Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miểu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.29 KB, 24 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GD & ĐT THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG
VIẾT VĂN MIÊU TẢ CHO HỌC SINH LỚP 4

Người thực hiện: Lê Thị Hạnh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Thành – Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Tiếng Việt

THANH HĨA NĂM 2018


MỤC LỤC
TÊN ĐỀ MỤC
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
II. Thực trạng
1. Thực trạng về việc dạy và học Tập làm văn của giáo viên và học sinh.
2. Thực trạng dạy và học Tập làm văn của lớp 4B trường Tiểu học
Xuân Thành – Thọ Xuân
III. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
Biện pháp 1: Rèn viết những câu văn sinh động, có hình ảnh.


1. Rèn viết câu đúng ngữ pháp.
2. Mở rộng câu.
3. So sánh đối chiếu các câu văn, đoạn văn.
4. Sử dụng biện pháp tu từ.
5. Luyện từ.
Biện pháp 2: Rèn viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý.
1. Sắp xếp câu thành đoạn văn.
2. Luyện viết đoạn văn theo chủ đề.
Biện pháp 3: Rèn viết bài văn có bố cục chặt chẽ.
1. Phần mở bài.
2. Phần thân bài.
3. Phần kết bài.
Biện pháp 4: Tích lũy các từ ngữ, hình ảnh văn học.
IV. Kết quả đạt được.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
* Tài liệu tham khảo
* Danh mục các đề tài SKKN đã được xếp loại
* Phụ lục: Một số bài văn miêu tả của học sinh lớp 4B

A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài

TRANG
1
1
1
2
2

2
2
2
2
3
4
4
4
4
5
5
7
8
8
8
10
10
10
10
14
14
15
15
15
17
18
19 - 26


Đảng ta đã nhận định “Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống giáo

dục quốc dân”, nền tảng có vững chắc thì tồn hệ thống mới tạo nên cấu trúc bền
vững và phát triển hài hòa. Giáo dục Tiểu học tạo tiền đề cơ bản để nâng cao dân
trí, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành người có
ích trong thời kì mới.
Trong cuộc sống hàng ngày, muốn mọi người nhận ra những điều mình
chưa nhìn thấy chúng ta phải miêu tả. Văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc, hiện
tượng bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể giúp người đọc nhìn rõ chúng,
tưởng như mình đang xem tận mắt, bắt tận tay. Hay nói cách khác: "Văn miêu tả
là hòn đá thử vàng đối với các tài năng văn học, tạo nên sức hấp dẫn của các tác
phẩm văn học".
Đặc biệt văn miêu tả là một thể loại bắt buộc học sinh phải có sự quan sát,
óc tưởng tượng, cách chọn lọc chi tiết. Ở lớp 4, các em đã được làm quen với
văn miêu tả đó là tả lại các đồ vật thân thuộc với các em, quen dần các em tả cây
cối, con vật, cảnh vật xung quanh cuộc sống. Nghĩa là các em được tả từ một vật
tĩnh có thể cầm lên quan sát, tiếp đó là tả các con vật có hoạt động, có ngơn ngữ.
Cuối cùng là các em học tả quang cảnh môi trường trong phạm vi rộng hơn.
Vì vậy, học phân mơn Tập làm văn, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ
đẹp của đồ vật, con vật, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình; các em
có dịp hướng tới cái chân, thiện, mĩ... được định hướng trong các đề bài. Những
cơ hội đó làm cho tình cảm u mến, gắn bó giữa đồ vật, con vật, thiên nhiên
với con người và sự việc xung quanh của trẻ nảy nở, tâm hồn tình cảm của trẻ
thêm phong phú. Đó là những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân
cách tốt đẹp của trẻ.
Muốn làm tốt được các dạng bài này đòi hỏi các em phải có một kiến thức
và vốn hiểu biết phong phú, học sinh cần huy động các kiến thức về tập đọc,
luyện từ và câu, vốn hiểu biết... Thực tế qua nhiều năm giảng dạy phân môn tập
làm văn ở lớp 4 tôi nhận thấy rằng: Kĩ năng viết bài của các em chưa tốt, câu văn
thường rườm, diễn đạt chưa rõ, ý lan man, chưa có sự sắp xếp, liên kết chặt chẽ.
Chính vì điều này mà tơi muốn tìm ra một số biện pháp: "Rèn kĩ năng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 4". Qua đây tôi muốn bồi dưỡng, rèn luyện tốt kĩ năng

viết văn cho học sinh, tạo cơ sở để các em học tốt mơn văn lớp trên.
II. Mục đích nghiên cứu


- Tìm hiểu cách rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 như thế nào để
đạt hiệu quả nhất.
- Tìm ra phương pháp tối ưu nhất dạy viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
- Lí giải cho những vướng mắc, cách ứng xử những tình huống có thể xảy ra khi
dạy kiểu bài văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn.
- Nhằm giúp học sinh viết được những câu văn sinh động, có hình ảnh, các ý
được liên kết chặt chẽ, diễn đạt rõ ràng góp phần nâng cao chất lượng viết văn
miêu tả cho học sinh lớp 4.
III. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 trường
Tiểu học Xuân Thành – Thọ Xuân – Thanh Hóa.
IV. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
- Phương pháp quan sát sư phạm.
- Phương pháp điều tra giáo dục.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp ngữ liệu
- Phương pháp thống kê

B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận
Học tốt là điều kiện đầu tiên chắp cánh cho ước mơ và hoài bão cho các
em được bay cao, bay xa. Học tốt văn giúp cho tâm hồn của các em thêm phong
phú, nó góp phần đóng góp những tình cảm lớn, tư tưởng lớn ở các em.
Chúng ta thấy rằng làm văn miêu tả là dùng lời văn có hình ảnh, làm hiện
ra "vẽ ra" trước mắt người đọc, người nghe bức tranh cụ thể về một đối tượng đã

làm ta chú ý và cảm xúc sâu sắc. Do vậy, bài văn miêu tả trước hết cần có tính
chân thực (đúng thực tế, đúng bản chất của đối tượng). Dạy cho học sinh tiểu
học miêu tả chân thực một đối tượng, trước hết phải đi từ yêu cầu tả đúng thực
tế, nghĩa là thông qua việc quan sát trực tiếp bằng nhiều giác quan, chọn được từ
ngữ thích hợp, diễn tả được đúng đối tượng, không làm cho người đọc hiểu sai
hoặc khơng hình dung được nó.


