Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số giải pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua môn luyện từ và câu ở trường TH nga điên 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 24 trang )

MỤC LỤC
Tran
g
1.Mở đầu………………………………………………………………………1
1.1 Lí do viết sáng kinh nghệm…………………………………………….. .
1
1.2 Mục đích nghiên cứu……………………………………………………..
2
1.3 Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………….
2
1.4 Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………
2
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm………………………………………
2
2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………
2
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm……………
2
2.3 Một số biện pháp thực hiện………………………………………………
5
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục……….
18
3. Kết luận và kiến nghị………………………………………………………
18
3.1 Kết luận……………………………………………………………………
18
3.2
Kiến
nghị………………………………………………………………….19
TÀI
LIỆU


THAM
KHẢO…………………………………………………….20
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI…………………………………
21



1. Mở đầu
I.1 . Lí do viết sáng kiến kinh nghiệm
Mơn Tiếng Việt có vai trị vơ cùng quan trọng trong quá trình học tập cũng
như giao tiếp của các em. Mơn Tiếng Việt giúp các em có các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết phục vụ cho việc học và giao tiếp; ngồi ra mơn Tiếng Việt cung cấp
cho các em vốn từ ngữ phong phú để các em sử dụng trong q trình giao tiếp.
Phân mơn Luyện từ và câu là phân mơn đóng vai trị quan trọng đối với việc
phát triển ngơn ngữ của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng,
là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con
người. Hơn nữa, phân môn Luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt,
văn hóa, là cơng cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh lớp 2, vốn từ
của các em cịn rất hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng từ cịn lúng túng, gặp rất
nhiều khó khăn cần phải được bổ sung và phát triển để đáp ứng nhu cầu học tập
và giao tiếp. Muốn nói hay viết giỏi đều phải dùng từ. Từ là vật liệu để cấu
thành ngôn ngữ. Hiểu được nghĩa của từ đã khó, cịn phải biết dùng từ như thế
nào cho hợp văn cảnh, đúng ngữ pháp cịn khó hơn. Cho nên, việc dạy cho học
sinh nắm vững Tiếng Việt không thể không coi trọng việc dạy phân môn luyện
từ và câu, đặt nền móng cho việc tiếp thu tốt các môn học khác ở các lớp học
trên. Để dạy học luyện từ và câu ở lớp 2 có hiệu quả, khơng những địi hỏi người
thầy phải biết cách khai thác từ ngữ qua vốn sống của trẻ nhằm xây dựng hệ
thống kiến thức trên cơ sở khai thác qua các câu có từ thuộc chủ đề nhằm bổ
sung, củng cố, khắc sâu hệ thống kiến thức cho trẻ. Ngoài ra người giáo viên
phải biết phối hợp một cách linh hoạt các phương pháp đặc trưng của môn học

như phương pháp đóng vai, phương pháp thảo luận nhóm, hỏi đáp theo cặp, tổ
chức trò chơi… để học sinh được thực sự tham gia xử lí các tình huống có vấn
đề, lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh nói được một câu
hay, giàu cảm xúc là một kĩ năng khó của phân mơn Luyện từ và câu. Bởi vậy,
hiệu quả giờ dạy Luyện từ và câu cịn hạn chế. Một phần người dạy cịn chưa
tìm ra quy trình và phương pháp dạy thích hợp. Hơn nữa đây là phân mơn hồn
tồn khó đối với học sinh lớp1, 2.. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng diễn đạt
còn hạn chế, các em đọc còn chưa lưu lốt vì vậy ít nhiều hạn chế đến khả năng
đặt câu đúng, câu hay, diễn đạt bằng lời nói, lời kể và cách diễn xuất của mình
qua từng đoạn chuyện, câu chuyện. Vì vậy, các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự
tin trong học tập. Mặt khác, với học sinh tiểu học, vốn từ mà các em có được
chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sống và cách hiểu tự nhiên còn hạn chế. Đa số các
em chỉ mới hiểu được một số nét nghĩa một cách chung chung chứ chưa đầy đủ
và chưa chính xác. Đặc biệt, khả năng vận dụng các từ đã học vào giao tiếp và
học tập cịn nhiều hạn chế, học sinh cịn gặp khó khăn và bị lúng túng trong việc
tìm từ và sử dụng từ. Làm giàu vốn từ cho học sinh ngoài việc cung cấp thêm
các từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ cịn tạo tính thường trực của từ nhằm
nâng cao khả năng lựa chọn và sử dụng từ của học sinh khi học các mơn học nói
riêng và trong cuộc sống nói chung [6].

