta số 185 xuất bản tháng 5/2004 bài “Hỏi đáp về Tập làm văn
lớp 4”

20


MỤC LỤC


NỘI DUNG

TRANG

I. MỞ ĐẦU

1

II. NỘI DUNG

3

1. Cơ sở lí luận của sáng kiến

3

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

5

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo

16

dục với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT


18

1. Kết luận

18

2. Đề xuất

18

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Thanh Hà.
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Tổ trưởng tổ 2 ( Khối 4 – 5)
Trường Tiểu học Quảng Phú – Thành phố Thanh Hóa.
Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,

hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Biện pháp rèn kĩ năng đọc
diễn cảm cho học sinh lớp 5.

Phòng GD &
ĐT huyện
Quảng Xương

C

2003 - 2004

2.

Đổi mới phương pháp dạy
học môn Toán lớp 3 và rèn kĩ
năng nhân chia ngoài bảng.

Phòng GD &

ĐT huyện
Quảng Xương

C

2004 - 2005

3.

Rèn kĩ năng giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 5 theo
hướng tích cực hóa hoạt động
của học sinh.

Phòng GD &
ĐT huyện
Quảng Xương

B

2007 - 2008

4.

Rèn kĩ năng giải toán có lời
văn cho học sinh lớp 5 theo
hướng tích cực hóa hoạt động
của học sinh.

Sở GD &ĐT

Tỉnh Thanh
Hóa.

C

2007 - 2008

5.

Biện pháp rèn kĩ năng đọc
cho học sinh lớp 3.

Phòng GD &
ĐT huyện
Quảng Xương

C

2010 - 2011

6

Biện pháp phát huy tính tích
cực của học sinh khi dạy môn
lịch sử lớp 5.

Phòng GD
&ĐT Thành
phố Thanh
Hóa.


C

2014 -2015

22



×