Văn miêu tả rất phù hợp với lứa tuổi các em tiểu học (ưa quan sát, thích
nhận xét thiên nhiên về cảm tính...). Lớn lên các em trực tiếp được gần gũi với
các đồ vật, cảnh vật xung quanh mình, đây là điều kiện tốt cho giáo viên dạy cho
các em cách làm miêu tả. Dạy cho học sinh có kĩ năng viết văn là giúp các em
biết quan sát, biết sử dụng, phát triển ngơn ngữ của mình với thế giới xung
quanh. Học văn miêu tả học sinh có thêm điều kiện để tạo nên sự thống nhất
giữa tư duy và tình cảm, ngơn ngữ và cuộc sống, con người với thiên nhiên để
khêu gợi những tình cảm, cảm xúc, ý nghĩ cao thượng, đẹp đẽ...cho các em tiếp
xúc với thiên nhiên. Các em biết mô tả lại, biết sử dụng, lựa chọn các từ ngữ phù
hợp trong làm bài. Ví dụ như khi tả cái trống các em biết sử dụng hình ảnh nhân
hóa: “Anh chàng trống", hay "Bác trống". Ngồi ra, học sinh cịn biết viết câu
văn sáng sủa, đúng ngữ pháp, đoạn văn logic, bài văn hay.
II. Thực trạng
1. Thực trạng về việc dạy và học Tập làm văn của giáo viên và học sinh.
Từ thực tiễn dạy học sinh làm văn những năm qua, tôi thấy cịn gặp nhiều
khó khăn: bài viết của các em ít hình ảnh, chưa có sự liên kết về bố cục, vốn từ
còn hạn hẹp, viết câu còn sai, diễn đạt chưa rõ...Học phân môn này các em
thường lúng túng, có em viết lan man khơng đúng trọng tâm đề bài yêu cầu, ý
nghèo nàn, bài viết còn sơ sài chỉ mang tính liệt kê, và chưa lồng cảm xúc của
mình vào bài viết.
Trong q trình giảng dạy mơn Tập làm văn lớp 4 nói chung và dạy học
sinh làm văn miêu tả nói riêng, bản thân tơi nhận thấy việc dạy của giáo viên và

làm văn của học sinh cịn gặp nhiều khó khăn.
* Về phía học sinh: Đa số các em ngại đọc sách, có đọc chẳng qua để biết, để
thõa mãn sự hiếu kỳ chứ chưa biết nghiền ngẫm, suy nghĩ để học tập cách làm
bài, nắm về bố cục bài văn, chưa biết cách quan sát sự vật hiện tượng, khi làm
bài văn miêu tả còn sa vào kể lể, câu văn cụt lủn, dùng từ thiếu chính xác, bài
văn đơn điệu, sáo rỗng, lạc đề. Các em chưa biết kết hợp trí tưởng tượng và liên
tưởng, chưa biết thể hiện, tình cảm, cảm xúc...chẳng hạn, khi giáo viên hướng
dẫn quan sát cảnh thật, vật thật các em thiếu sự chú ý không xác định được góc
nhìn của mình từ đâu và khơng biết kết hợp nhiều giác quan để quan sát, chưa
biết quan sát để tìm ra nét độc đáo của sự vật, gắn liền với tình cảm, thái độ các
em đối với sự vật định tả.


* Về phía giáo viên: Qua trao đổi với đồng nghiệp, tơi thấy một số giáo viên
cịn chú trọng lí thuyết, coi nhẹ luyện kĩ năng. Như ta đã biết làm được bài văn
đối với học sinh lớp 4 phải qua các bước: Quan sát tìm ý, lập dàn bài, cuối cùng
mới đến làm viết. Để đạt được kết quả cuối cùng có chất lượng thì người giáo
viên phải hướng cho các em biết làm bài tốt trong từng tiết học, trong khi dạy
người giáo viên phải biết sử dụng đa dạng các phương pháp dạy học, tham khảo
các tài liệu phục vụ bài học. Mặt khác vốn văn chương của một số giáo viên
cũng hạn chế, giáo viên rất ngại dạy tiết Tập làm văn, khi dạy còn để học sinh
nhìn văn mẫu sao chép lại, chưa phát huy được tính tự giác, tích cực sáng tạo
của học sinh, dẫn đến chất lượng bài làm của học sinh còn thấp.
2. Thực trạng dạy và học Tập làm văn của học sinh lớp 4B trường Tiểu học
Xuân Thành- Thọ Xuân.
Năm học 2017 – 2018 tôi được phân công giảng dạy lớp 4B, lớp tơi có 25
em, phần đa các em là con gia đình làm nơng nghiệp, vì vậy kĩ năng sử dụng
ngơn ngữ của các em cịn nhiều hạn chế. Ngồi những khó khăn như đã nêu ở
trên, nhìn chung chất lượng môn văn của học sinh lớp tôi còn thấp: khi viết câu
văn, ý, đoạn còn rời rạc, bài văn chưa có bố cục rõ ràng, nội dung sơ sài, câu văn

thiếu hình ảnh... nhiều bài văn miêu tả còn sa vào kể lể, câu văn cụt lủn, dùng từ
thiếu chính xác.
Ngay từ đầu năm học tơi đã tiến hành khảo sát và chất lượng như sau:
Lớp

4B

Tổng số
HS

Số HS
hoàn thành tốt

Số HS
hoàn thành

Số HS
chưa hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%


4

16

10

40

11

44

25

Xuất phát từ thực trạng trên, tôi thấy cần phải nghiên cứu để tìm ra các
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng làm văn miêu tả cho học sinh.
III. Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4.
Biện pháp 1: Rèn viết những câu văn sinh động, có hình ảnh.
1. Rèn viết câu đúng ngữ pháp
Trước hết để viết được câu văn hay thì các em phải viết được câu văn đúng
ngữ pháp. Phần này rất nhiều học sinh mắc lỗi, các em thường viết những câu


rất dài hoặc chưa rõ ý. Để khắc phục điều này tôi đã hướng dẫn học sinh làm bài
tập như sau:
a) Dòng nào chưa thành câu, dòng nào đã thành câu trong các dòng dưới đây.
- Cây đa này.
- Cây đa này tán lá xum xuê.
HS sẽ nhận ra dòng sau đã thành câu với đủ bộ phận chủ ngữ, vị ngữ.