1


Với mong muốn giúp học sinh tăng thêm vốn từ, tăng khả năng sử dụng
từ, câu trong học tập và giao tiếp, tơi đó lựa chọn viết đề tài: “Một số biện pháp
làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 A trường Tiểu học Nga Điền 1 thông qua
phân môn Luyện từ và câu”. để cùng các bạn đồng nghiệp trao đổi thảo luận.
Từ đó, giúp học sinh học Phân môn Luyện từ và câu một cách hiệu quả nhất
I.2 . Mục đích nghiên cứu:

Xây dựng một số biện pháp dạy – học cho Phân môn Luyện từ và câu nhằm
làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh, từ đó nâng cao chất lượng dạy và học của
thầy và trò trường Tiểu học Nga Điền 1 – Nga Sơn – Thanh Hóa trong giờ học
Luyện từ và câu giúp học sinh biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn
Luyện từ và câu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu.
+ Phương pháp trò chuyện
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học
trong trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp
Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện,
đồng thời phát triển được khả năng của mình về một mơn học, nhằm chuẩn bị
ngay từ bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục
tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho
sự phát triển tồn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Vì vậy
phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần hình
thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, hình thành nếp tư duy sáng
tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông.
Trong các môn học ở tiểu học mơn Tiếng Việt là mơn có vị trí hết sức
quan trọng. Nó cung cấp vốn ngơn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức ban đầu
cịn là cơng cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt là phân mơn
Luyện từ và câu là phân mơn đóng vai trị quan trọng đối với việc phát triển

ngôn ngữ của học sinh nói chung và của học sinh lớp Hai nói riêng. Trong thực
tế mơn Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng là chìa khóa mở ra kho tàng văn
hóa trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người.Hơn nữa phân môn Luyện
từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng việt, văn hóa là cơng cụ giúp học sinh sử
dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt mà cịn học tốt các mơn học khác, rèn cho học
sinh bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh biết cách giao tiếp
tốt, viết được đoạn văn ngắn thì phải làm giàu vốn ngơn ngữ cho học sinh. Làm
2


giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh lớp Hai là một việc làm quan trọng trong phân
môn Luyện từ và câu.Việc phát triển và làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh góp
phần giúp học sinh có kĩ năng dùng từ để đặt câu và giao tiếp tốt. Hơn nữa,
phân mơn Luyện từ và câu hồn tồn mới đối với học sinh lớp 2. Vì các em từ
lớp 1 lên, các em mới làm quen với thể loại này. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ
năng nói và viết diễn đạt còn hạn chế. Học sinh chưa hiểu sâu về nghĩa các từ
ngữ và bản chất của câu nên khi nói và viết một đoạn văn các em thường bộc lộ
các yếu điểm về diễn đạt như : từ lặp lại nhiều, câu không rõ nghĩa, các câu
trong đoạn văn cịn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Học
sinh thường dập khuôn theo sự hướng dẫn của giáo viên.
Với mục tiêu chung của môn Tiếng Việt thì mục tiêu của phân mơn Luyện từ
và câu là một bộ phận nhỏ của môn Tiếng Việt hết sức cần thiết để giúp học sinh
mở rộng và phát triển vốn từ làm cho vốn ngôn ngữ của các em càng phong phú;
việc giúp học sinh nắm ý nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ để bồi dưỡng cho các
em thói quen dùng từ chính xác, nói – viết thành câu, có ý thức sử dụng Tiếng
Việt có văn hóa trong học tập và giao tiếp.
Thơng qua mục tiêu chương trình cũng như cụ thể hóa được vai trò của nhân
tố từ ngữ trong việc sử dụng Tiếng Việt. Bên cạnh đó, phân mơn Luyện từ và
câu ở lớp 2 cịn góp phần quan trọng giúp học sinh mở rộng và phát triển vốn từ.

Từ đó, học sinh sẽ có một vốn từ nhất định để hình thành thói quen dùng từ, nói
và viết thành câu: có ý thức sử dụng Tiếng Việt văn hóa trong học tập, giao tiếp
và thích học Tiếng Việt. Do đó, người giáo viên dạy lớp 2 ( hay dạy bậc Tiểu
học ) cần phải hội đủ các yếu tố như: Có kiến thức sâu rộng và chính xác của
phân mơn này, nắm vững mục tiêu chung cũng như mục tiêu của từng bài dạy;
có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, về ý đồ của sách giáo khoa và về
cấu trúc của từng bài theo các thông tin thể hiện ở sách giáo khoa; có năng lực
giảng dạy nhất định, biết sử lí và linh hoạt sáng tạo trong q trình dạy- học.
Đây chính là cơ sở vững chắc để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức một cách tốt
nhất, các em biết vận dụng thành công vốn từ trong học tập và giao tiếp.[6]
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Bước vào đầu năm học, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2A.
trong quá trình trực tiếp giảng dạy các em tơi cảm thấy hầu hết các em chưa biết
nói thành câu. Các em giao tiếp với nhau lời lẽ cụt ngủn, đơi khi nói năng cộc
lốc khơng lịch sự. Ngôn ngữ của các em rất hạn chế, vốn sống cịn ít, vốn hiều
biết về Tiếng Việt chưa nhiều, việc nói và viết thành câu, thành một đoạn văn
gặp nhiều khó khăn
Việc dạy từ ngữ cho học sinh chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự
hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều
đó địi hỏi giáo viên có phương pháp mở rộng vốn từ giúp các em tìm được
nhiều từ ngữ và biết sử dụng từ ngữ một cách thích hợp, sử dụng từ chính xác và
hay khi nói và viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 vốn sống của
các em còn hạn chế do đó khi diễn đạt nói và viết học sinh cịn gặp nhiều khó
khăn.
a. Thuận lợi:
- Nhà trường:
3