b) Sắp xếp các cụm từ sau thành câu:
- Hai bên đường.
- Các con đường ở thôn Cảnh Dương.
- Nhà cửa mọc san sát.
- Cát mịn và thẳng tắp.
HS sắp xếp được: Hai bên đường nhà cửa mọc san sát.
Các con đường ở thôn Cảnh Dương cát mịn và thẳng tắp.
c) Dùng dấu chấm, dấu phẩy ngắt câu và viết hoa cho đúng đoạn văn sau:
Bây giờ đang tháng ba đồng cỏ vẫn giữ nguyên vẻ đẹp như hồi đầu xuân
bầu trời cao vút xa xa trập trùng những đám mây trắng khơng khí trong lành
ngọt ngào đàn bị tung tăng nhảy đám cỏ trước mặt đàn bò gặm một loáng sạch
trơn chúng nhảy cẫng lên rồi đuổi nhau thành một vịng trịn.
Phần luyện câu đúng đã được tơi lồng vào trong các tiết dạy về câu và từ,
học sinh đã biết viết câu đúng theo cấu trúc ngữ pháp.
2. Mở rộng câu:
Tôi dạy chủ yếu trong tiết luyện từ và câu, tập làm văn là nhiều.
Từ một câu ngắn chỉ có bộ phận nịng cốt hoặc một ý cho trước tôi hướng
dẫn học sinh mở rộng câu bằng cách thêm các từ, sử dụng các hình thức làm câu
văn chân thực, sinh động. Bài tập yêu cầu từ dễ đến khó.
Ví dụ:
Thêm từ vào dấu (...) hoặc vạch xiên (/) để câu văn sinh động.
+ Bông cúc / đẹp.
Học sinh sẽ suy nghĩ thêm từ ngữ nói về bơng cúc, bộc lộ vẻ đẹp của nó như:
Bơng cúc xòe những cánh hoa trắng tinh, rung rinh vui đùa trước gió trơng thật
là đẹp.
+ Phía đơng .......mặt trời ......nhơ lên đỏ rực.
Học sinh suy nghĩ điền: Phía đơng sau những rặng núi xa xa, mặt trời như quả
cầu lửa nhô lên đỏ rực.



+ Con mèo ......bắt được con chuột........
Học sinh điền: Con mèo với cú nhảy điêu luyện đã bắt được con chuột trong
nháy mắt.
Với dạng bài tập trên, làm tốt học sinh sẽ nhận thấy rằng: khi miêu tả
không những giới thiệu bằng lời văn đúng mà câu văn còn phải sinh động, giàu
hình ảnh mới có sức lơi cuốn người đọc và người nghe.
3. So sánh đối chiếu các câu văn, đoạn văn.
- Giáo viên đưa các cặp câu văn, đoạn văn, yêu cầu học sinh so sánh rút ra các
câu văn hay.
a. Ví dụ 1: So sánh các câu văn sau đây:
+ Hoa mai khi nở đẹp.
+ Hoa mai khi nở, cánh hoa xòe ra mịn màng như dải lụa, ánh lên màu sắc
vàng tươi, nuột nà và "thấp thoáng" một mùi hương.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thấy câu văn nào hay, vì sao?
Học sinh sẽ nhận ra: Rõ ràng câu 2 hay hơn vì nó tả cụ thể hơn.
Hoa mai đẹp hơn? Màu sắc ra sao ? Câu 2 đã sử dụng biện pháp so sánh, các
tính từ chỉ mức độ làm cho câu văn có sức truyền tải lớn hơn.
b. Ví dụ 2: So sánh các câu sau:
+ Lộc bàng màu xanh.
+ Lộc bàng đẹp như cây nến xanh, nghển mình lên chờ có người thắp sáng.
Học sinh sẽ tìm ra câu sau hay hơn câu trước vì ở đó sử dụng biện pháp tu từ:
Lộc bàng giống cây nến có tâm hồn, hoạt động giống con người.
c. Ví dụ 3: so sánh 2 đoạn văn:
+ Từ bé tơi đã thích ni chim. Chim vàng anh có bộ lơng vàng, chim sáo lơng đen
mượt, chim vẹt có nhiều màu sắc. Tơi có thể ngồi bên con chim đó suốt cả ngày.
+ Từ bé tơi đã thích làm bạn với nhiều loại chim. Tôi yêu vàng anh có bộ lơng
vàng óng ả, chim sáo đen bóng mượt như nhung. Cịn những chú vẹt lơng xanh
pha vàng, mỏ đỏ như tô son càng làm tôi say đắm...
Qua bài tập so sánh 2 đoạn văn giáo viên cho học sinh thấy rằng trong
miêu tả, ngoài việc tả đúng, hay cần bộc lộ cảm xúc. Có yêu vật mới cảm thấy

thân thiết, thấy đẹp, mới viết được những câu văn hay, đúng, gợi cảm, dễ thuyết
phục người đọc.
4. Sử dụng các biện pháp tu từ.
a. So sánh:


Ban đầu giáo viên cho học sinh làm quen với một số dạng bài tập về thành
ngữ, quán ngữ.
Ví dụ: - Đen như (than)
- Nhanh như (cắt).
- Đỏ như (son)
- Cứng như (thép).
Học sinh dựa vào tính chất các sự việc xung quanh để so sánh. Quen dần đưa ra
các dạng bài tập: điền vào chỗ chấm các câu sau:
- Cây bàng ở trước trường gốc to như...........tán lá sum suê tựa ...........
- Mẹ em có mái tóc đen như ........, bà em có mái tóc trắng như.............
Học sinh phải dùng óc liên tưởng, nhận xét, so sánh với nghĩa giống để tìm ra:
- Gốc bàng to như cột đình, tán lá sum suê tựa như cái ô khổng lồ.
- Mẹ em có mái tóc đen như gỗ mun, bà em có mái tóc trắng như cước.
b. Nhân hóa:
Học sinh biết sử dụng biện pháp nhân hóa, biến đồ vật, lồi cây, cây cối
có hoạt động, tình cảm, suy nghĩ như con người. Học sinh biết gọi đồ vật, loài
vật là cậu, cô, chú, anh..., thể hiện sự gần gũi thân thiết với các vật tả. Khi dạy
phần này giáo viên cần đưa ra các dạng bài tập như sau: Dùng biện pháp nhân
hóa viết lại các câu sau:
- Mấy con chim hót ríu rít trên cành cây.
- Những bơng hoa nở trong nắng sớm.
Học sinh tìm ra các hoạt động, trạng thái chính của sự vật trong câu cần nhân
hóa, từ đó diễn đạt lại câu.
Ví dụ : Mấy con chim trị chuyện ríu rít trên cành cây.

Những bơng hoa tươi cười trong nắng sớm.
Học sinh biết sử dụng biện pháp này khi tả đồ vật, loài vật như: anh chàng
trống, chị mèo, chị bắp cải, cô xà lách...
c. Điệp ngữ:
Đó là hiện tượng lặp từ nhiều lần trong một đoạn, một câu nhằm nhấn
mạnh ý cần diễn đạt. Dạng bài tập này kết hợp với cảm thụ văn học. Giáo viên
có thể đưa ra ví dụ.
Chỉ rõ điệp ngữ trong đoạn văn đây và cho biết tác dụng của nó:
"Thoắt cái, lác đác lá vàng rơi trong khoảnh khắc mùa thu. Thoắt cái, trắng
long lanh một cơn mưa tuyết trên những cành đào, lê, mận. Thoắt cái, gió xuân
hây hẩy nồng nàn với những bông hoa lay ơn màu đen nhung hiếm quý".


Học sinh sẽ tìm ngay được từ "thoắt cái" được lặp lại gợi cảm xúc đột ngột, ngỡ
ngàng, nhấn mạnh sự thay đổi rất nhanh của thời gian.
Hoặc qua bài ca dao "Đi cấy" có những điệp ngữ nào được lặp lại nhiều lần, nó
có tác dụng gì ?
Học sinh sẽ có suy nghĩ tìm ra được từ "trơng" được lặp lại nhiều lần có tác
dụng nhấn mạnh ý nghĩa sâu sắc. Người đi cấy ln ln tính tốn, lo lắng,
mong mỏi rất nhiều điều để công việc đạt kết quả tốt, bản thân được yên lòng.
Qua việc luyện tập, vận dụng các bài tập, học sinh được vận dụng viết
những câu văn có sử dụng điệp ngữ.
d. Đảo ngữ:
Thay đổi vị trí, trật tự các thành phần ngữ pháp trong câu nhằm nhấn
mạnh sự vật miêu tả.
Giáo viên khi dạy thường đưa ra các bài tập cụ thể như sau để học sinh tìm chủ
ngữ - vị ngữ trong câu.
Ví dụ : Đẹp vơ cùng Tổ quốc ta ơi !
Mỗi mùa xuân thơm lừng hoa bưởi
Rắc trắng vườn nhà những cánh hoa vương.

Đọc dạng bài tập này học sinh sẽ nhận ra vị ngữ đứng trước, chủ ngữ đứng sau.
Nội dung của câu đảo ngữ nội dung hay hơn, sâu hơn, nhấn mạnh ý cần nói: Ta
cảm thấy Tổ quốc đẹp hơn, màu hoa thơm hơn, trắng hơn, gây ấn tượng mạnh
cho người đọc....
Nói tóm lại : So sánh, nhân hóa, điệp ngữ, đảo ngữ là một số biện pháp tu
từ luyện câu, học sinh được học qua làm bài tập, nắm bản chất để vận dụng vào
việc luyện viết câu văn của mình.
5. Luyện từ:
Từ đúng, hay, giàu hình ảnh đặt đúng chỗ trong câu sẽ mang lại hiệu quả
cao. Trong khi giáo viên cần cho học sinh nắm rõ nghĩa của từ, chọn lựa từ để
diễn đạt các chi tiết cụ thể. Các tiết tập đọc, từ ngữ phục vụ đắc lực cho dạng bài
tập này. Giáo viên có thể cho học sinh hiểu từ, ý của từ trong văn cảnh, từ đứng
độc lập.
Một số dạng bài tập thực hành cho học sinh:
a. Tìm từ:
- Tìm những từ ngữ chỉ ý "to" khi nhận xét về con vật, đồ vật. (to, lớn, đồ sộ,
phổng phao...)


- Tìm những từ chỉ mức độ của mùi thơm. (thơm thoang thoảng, thơm lừng,
thơm ngát, thơm ngây ngất...)
- Tìm từ ghép, hoặc từ láy theo mẫu: Trắng + x; đỏ + x...(trắng phau, trắng
ngần, trắng trẻo, đỏ ối, đỏ rực, đo đỏ...)
b. Sắp xếp từ theo nhóm.
- Sắp xếp các từ sau thành nhóm, đặt tên cho mỗi nhóm : béo, phản bội, tầm thước,
gầy, trung thực, hiền lành, thơng minh, thấp...( 2 nhóm: hình dáng và phẩm chất).
- Sắp xếp các cặp từ trái nghĩa: Sống, đẹp, khôn, tươm tất, luộm thuộm, chết,
xấu, ngu đần...
c. Tìm nghĩa của từ.
+ Tìm nghĩa của từ "nhà" trong các ví dụ sau:

- Nhà tôi đi vắng rồi
- Tôi vừa xây ngôi nhà mới.
- Nhà Trần suy tàn.
d. Tìm từ sai, thay từ trong văn cảnh.
VD : Nước da đen láy vì dãi dầu mưa nắng.
Ớ bài tập này tôi yêu cầu học sinh nêu đối tượng, nội dung miêu tả, sau đó thay
thế từ dùng sai.
Hỏi học sinh: + Đối tượng miêu tả là gì? (nước da).
+ Nội dung miêu tả? (đen láy).
+ Đen láy là từ ghép thường miêu tả gì? (mắt). Như vậy đen láy là từ dùng sai.
+ Để miêu tả nước da đen ta có thể dùng những từ nào? (đen sạm, ngăm ngăm
đen, đen giịn...).
Ở ví dụ trên ta thay từ đen láy bằng từ đen sạm là chính xác.
đ. Thay từ (dạng cùng nghĩa) để câu văn hay hơn, cụ thể hơn.
VD: - Cây chanh nở hoa rất trắng.
- Mùi hoa bưởi thơm lắm.
- Các loài hoa đua nhau khoe nhiều màu sắc.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thay từ, ban đầu cho học sinh hiểu nghĩa từ cần
thay thế: rất trắng – Cây chanh nở hoa toàn bộ màu trắng, thay bằng từ: trắng
muốt – Cây chanh nở hoa trắng muốt.
Tương tự học sinh thay được : Mùi hoa bưởi thơm ngan ngát.
Các loài hoa đua nhau khoe sắc màu rực rỡ.


Tóm lại: Phần luyện câu cho học sinh bao gồm: Luyện câu đúng ngữ
pháp, đúng nội dung và luyện viết câu văn sinh động có hình ảnh. Muốn viết
được những câu văn hay phải viết được những câu văn đúng ngữ pháp. Đó là
việc làm rất cần thiết của mỗi giáo viên khi dạy học sinh viết câu, đoạn, bài văn.
Biện pháp 2: Rèn viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý.
1. Sắp xếp câu thành đoạn văn