+ Nhà trường thường mở các chuyên đề để giáo viên dự giờ, trao đổi kinh

nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn trường đều tạo điều kiện
cho giáo viên trao đổi, tháo gỡ những vướng mắc trong chuyên môn.
+ Một số tranh ảnh trực quan để phục vụ cho các bài Luyện từ và câu ở lớp 2
đã có sẵn ở thư viện: Tranh các chim, lồi cá, thú…
- Học sinh:
+ Các em học sinh có dủ SGK, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ cho môn
học.
+ Phần lớn phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
b. Khó khăn:
- Giáo viên:
+ Phân môn Luyện từ và câu là phân môn mà học sinh lớp 2 vừa được làm
quen, nên giáo viên gặp nhiều khó khăn khi lựa chọn các hình thức dạy học phù
hợp với các em.
+ Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học
nhưng đơi khi cũng ngại khơng dám thốt li các gợi ý của sách giáo khoa, sách
hướng dẫn vì sợ sai.
+ Đối với một số giáo viên do sử dụng đồ dùng dạy học nói chung và đồ dùng
trực quan nói riêng chưa được thường xuyên, nên việc sử dụng còn nhiều lúng
túng.
- Học sinh:
+ Quan sát học sinh khi học phân môn Luyện từ và câu. Tôi yêu cầu các em
tìm từ ngữ thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ
hoặc khơng tìm được từ, chỉ khi cơ giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học sinh
mới tìm được từ mà giáo viên yêu cầu.
+ Qua tiết học phân môn Tập làm văn, tôi thường quan sát các em trong việc
trả lời câu hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn tờ 3- 5 câu. Tôi thấy các em đa số
chưa biết đặt câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn1/4 số học sinh trong lớp
biết dùng một số mẫu câu đơn giản.
+ Một số em chưa hứng thú, chưa tích cực tham gia vào giờ học Luyện từ và
câu.

Kết quả khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm của lớp 2A ( lớp thực
nghiệm ) và lớp 2B ( lớp đối chứng )
HTT
HT
CHT
Tổng số
TT
SL
TL
SL
TL
SL
TL
HS
2A
30
5
16,5
12
40,6
13
42,9
2B
30
6
19,8
13
42,9
11
37,3

Từ thực trạng trên tơi thấy nếu khơng có biện pháp mở rộng vốn từ cho học
sinh thì chất lượng dạy học mơn Tiếng Việt sẽ không cao. Trong năm học trước,
khi đánh giá chất lượng bài thi các giáo viên đều có chung một nhận định: Vốn
từ của các em còn nghèo nàn, nhiều em cịn tìm từ khơng đúng u cầu và có rất
nhiều em khơng tìm được từ. Những hạn chế trên một phần là giáo viên chưa
chú ý đúng mức đến dạy học mở rộng vốn từ cho học sinh.Trong quá trình dạy
4


giáo viên ít tạo điều kiệncho học sinh được hoạt động nhiều với từ nên khả năng
thường trực từ ở học sinh và sử dụng khi cần thiết chưa cao. Có bài tập cần sử
phải sử dụng hoạt động thảo luận nhóm, thì giáo viên lại tổ chức làm việc chung
cả lớp, có bài tập đề bài cần tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân thì giáo
viên lại tổ chức trò chơi học tập tập trung đối tượng học sinh năng khiêu. Thời
gian bố trí cho từng hoạt động chưa phù hợp, hệ thống câu hỏi và hình thức thực
hành bài tập chưa đảm bảo yêu cầu, chưa phân loại đối tượng học sinh để dạy
học cho phù hợp.
Xuất phát từ thực trạng trên, tôi đã nghiên cứu và vận dụng: “Một số biện
pháp làm giàu vốn từ cho học sinh lớp 2 thông qua phân môn Luyện từ và câu”
2.3. Một số biện pháp thực hiện:
Biện pháp 1: Cung cấp, mở rộng và nhân vốn từ ngữ cho học sinh:
Cung cấp vốn từ giúp học sinh có vốn từ phong phú, để học sinh tự tin trong
giao tiếp, biết dùng từ để đặt câu trong mọi tình huống giao tiếp, biết nói và viết
những câu văn hay giàu cảm xúc, các em có khả năng diễn đạt được trí tưởng
tượng của mình trong từng câu truyện kể…
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn, việc
sử dụng từ ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ
ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, tơi đã cung cấp vốn từ cho học sinh
giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Khi dạy Luyện từ
và câu tôi đã chú trọng mở rộng vốn từ cho học sinh, bằng cách cho các em thi