Ở các tiết luyện từ và câu, các tiết trả bài, tôi đã đưa ra các bài tập về sắp
xếp câu thành đoạn.
Ví dụ : Sắp xếp các câu sau thành đoạn.
+ Thế là tôi mạo hiểm trèo lên bắt chú sáo mỏ vàng.
+ Tơi đang mơ ước có một chú sáo biết nói.
+ Một hơm, tơi phát hiện thấy một chú sáo mỏ vàng cực đẹp trên cây đa cao tít
trước nhà.
+ Sáng nay có lẽ tơi cài lồng khơng kĩ nên khi đi học về thì khơng thấy sáo đâu nữa.
Hôm nào trước khi đi học, tôi cũng đều cho sáo ăn.
+ Tôi đem sáo về chăm sóc rất kĩ.
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc kĩ các câu, nắm ý của từng câu, diễn
biến sự việc để sắp xếp thành một đoạn văn theo trình tự hợp lí.
2. Luyện viết đoạn văn theo chủ đề.
VD: - Viết 1 đoạn văn ngắn (5 -7 câu) giới thiệu cái thước của em.
- Viết 1 đoạn văn ngắn (5 - 7 câu) miêu tả vẻ đẹp của cây bàng.
Đây là loại bài tập viết văn ngắn, nêu yêu cầu chỉ định về số lượng câu.
Học sinh viết giới thiệu về một đối tượng nhất định. Tương tự như thế, ở mỗi đề
tập làm văn, có thể yêu cầu học sinh lập dàn bài cụ thể, cho cả lớp luyện tập viết
phần mở bài, kết luận hoặc chọn những chi tiết chính phần thân bài viết thành
đoạn văn. Yêu cầu học sinh đọc kết quả bài làm giáo viên hướng dẫn cả lớp
cùng sửa chữa, bổ sung nêu ý kiến.
Giáo viên có thể hướng dẫn vài cách viết đoạn văn: Diễn dịch, quy nạp,
phép lặp...với học sinh lớp 4B đa số các em viết theo phương pháp diễn dịch.
VD : Cây bàng mùa xuân thật đẹp. Những cành khẳng khiu trụi lá hôm nào giờ
đã tràn đầy lộc biếc. Dáng mọc của lộc rất lạ, thẳng đứng trên cành, như thể
đêm qua có ai đã thả ngàn vạn búp lá nhỏ xíu từ trên trời, xanh biếc chi chít
đầy cành. Lá non lớn nhanh, đứng thẳng và cao chừng gang tay, cuộn tròn như


những chiếc tai nhỏ. Tán bàng giờ là một màu áo lục non lỗ đỗ những vệt hoa

hồng thắm.
Hoặc : "Cái cặp của em rất đẹp" sau đó kể các chi tiết phục vụ cho cái "đẹp" mà
các em thích.
Khi chấm bài, giáo viên nên chấm tỉ mỉ, sửa sai và có lời phê chuẩn xác,
cụ thể. Học sinh lớp 4 nhận thức về đoạn văn còn sơ đẳng, qua luyện tập giáo
viên giúp học sinh cảm nhận, bước đầu nhận thức được sự liên kết ý,các câu văn
có sự liền mạch, có quan hệ về ý với nhau, khơng rời rạc, lộn xộn, ý trong đoạn
được diễn tả theo một trình tự nhất định.
Khi tả một đồ vật hoặc một vài loài vật cụ thể các em thường viết theo
trình tự từ bao qt đến cụ thể, ngồi vào trong, xa đến gần hoặc ngược lại. Học
sinh còn nhỏ, sự liên tưởng của các em cịn kém, có thể đang viết phần này lại
nhớ chi tiết còn thiếu ở phần kia và viết tiếp, vì vậy ở các tiết lập dàn bài, giáo
viên cần yêu cầu các em trình bày rõ ràng. Khi trả bài cần có nhận xét, đưa ra
những ví dụ tiêu biểu về đoạn văn viết khá, đoạn còn lộn xộn để học sinh sửa
chữa, so sánh.
Như vậy, để hướng dẫn học sinh viết đoạn văn có sự liên kết chặt chẽ về
ý, cần cho học sinh hiểu sơ đẳng về khái niệm đoạn văn, biết trình bày đoạn văn
trong một chỉnh thể văn bản. Từ đó học sinh biết rằng mỗi một bộ phận, một đặc
điểm của vật tả cũng có thể viết riêng thành đoạn, mỗi đoạn là một tiểu kết.
Ngoài sự diễn đạt về nội dung, học sinh cũng cần phải biết hình thức của một
đoạn văn, biết sử dụng dấu chấm xuống dịng, biết tiểu kết.
Tóm lại: Rèn viết đoạn văn là một việc khó, nó phải được thực hiện trong
thời gian dài, học sinh phải được hướng dẫn, được luyện tập nhiều. Các em biết
cách dùng các câu đúng, câu hay viết về một ý, sắp xếp theo một logic hợp lý.
Khơng những thế trong đoạn văn phải có cảm xúc thẩm mĩ, có nhận xét của các
em về sự vật tả. Một lời khen, một câu hỏi ngắn, một dấu chấm cảm cũng làm
cho đoạn văn có sức thu hút lớn. Các em cũng có thể dùng các câu ngắn liền
nhau để tạo cảm giác mạnh...
Qua giảng dạy tôi nhận thấy nhiều học sinh đã biết thể hiện tình cảm
trong bài viết, có nhiều câu văn gợi cảm rất hay.

Biện pháp 3: Rèn viết bài văn có bố cục chặt chẽ.
Thường một bài văn viết, giáo viên hướng dẫn cho học sinh theo 3 phần:
Mở bài, thân bài, kết bài.


1. Phần mở bài:
Các em thường giới thiệu đối tượng mình sẽ nói tới: Vật gì? con gì? cảnh gì?
Đây sẽ là một đoạn văn ngắn mà theo tôi càng cơ đọng càng hay. Các em có thể mở
bài bằng một lời khen, một lời nhận xét hoặc một câu hỏi, một lời khẳng định.
Có rất nhiều cách mở bài: Có thể từ khái quát đến cụ thể, hoặc ngược lại hay theo
kiểu tương liên (mượn một ý đồng nhất, một câu thơ, một lời hát để dẫn dắt)
VD: Đề bài: Tả một cây ăn quả mà em thích.
Học sinh có thể viết mở bài: Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày.
Mỗi khi nghe câu hát ấy em lại nhớ đến hình ảnh cây khế ở góc vườn, nó gắn
liền với những kỉ niệm vui buồn của tuổi thơ em.
Hay với đề bài: Tả một cây có bóng mát (hoặc cây ăn quả).
Học sinh có thể viết mở bài theo sự kiện (Mở bài gián tiếp): Hè vừa qua, em
được bố mẹ cho đi nghỉ ở bãi biển, có biết bao cảnh đẹp nhưng em thích nhất là
được ngồi dưới bóng cây dừa để hưởng những làn gió mát rượi.
Hoặc mở bài trực tiếp: Trong khoảng sân nhỏ trước nhà, bố em trồng một cây
bưởi diễn đã được bốn năm rồi.
Cách dẫn dắt vào bài ngắn, gọn, hay sẽ lơi cuốn và gây được sự thích thú của
người đọc từ ban đầu.
2. Phần thân bài
Phần chính xuyên suốt toàn bộ nội dung miêu tả. Các em phải thực hiện
khâu ghép kết các đoạn văn theo dàn ý. Tơi luyện, khuyến khích các em sáng tạo
trong viết văn, có thể đan xen thời gian, khơng gian, q khứ, hiện tại...một cách
thuyết phục trong văn tả các em được xem rồi đánh giá, sau đó dùng ngịi bút
của mình để tả, thể hiện cách nhìn về sự vật và ở bất cứ sự vật tả nào cũng xuất

hiện kiểu: "vẽ mây nẩy trăng" sự vật hoạt động trong hoàn cảnh bao giờ cũng
gắn với các yếu tố xung quanh, khi tả nó chúng ta phải đưa các chi tiết ảnh
hưởng vào trong văn. Tả cây cối phải có mặt trời, chim chóc, con người...có tình
cảm của học sinh lồng vào đó. Tả một cái cặp do bố tặng học sinh cũng chất
chứa đầy tình thương của bố.
Khi luyện đoạn văn các em phải biết liên kết câu, khi viết bài các em phải
liên kết đoạn, có như vậy thì các em sẽ nối các mảng thành tấm thảm thêu tả sự
vật rõ nét, đúng theo yêu cầu. Giáo viên hướng dẫn các em biết dùng một số từ


nối: không những thế, chẳng bao lâu, thấm thoắt,...để bài văn mạch lạc, có sự
liên kết.
3. Phần kết bài:
Phần tổng kết cách nhìn, nhận xét ở phần thân bài, đánh giá cả nội dung
trình bày rất quan trọng, được gắn liền với mở bài và thân bài. Khi hướng dẫn
học sinh thực hành viết kết bài, tôi hướng dẫn các em viết theo nhiều cách.
* Cách 1: Kết khép (kết bài khơng mở rộng): Kết lại các ý chính đã viết trong bài.
Ví dụ: Tả chiếc cặp sách của em.
Chiếc cặp mãi mãi là người bạn thân thiết của em. Ngày ngày cặp cùng em tung
tăng đến trường rồi về nhà trong niềm vui của tuổi học trò.
* Cách 2: Kết mở (kết bài mở rộng): Đây là một kiểu kết bài bồi dưỡng sự
sáng tạo cho học sinh, mở ra một suy tưởng mới cho người đọc.
Ví dụ: Mỗi sáng, cắp chiếc cặp mới đi học, em vô cùng biết ơn bố mẹ. Em sẽ
mang tình cảm đó vào học tập, sinh hoạt để xứng đáng là "Con ngoan trị giỏi".
Hoặc: Mẹ em bảo"Có của phải biết giữ gìn thì mới được lâu bền". Vì vậy mỗi
khi đi học về em thường để cặp ngay ngắn vào góc học tập. Không khi nào em
vẽ hoặc viết vào cặp.
* Cách 3: Kết đầu cuối tương ứng (kết nhắc lại phần mở bài).
Đây là kiểu bài rất hay, nó như một vịng trịn khép kín, điểm đầu, điểm
cuối trùng nhau, khép lại vấn đề tả.

Ví dụ; Trong số các đồ dùng học tập của mình, bạn yêu quý cái gì nhất: Bút,
thước hay vở? riêng tôi, tôi yêu quý nhất chiếc cặp. Đó là phần thưởng bố đã
mua tặng tơi vào đầu năm học mới.
Ở cách này phần kết luận, các em nhắc lại nội dung đó như một lời khẳng
định gửi gắm tình cảm.
Như vậy bài văn là sự kết hợp nhiều đoạn văn có mở bài, phát triển bài và
kết luận. Tất cả phải được gắn kết với nhau theo các phép liên kết cơ bản, theo
trật tự ý đoạn. Các em chưa được học kỹ về văn bản, do đó qua các bài luyện
tập, lập dàn ý, trả bài giáo viên cần hướng dẫn cho các em ý thức ban đầu hiểu
về sự liên kết ý.
Đặc biệt văn miêu tả học sinh vẽ lại các hình ảnh của sự vật bằng ngơn
ngữ theo cách nhìn, xét đốn của lứa tuổi học sinh. Lời viết cần chân thực, dễ
hiểu, khơng bóng bấy. Có nhiều học sinh sử dụng tài liệu tham khảo máy móc,


không hiểu rõ từ vẫn "bắt chước" sao chép vào bài văn. Vì vậy khi trả bài giáo
viên nên đưa các từ sai cụ thể ra cùng lớp sửa chữa.
Tóm lại: Rèn kỹ năng viết câu đúng, hay, luyện đoạn văn liên kết ý và rèn
viết bài văn có bố cục là 3 phần cơ bản trong việc rèn kỹ năng viết bài tập làm
văn cho học sinh. Với mỗi đề tập làm văn, các em được giáo viên hướng dẫn
phân tích, tìm hiểu đề, tìm ra nội dung, trọng tâm chính cần viết, những chi tiết,
bộ phận cần nhấn mạnh, lướt qua, chuẩn bị bài nói thật chu đáo. Qua phần trình
bày miệng các em được thực hành diễn đạt, được giáo viên sửa chữa, bổ sung
hồn chỉnh thì bài viết của các em được tốt, hiệu quả hơn.
* Hướng dẫn đề bài cụ thể
Đề bài: Em hãy tả một con gà mái dẫn đàn con đi kiếm mồi ra dáng người mẹ
chăm làm, ln ln bận bịu vì con. (có thể nhân hóa cho mẹ con nhà gà trò
chuyện với nhau trong khi đi kiếm ăn).
* Bước 1: Để dạy tốt bài này trước hết tôi phải cho học sinh xác định yêu cầu
của đề: Tả con gì? Trong hồn cảnh nào? Điều gì cần làm nổi bật? (Dáng vẻ

chăm làm, kiếm mồi cho con, luôn bận bịu vì con, chăm lo ni sống bảo vệ đàn
con...) có thể nhân hóa cho mẹ con gà trị chuyện với nhau.
* Bước 2: Khi đã xác định tốt yêu cầu của đề tơi đã hướng dẫn học sinh tìm ý,
lập dàn bài theo sườn sau:
1. Mở bài:
- Đó là đàn gà của gia đình em hay của - Đó là con gà của gia đình em, nó
ai? Em gặp chúng đi kiếm mồi vào lúc đang dẫn đàn con đi kiếm ăn vào buổi
nào?ở đâu?
trưa ở sau nhà.
- Hoặc lí do khiến em chú ý và muốn - Hoặc: Tiếng kêu của gà mẹ, hay gà
tả con gà mẹ đang dẫn đàn con đi con làm cho em...
kiếm ăn.
2. Thân bài:
a. Tả vài nét về đàn gà.
- Đàn gà có 12 con (10 con ...)
- Đàn gà có bao nhiêu con?
- Gà mẹ có thân hình mập mạp, khốc
- Màu sắc, hình dáng gà mẹ và gà con
chiếc áo hoa.
khác nhau ở điểm nào? (Gà mẹ to
+ Gà con có bộ lơng khác nhau nhìn
chừng nào? Màu sắc có gì nổi bật? gà
chúng như cuộn tơ vàng ươm...
con tựa vật gì? Có con nào nổi bật về
màu sắc, dáng đi...
- Một gia đình hạnh phúc.