nhau tìm những từ ngữ thuộc chủ đề, chủ điểm các em đang học, khuyến khích
học sinh tìm càng nhiều từ càng tốt. Khi học sinh khơng tìm được từ nhiều, tơi
đã nêu câu hỏi gợi mở để các em hiểu và dễ dàng tìm được.
Bên cạnh đó, tơi đã giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa, gần nghĩa,
trái nghĩa phù hợp với chủ đề các em học.
*Về từ cùng nghĩa:
Học sinh lớp hai chưa học khái niệm về từ cùng nghĩa, nên học sinh rất khó
khăn tìm được những từ cùng nghĩa, vì thế tơi cho học sinh mở rộng các từ
cùng nghĩa theo một số trường hợp sau:
- Những cặp từ cùng nghĩa có cấu tạo nghich đảo:
Ví dụ: Dạy bài 1 tuần 12 Mở rộng vốn từ ngữ về tình cảm[1].
Bài tập yêu cầu ghép tiếng theo mẫu để tạo thành các từ chỉ tình cảm gia đình.
Để dạy bài tập này tôi cho các em dùng những cặp từ cùng nghĩa có cấu tạo
nghịch đảo: yêu thương – thương yêu, yêu quý – quý yêu, yêu mến - mến yêu,
thương mến - mến thương.
Dựa vào cấu tạo nghich đảo ấy học sinh dễ dàng tìm được nhiều cặp từ cùng
nghĩa khác theo yêu cầu cô ra.
- Từ cùng nghĩa theo địa phương:
Khi dạy mở rộng vốn từ về con vật, tôi cho học sinh mở rộng vốn từ bằng
cách khai thác vốn từ cùng nghĩa theo vùng, miền.
Ví dụ: Giáo viên treo tranh vẽ con ngan và hỏi học sinh: miền bắc gọi con vật
này là con gì? (con ngan), cịn miền Nam gọi con vật này là con gì? (con vịt
xiêm). Dùng cách hỏi như vậy vơí các con vật khác:
con ngan- vịt xiêm, con heo - con lợn, con hổ- con cọp…
5


Với cách khai thác từ địa phương giáo viên khuyến khích học sinh phân vùng
để tìm từ.
Ví dụ: mẹ, má, mế, u , bu, bầm, bủ…cái tẩy – cái gôm, bút- cây viết, bông hoa

bát ăn cơm - chén ăn cơm, thìa – muỗng…
* Từ gần nghĩa
Ở lớp hai, học sinh cũng chưa học về khái niệm từ gần nghĩa, nên việc học
sinh tìm được những từ gần nghĩa cũng rất khó khăn, do đó tơi đã dựa vào từng
chủ đề, chủ điểm mà tôi cho học sinh phân định rõ từng kiểu từ gần nghĩa.
- Từ chỉ sự vật
Ví dụ: dạy về từ chỉ sự vật, tôi đặt câu hỏi gợi mở cho học sinh tìm các từ gần
nghĩa. Chẳng hạn:
Tổ quốc cịn gọi là gì? ( non sơng, đất nước, giang sơn, quốc gia,…)
Tương tự cách hỏi như vậy với:
- Từ chỉ tinh chất : dũng cảm, can đảm, anh dũng, gan dạ.. hiền lành, hiền hậu,
nhân hậu, vv…
- Từ chỉ hoạt động: ăn, xơi, .., bưng, bê, cắp, ôm…
* Từ trái nghĩa: giáo viên cần phân biệt cụ thể nghĩa các từ mà cho học sinh
xét từ trái nghĩa theo các trường hợp sau:
- Những cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động: làm - chơi, lên - xuống, bay- đậu, đi
-dừng, đứng - ngồi…
- Những cặp từ trái nghĩa chỉ tính chất: đẹp - xấu, hiền- dữ, đen - trắng, nónglạnh…
- Những cặp từ trái nghĩa có cùng một tiếng gốc:
Ví dụ: bền lịng / nản chí, tốt bụng/ xấu bụng, đẹp mã/ xấu mã.
- Những cặp từ trái nghĩa khơng cùng một gốc
Ví dụ: ấm áp/ lạnh lẽo, cứng rắn/ mềm dẻo, dũng cảm/ hèn nhát.
*Chú trọng nhân vốn từ của học sinh
Mở rộng vốn từ bằng cách ghép tiếng thành từ có nghĩa, để học sinh tìm được
nhiều từ, tơi hướng dẫn các em tìm các từ ghép, từ láy cùng gốc:
Ví dụ: Cho học sinh tìm một số từ chỉ màu đỏ khác nhau. Tôi cho học sinh quan
sát nhiều màu đỏ, yêu cầu học sinh nhận xét mức độ đỏ của từng màu mà phân
biệt được tên của màu đỏ đó.
- Từ ghép: đỏ tươi, đỏ thắm, đỏ hoe, đỏ chót, đỏ rực.
- Từ láy: đo đỏ, đỏ đắn…