- Nhìn đàn con đi kiếm ăn em có liên
tưởng đến điều gì? (hoặc nghĩ đến

điều gì?)
b. Hoạt động tính nết của gà mái mẹ.
- Dáng dấp gà mẹ đi kiếm mồi như thế
nào?
- Hoạt động kiếm mồi của gà mẹ có gì
đặc biệt?

- Bận bịu (thong thả)
- Chị dùng đơi chân nứt nẻ bám đầy
đất bụi bới đất tìm mồi đôi mắt chăm
chú...
- Chị gọi đàn con chia mỗi đứa một
miếng...

- Khi kiếm được mồi, gà mẹ làm động
tác gì? (Gọi con, cho con ăn, ngó - Chúng ăn hết phần chia, lại tranh
nghiêng canh chừng xung quanh)
nhau, chị nhẹ nhàng lấy mỏ mổ nhẹ
- Thái độ của gà mẹ đối với đàn con vào đầu cảnh cáo chúng...
trong khi ăn? Chúng trò chuyện với - Ăn xong gà mẹ dẫn đàn con đi uống
nhau như thế nào?
nước rồi hóng mát trên cồn đất cao...
- Ăn xong gà mẹ làm gì? Các con làm
gì? Thái độ của gà mẹ lúc đó ra sao?
Gà mẹ "nói" gì với các con? Các con
"nói" gì vớ i gà mẹ?...
* Mục a , b có thể tả xen lẫn trong phần thân bài.
3. Kết luận:
Nhìn gà mẹ cặm cụi kiếm mồi cho đàn - Gà mẹ luôn luôn là người mẹ hết
con, chăm sóc đàn con em có cảm lịng vì đàn con...

nghĩ gì?
Hoặc: Hình ảnh đàn con quây quần
bên gà mái mẹ đi kiếm ăn, vui chơi
gợi cho em nghĩ đến điều gì? (về tình
"mẫu tử", về tương lai gà con...)?
* Bước 3: Sau khi học sinh đã biết lập dàn bài tôi hướng dẫn học sinh lựa chọn
từ ngữ, sắp xếp viết thành đoạn văn, bài văn liên kết chặt chẽ.
Ví dụ : 1. Mở bài.
- "Cục! cục! cục" đó là tiếng kêu thân thương của chị gà mái mơ nhà em với
đàn con của nó. Trưa nay chị đang cùng đàn con đi kiếm ăn sau nhà.
2. Thân bài.


a. Tả gà mẹ và đàn con.
Chị gà mái mơ thân hình mập mạp, chị khốc chiếc áo màu nâu sẫm điểm
chấm trắng hoa trên mình. Đàn con của chị mười hai đứa có màu sắc khác nhau:
đứa thì vàng tươi, đứa thì điểm thêm một vài chấm nâu nhạt trên lưng, đứa thì
hai bên cánh có chấm nâu. Nhìn chung cả đàn như những cuộn tơ vàng mềm
mại như nhung trơng thật thích mắt.
Đầu gà con nhỏ xíu, đơi mắt long lanh như cườm biếc, chiếc mỏ vàng ươm, lúc
nào cũng "chiếp! chiếp" làm rộn cả góc sân...
b. Tả hoạt động tính nết gà mái.
Chị gà mái oai vệ bước đi giữa đàn con bé nhỏ, lòng chị phơi phới một
niềm vui khi biết rằng từ nay mình làm mẹ. Đến một mô đất xốp chị đưa đôi
chân nứt nẻ bám đầy bụi ra bới bới, mồm "cục! cục" gọi đàn con. Dưới chân chị
một con giun múp míp đang chập chạp lê mình, lũ gà con tranh nhau sà tới, có
con ngã ra đất. Gà mẹ nhẹ nhàng phân phát mồi cho từng đứa. Có đứa ăn hết lại
tranh của con khác, gà mẹ nhẹ nhàng dùng mỏ mổ nhẹ lên đầu như phạt nó.
Cứ kiếm được mồi chị lại phân phát cho các con. Sau khi chén no nê chúng theo
mẹ đi uống nước. Lũ con vây quanh bát nước, vục những chiếc mỏ xinh xuống

làn nước mát rượi, uống xong có chú ngước nhìn đơi mắt đen láy lên trời miệng
reo thích thú...
* Bước 4: Hướng dẫn học sinh đọc sửa chữa từng câu, từ, đoạn.
* Bước 5: Chép bài văn vào vở hoặc giấy.
Kết quả sau bài dạy:
Qua bài tập làm văn trên tôi thấy đa số các em đã biết lựa chọn từ ngữ, hình
ảnh, viết được những câu văn gợi cảm, hay; đoạn văn logic, bài văn súc tích.
100% các em viết bài văn đủ ý; 50% các em viết bài văn hay, logic.
Biện pháp 4: Tích lũy các từ ngữ, hình ảnh văn học.
Hướng dẫn các em cách dùng "sổ tay văn học”. Tơi khuyến khích học
sinh sau mỗi bài tập đọc lựa chọn một vài từ ngữ hoặc câu văn miêu tả hay ghi
lại, hay khi đọc sách báo tham khảo, nghe đài, xem vô tuyến,... biết được từ, câu
nào hay các em ghi ngay vào sổ tay của mình. Cứ như vậy giúp các em tích lũy
dần vốn từ ngữ miêu tả, khác gì con sơng chắt chiu dần từng hạt phù sa để một
lúc nào đó cả một bãi phù sa màu mỡ đột ngột hiện lên trước mắt mọi người
chuẩn bị cho những vụ rau màu tươi xanh, bội thu.
Vì thế, mỗi HS trong lớp tơi đều có cuốn sổ tay và các em thi nhau ghi


được khá nhiều những câu, từ có hình ảnh, gợi tả, gợi cảm rất độc đáo.
VD: - Trên những cành hoa trong vườn còn đọng lại những hạt mưa như hạt ngọc.
- Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn lửa xanh.
- Chàng Nhái Bén gầy, cao lêu đêu, hai cái đùi bé quắt mà dài quá nửa thân mình.
- Chiếc lá chuối ở giữa vườn cao, mở to như một cánh buồm no gió của chiếc
thuyền đang lướt đi giữa con sơng lớn...
- Dịng sơng như một dải lụa đào vắt lên chiếc áo màu xanh của ruộng đồng.
Tích lũy vốn văn học, ghi chép các câu văn, thơ hay giống như con ong
cần cù hút nhụy hoa. Đến một lúc nào đó, qua sự chế biến, nhụy sẽ biến thành
mật.Vốn văn học tích lũy dần như là những viên gạch dùng để xây nhà, có nhiều
gạch thì nhà dễ xây.

Có vốn từ ngữ nhưng phải dùng nó đúng lúc, đúng chỗ. Văn chương cần
hình ảnh, nhưng lạm dụng hình ảnh, tạo nên hình ảnh cầu kì hay sáo mịn thì
khơng nên. Muốn có sức mạnh ngơn ngữ miêu tả phải ln tạo được hình ảnh
mới mẻ, độc đáo, sáng tạo. Chúng ta cần đổi mới hình ảnh, nếu khơng văn
chương sẽ chỉ cịn là "căn phịng đựng quần áo tu từ học đã rách bươm vì đem
dùng chung khắp thiên hạ."
IV. Kết quả đạt được
Qua học kì I năm học 2017 - 2018 và giữa học kì II, lớp 4B do tơi chủ
nhiệm và giảng dạy đã có tiến bộ rõ rệt về phân mơn Tập làm văn, đặc biệt là kĩ
năng viết văn miêu tả. Số lượng các em viết câu sai, ý rời rạc, bố cục chưa rõ
ràng chỉ cịn rất ít. Tỉ lệ học sinh biết viết câu đúng, diễn đạt rõ ràng, ý chặt chẽ,
lời văn có hình ảnh, bố cục đầy đủ tăng lên so với những năm học trước. Lớp tôi
được Ban giám hiệu nhà trường cùng đồng nghiệp nhận xét là lớp có nhiều
chuyển biến trong mỗi lần chấm thi.
Kết quả cụ thể:
Lớp

4B

Tổng số
HS

Số HS
hoàn thành tốt

Số HS
hoàn thành

SL


%

SL

15

60

10

%

Số HS
chưa hoàn thành
SL

TL

0

0

25
40

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ


I. Kết luận
Qua tìm hiểu một số biện pháp "Rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học

sinh lớp 4" tôi rút ra kết luận sau:
- Rèn kĩ năng viết một bài tập làm văn cho học sinh lớp 4 đó là một q trình lâu
dài, địi hỏi phải có thời gian, có sự kiên trì tập luyện cho học sinh. Viết được
một bài văn đạt yêu cầu đó là kết quả của nhiều giai đoạn, nhiều quá trình. Bởi
vậy, đổi mới phương pháp dạy học nói chung hiện nay và phân mơn tập làm văn
cho học sinh nói riêng là một u cầu cần thiết, địi hỏi nhiều cơng sức của giáo
viên và học sinh.
- Dạy tập làm văn cần chú trọng nhiệm vụ rèn luyện kĩ năng viết câu văn sinh
động, giàu hình ảnh. Tổ chức các hoạt động học tập tích cực, lấy học sinh làm
trung tâm, dưới sự hướng dẫn của các thầy cô giáo, học sinh hoàn toàn chủ
động, sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức.
- Mỗi giáo viên cần phải say mê với nghề nghiệp, khơng ngừng tìm tịi, nghiên
cứu để nâng cao kiến thức cũng như trình độ. Người thầy phải là chỗ dựa, là
niềm tin vững chắc cho mỗi học sinh. Mỗi học sinh cần phải tích cực, chủ động
chiếm lĩnh kiến thức, kiên trì khơng nản chí và lùi bước trước khó khăn, cần
phải ơn tập, nhào nặn để biến tri thức của lồi người thành của riêng mình.
- Trong khi dạy môn Tiếng Việt người giáo viên phải biết kết hợp, vận dụng nhiều
kiến thức để rèn các em viết những câu văn sinh động, gợi cảm; rèn viết đoạn văn
đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý và rèn viết bài văn có bố cục chặt chẽ.
Nếu như trong khi dạy người giáo viên biết vận dụng linh hoạt các hình
thức tổ chức, dạy theo các bước trên thì kết quả học tập của học sinh sẽ đạt được
những kết quả khả quan. Học sinh có vốn hiểu biết về cách viết văn miêu tả tốt,
làm tiền đề cho các lớp trên.
II. Kiến nghị
* Đối với nhà trường:
- Cần thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, chuyên đề về đổi mới phương
pháp dạy học môn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm văn nói riêng.
- Mua thêm tài liệu, sách tham khảo, trang thiết bị dạy học phục vụ cho môn học.
* Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, phương pháp dạy học.

- Xác định đúng mục tiêu, yêu cầu cần đạt của từng tiết dạy.


- Giáo viên cần dành thời gian để nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu tham
khảo, thường xuyên tự học, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ của bản thân.
- Học hỏi đồng nghiệp để tích lũy kinh nghiệm giảng dạy, nâng cao trình độ
chun mơn.
* Đối với học sinh:
- Có đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, sách tham khảo.
- Chú ý theo dõi sự hướng dẫn của giáo viên.
- Chủ động, tích cực suy nghĩ, tìm tịi, sáng tạo trong học tập.
- Hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài.
- Mạnh dạn trao đổi những băn khoăn, vướng mắc với bạn bè, thầy cô.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi về dạy viết văn miêu tả cho
học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học…. Do thời gian nghiên cứu còn hạn hẹp, kinh
nghiệm chưa nhiều, trong khi thực hiện đề tài không tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong được sự đóng góp ý kiến và giúp đỡ chân thành của Hội đồng khoa
học các cấp để đề tài của tơi hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của BGH nhà trường

Ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện

Lê Thị Hạnh



TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT
Tên tài liệu
1
Đọc văn và luyện đọc văn lớp 4-5; Nhà xuất bản Giáo dục 1995
Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 – tập 1; Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
2
2017
Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 – tập 2; Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
3
2016
Sách giáo viên Tiếng Việt 4 – tập 1; Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
4
2005
Sách giáo khoa Tiếng Việt 4 – tập 2; Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
5
2005


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP
LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI
TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Lê Thị Hạnh
Chức vụ và đơn vị công tác: GV Trường Tiểu học Xuân Thành – Thọ Xuân –
Thanh Hóa

TT


Tên đề tài SKKN

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)

Năm học đánh
giá xếp loại

Một số biện pháp rèn kĩ năng
1.

giải các dạng toán có nội dung

Phịng GD

C

2012 - 2013

Phịng GD

C


2015 - 2016

Phịng GD

A

2017 - 2018

hình học lớp 4.
Một số biện pháp giúp học
2.

sinh lớp 5 học tốt giải toán về
đại lượng tỉ lệ
Một số biện pháp rèn kĩ năng

3.

viết văn miêu tả cho học sinh
lớp 4


PHỤ LỤC
Một số bài văn miêu tả của học sinh lớp 4B:



×