Ngồi ra, tơi cho học sinh tìm từ dựa vào tiếng cho trước.
Ví dụ dạy bài 1 tuần 25 luyện từ và câu lớp 2.
Bài tập u cầu tìm từ có tiếng biển[2]
Tơi cho học sinh dựa vào tiếng cho trước tìm từ có tiếng biển đứng trước hoặc
tiếng biển đứng sau: biển cả, biển rộng, biển đơng, sóng biển, nước biển, cá
biển….
Hoặc dạy bài 3 tuần 33Luyện từ và câu lớp hai về chủ đề nhân dân: Tìm từ ngữ
chỉ nghề nghiệp. tơi cho học sinh một tiếng cho trước ghép lại thành từ có nghĩa:
thợ:

6


Học sinh dễ dàng tìm được các từ có tiếng thợ: thợ điện, thợ cơ khí, thợ mỏ, thợ
hàn, thợ may, thợ mộc…
*Hướng dẫn học sinh phát hiện các từ ngữ xoay quanh một đề tài:
Để các em phân biệt được các từ ngữ, giáo viên thường xuyên luyện cho các em
theo các bài tập từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ: Tìm các từ có hai tiếng trở lên chỉ các kiểu mưa khác nhau: mưa
dầm, mưa phùn, mưa rào, mưa ngâu, mưa bóng mây, mưa rả rích, mưa đá, mưa
rươi..
.
Tương tự kiểu bài đó, giáo viên cho học sinh tìm từ có từ “gió”: gió lốc, gió nhè
nhẹ, gió mơn man, gió hây hẩy, gió lồng lộng…
Đặc biệt tôi rất quan tâm đến dạy cho học sinh một số thành ngữ, quán
ngữ và tục ngữ thông dụng. theo từng chủ đề tơi dạy cho học sinh tìm và biết sử
dụng một số thành ngữ, tục ngữ khi diễn đạt nói và viết.
Ví dụ : Khi dạy về chủ đề thầy cơ giáo tơi cho các em tìm những câu
thành ngữ nói về cơng ơn của thầy cơ giáo chẳng hạn: Một chữ cũng là thầy, nửa
chữ cũng là thầy. Hoặc: Muốn sang phải bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải

yêu
lấy
thầy.
..
Dạy về chủ đề gia đình cho học sinh tìm những câu thành ngữ nói về cơng ơn
cha mẹ: công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
hoặc: Con có cha như nhà có nóc, con có mẹ như măng ấp bẹ…
Dạy về chủ đề các lồi chim cho học sinh tìm những câu thành ngữ nói về các
lồi chim: nói như vẹt, hót như khướu, đen như quạ, hơi như cú.
Trong q trình giảng dạy, tơi thường liên hệ những nội dung kiến thức có
liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân mơn: Tập đọc, chính tả và phân
mơn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện
tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, khơng bỡ ngỡ khi gặp
những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề
tài, vận dụng kỹ năng thực hành để học sinh có vốn kiến thức và vốn từ phong
phú, đa dạng. Khi học sinh đã có vốn từ phong phú thì chắc chắn các em sẽ tự
tin trong giao tiếp, học sinh trình bày lời nói của mình sẽ lưu lốt hơn. Các em
đứng trước đám đông sẽ tự nhiên mà không ngại ngùng e sợ.
Khi sử dụng phương pháp trên vào dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ, tơi
thấy kích thích sự sáng tạo của học sinh trong q trình tìm từ ngữ, rèn luyện tư
duy cho học sinh Học sinh tìm được nhiều từ mới hơn khi kết hợp với phương
pháp gợi mở của giáo viên.
Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng vốn từ và
tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập và sử dụng từ.
Phương pháp thảo luận nhóm là phương pháp dạy học trong đó dưới sự
hướng dẫn của giáo viên mà các thành viên trong nhóm thực hiện việc trao đổi,
thảo luận, chất vấn và chia sẻ lẫn nhau.
Q trình tìm hiểu, tơi nhận thấy rất ít giáo viên sử dụng phương pháp thảo
luận nhóm trong q trình dạy học làm giàu vốn từ, đặc biệt là trong nhiệm vụ
mở rộng vốn từ cho học sinh. Trong bài dạy, giáo viên chủ yếu sử dụng phương

pháp cá nhân làm việc độc lập, phương pháp vấn đáp để dạy các bài tập mở rộng
vốn từ. Số lượng từ ngữ học sinh nắm được trong giờ học không cao và không
7


bền vững. Khi huy động vốn từ theo chủ đề, mỗi học sinh chỉ huy động được
khoảng 1, 2 từ, nhiều nhất là 4, 5 từ. Thậm chí có học sinh không huy động được
một từ ngữ nào. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do
giáo viên ít vận dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực vào trong giờ
học, khơng tạo diều kiện để cho học sinh có thể hoạt động nhiều hơn với từ, lặp
di, lặp lại các thao tác với từ để có thể nhớ từ một cách bền vững. Hơn nữa, khả
năng giao tiếp của học sinh nay còn yếu, học sinh diễn đạt chưa rõ ràng, mạch
lạc vì trong q trình học, học sinh khơng được thao tác nhiều với từ. Vì thế,
trong q trình dạy học tơi đã sử dụng phương pháp thảo luận nhóm để mở rộng
vốn từ và tạo môi trường giao tiếp cho học sinh luyện tập sử dụng từ[4].
Cách thực hiện:
Để vận dụng phương pháp thảo luận nhóm vào trong bài dạy đạt hiệu quả,
giáo viên phải thực hiện các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị ở nhà
- Giáo viên chuẩn bị kĩ bài dạy, nghiên cứu kĩ nhiệm vụ của bài dạy. Xác định
bài tập sẽ sử dụng phương pháp thảo luận nhóm.
- Giáo viên thiết kế phiếu bài tập để giao việc cho các nhóm học sinh. Khi
thiết kế phiếu bài tập, giáo viên lưu ý xây dựng thêm các bài tập giải nghĩa từ
đối với học sinh chưa nghĩa. Tùy thuộc vào trình độ nhận thức của lớp mình,
giáo viên thiết kế thêm các bài tập bổ sung để cụ thể hóa yêu cầu của bài tập
( đối với học sinh yếu, kém, trung bình ) tạo điều kiện cho tất cả học sinh đều
được hoạt động hết khả năng của mình.
- Chuẩn bị các phương tiện dạy học như: phiếu bài tập, bảng để học sinh ghi
kết quả thảo luận nhóm…
Bước 2: Sử dụng phương pháp thảo luận nhóm trong dạy học

- Giáo viên chia nhóm học sinh
- Tùy theo đặc điểm của bài tập, giáo viên có thể chia nhóm cho học sinh thảo
luận theo những cách khác nhau: chia nhóm theo vị trí chỗ ngồi, chia nhóm theo
hình thức ngẫu nhiên, chia nhóm theo trình độ nhận thức và mức độ nắm vốn từ
của học sinh… Mỗi cách chia nhóm đều có ưu và nhược nhất định, khi lựa chọn
giáo viên phải linh hoạt, thường xuyên thay đổi hình thức để tránh nhàm chán
cho học sinh.
- Giao nhiệm vụ thảo luận cho học sinh.
Nhiệm thảo luận nhóm được cụ thể hóa trong phiếu bài tập ( hoặc phiếu giao
việc ) cho cả nhóm.
Ví dụ 1: Khi dạy bài 1, Tuần 4 – TV2, tập 1- trang 35, Mở rộng vốn từ: Từ chỉ
sự vật, GV sử dụng phiếu thảo luận:
PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, nói cho bạn nghe và nghe bạn nói các từ theo mẫu trong
bảng sau rồi ghi vào bảng trong thời gian 2 phút:
Chỉ người
Chỉ đồ vật
Chỉ con vật
Chỉ cây cối
M: học sinh
M: ghế
M: Chim sẻ
M: Xoài

8


Ví dụ 2: Ở bài tập 1, Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về Bác Hồ, Tuần 30, TV2 – Tập
2- Trang 104, ta có thể hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm theo phiếu học tập
sau:

PHIẾU HỌC TẬP
Thảo luận nhóm 4, trong thời gian 2 phút, tìm các từ:
a. Nói lên tình cảm của Bác Hơ đối với thiếu nhi:……………..........................
……………………………………………………………………………………

b. Nói lên tình cảm của thiếu nhi đối với Bác Hồ:
………………………………
……………………………………………………………………………………

- Học sinh thảo luận nhóm
Trong bước này, học sinh thực hiện các yêu cầu của phiếu bài tập, giáo viên
quan sát hướng dẫn và giúp đỡ các nhóm khi cần thiết,đảm bảo mọi nhóm đều
thảo luận sơi nổi, hiệu quả.
- Các nhóm báo cáo kết quả.
Trong thời gian các nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tạo điều kiện cho các
nhóm khác nhận xét, bổ xung để đi đến kết quả thảo luận cuối cùng lớp.
- Giáo viên tổng kết, chốt lại kiến thức cần nhớ sau khi thảo luận nhóm và
tuyên dương những nhóm, cá nhân tiêu biểu, nhắc nhở những nhóm, những cá
nhân chưa tích cực để lần sau các em cố gắng hoạt động hiệu quả hơn.
Phương pháp thảo luận nhóm nhằm hình thành năng lực giao tiếp, kĩ năng
hợp tác, khả năng suy nghĩ độc lập. Với phương pháp này, học sinh được học từ
bạn và tất cả các em dều được tham gia hoạt động giao tiếp. tôi đã vận dụng
những ưu điểm của phương pháp dạy học này như một biện pháp làm giàu vốn
từ nhằm mục đích nâng cao hiệu quả mở rộng vốn từ và tạo môi trường giao tiếp
cho học sinh luyện tập sử dụng từ[3].

9


Học sinh thảo luận nhóm trong tiết Luyện từ và câu

Biện pháp 3: Tổ chức các trò chơi học tập giúp học sinh mở rộng vốn từ
Trò chơi là một hoạt động của con người nhằm mục đích đầu tiên và chủ yếu
là vui chơi, giải trí và thư giãn sau những giờ làm việc căng thẳng. Nhưng qua
trò chơi, người chơi có thể rèn luyện các giác quan, tạo cơ hội giao lưu với mọi
người cùng hợp tác với mọi người, cùng hợp tác với đồng đội trong nhóm, tổ.
Ở bậc tiểu học cũng như các bậc học khác, sử dụng trị chơi trong q trình
học tập làm cho việc tiếp thu tri thức bớt đi sự khô khan, có thêm sự sinh động,
hấp dẫn. Từ đó hiệu quả học tập của học sinh tăng lên.
Trong giờ mở rộng vốn từ, học sinh phải thực hiện các nhiệm vụ để làm giàu
vốn từ cho mình. Nếu giáo viên chỉ sử dụng một phương pháp cho cả tiết dạy thì
hiệu quả giờ học không cao, học sinh thụ động, lười suy nghĩ. Sử dụng trò chơi
học tập là phương pháp dạy học tích cực. Từ đó làm thay đổi khơng khí trong
lớp học, tạo ra sự thi đua sơi nổi, hào hứng của các đội chơi và sự cổ vũ nhiệt
tình của các bạn trong lớp. Nhờ có trị chơi học tập, học sinh hứng thú hơn với
việc học từ ngữ trong các bài mở rộng vốn từ, làm giảm bớt đi sự khô khan của
bài học, học sinh tiếp thu từ và nghĩa của từ nhanh, phân loại, quản lí vốn từ
đúng, sử dụng từ chính xác , linh hoạt.
Thứ nhất: Trị chơi ghép nhanh tên sự vật
Ví dụ 1: Tìm những từ chỉ sự vật ( người, đồ vật, con vật, cây cối,..) được vẽ
dưới đây. ( bài tập 1 tuần 3, TV2- tập 1. Trang 26)
Ví dụ 2: Các tranh dưới đây vẽ một số hoạt động của người. Hãy tìm từ chỉ
mỗi hoạt động đó. ( bài tập 2 tuần 7, trang 59, TV2- Tập 1)
Ví dụ 3: Hãy nêu tên các con vật có trong hình ( bài tập 3 tuần 16 trang 134,
TV2, Tập 1).
10


a. Đối với dạng bài này, giáo viên chuẩn bị 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ gồm
1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh đại diện cho nghĩa của từ được nêu trong sách
giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ từ ( bìa giấy) ghi tên các đồ vật ( tranh ảnh).

- Giáo viên hoặc 1 học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
b. Cách thực hiện:
- Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh ( mỗi nhóm từ 2 đến 4
người chơi – Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2
nhóm. Mỗi học sinh ( hoặc mỗi nhóm) tham gia trị chơi được phát một bộ thẻ từ
ghi tên các đồ vật ( tranh ảnh). Học sinh ( hoặc nhóm) nào dán đúng và nhanh
nhất các tên ( từ) vào đồ vật hoặc tranh thích hợp thì thắng cuộc.
Thứ hai: Trị chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề
a.Mục tiêu
- Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh.
- Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thơng minh và cách ứng xử nhanh.
b.Chuẩn bị: Bảng phụ hoặc giấy nháp
c.Cách tiến hành
Trị chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
- Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề ( ví dụ: đồ dùng học
tập là những dụng cụ của cá nhân dùng đrre học tập hoặc vật nuôi là những con
vật nuôi trong nhà…), giáo viên nêu yêu cầu:
+ Hãy kể ra những từ tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình cảm gia
đình…)
+ Từng nhóm ghi những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để đọc
lên. Thời gian viết khoảng 2-3 phút.
Thứ ba: Trị chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Trị chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu
vốn từ ngữ của học sinh. Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học tập tuần
2, TV2, Tập1.
a.Chuẩn bị
- Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn
( xanh, đỏ, vàng…), tương tự quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc 12
quân bài đã ghi sẵn các từ.
- 1 bộ quân bài dành cho người cầm cái ( trọng tài) khác màu với mỗi bộ quân

bài của người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng ghĩa với từ được
ghi trên quân bài của người chơi.
- Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài
trên tay.
b.Cách tiến hành
Để thực hiện trị chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trị chơi: Mục đích của trị chơi là
học sinh thi tìm từ đồng nghĩa.
Bước 2: Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2- 4 học sinh. Quản trò là
giáo viên và hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:

11


- Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có một bộ quân bài như nhau ( 10, 12
quân)
- Trọng tài lật 1 qn bài chính của mình ( có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài
của người chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có
từ đồng nghĩa với qn bài của trọng tài để đânh ra.
- Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được” ăn” nhiều nhất sẽ thắng
cuộc. Như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi.
Bước 4: Giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài công bố nhóm tìm được nhiều từ
đúng và chính xác nhất, rồi tun dương nhóm tìm được nhiều từ đúng và
nhanh.
Các cặp từ dồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ
bài để cầm cái: học tập- học hành, siêng năng- chăm chỉ, vui vẻ- phấn khởi,
giảng dạy – dạy dỗ, bài tập – bài vở, chăm chú – chú ý, lễ phép – lễ độ, thông
minh – sáng dạ, vâng lời - nghe lời, kiên nhãn – kiên trì…

Thứ tư: Trị chơi tìm nhanh từ trái nghĩa.
Mục tiêu: Học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học
sinh luyện trí thông minh, nhanh mắt nhanh tay.
Cách chuẩn bị và cách chơi giống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa.
Áp dụng trò chơi này khi dạy bài 1 tuần 16: Tìm từ trái nghĩa với mỗi từ sau:
tốt, nhanh, ngoan, trắng, cao, khỏe ( TV2, tập 1, trang 133).
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốt –
xấu, ngoan – hư, nhanh – chậm, trắng – đen, cao – thấp, khỏe – yếu, đẹp xấu,
ngắn- dài..
Thứ năm: Trị chơi thi đốn từ
a. Mục tiêu: Trị chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đoán nhanh một từ
khi biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố về nghĩa từ và
mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
b.Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bị:
- Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1, 2, 3… làm các
bộ phiếu giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả các từ
( ghi theo số thứ tự trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả.
- Giáo viên cùng 2, 3 học sinh làm trọng tài, ghi số sao của các nhóm tham gia
chơi.
c. Cách tiến hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi ( mỗi nhóm 4, 5 học sinh), nêu
yêu cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau
để giải câu đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấy của nhóm. ( nhớ ghi đúng từ
theo số thứ tự trên phiếu).
- Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh giá
( mỗi từ tìm đúng được tính 2 sao).
Ví dụ: Dạy về chủ đề trường học tơi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải
như sau:
1.Viên màu trắng dùng để viết lên bảng.( là gì ?)
2. Nơi em đến học hàng ngày. ( là gì ?)

12


3.Tờ gì mỏng dùng để viết chữ lên. ( là gì ?)
4 .Cột gì cao trước sân trường
Chỉ mang một lá huy hoàng tung bay
Đầu tuần buổi sáng thứ hai
Cả trường, cả lớp ai ai cũng chào ?
( là gì ?)
Thơng qua trị chơi học tập, học sinh được phát triển cả về trí tuệ, thể lực,
nhân cách giúp học sinh phát triển về ngôn ngữ, mở rộng được nhiều vốn từ, rèn
cho học sinh tính nhanh nhẹn, luyện trí thơng minh và cách ứng xử nhanh, làm
giảm tính chất căng thẳng của giờ học. Tạo hứng thú thú học tập cho học sinh.
Trò chơi học tập rất hấp dẫn đối với học sinh. Tuy nhiên, giáo viên không nên
lạm dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi gây nhàm chán đối với
học sinh. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo, chặt chẽ về điều kiện vật chất và cách
thức thể lệ chơi. Trong lúc chơi, giáo viên cần hướng dẫn, động viên hoàn thành
tốt bài tập, tạo sự hưng phấn, thích thú trong tiết học. Tổ chức trò chơi trong giờ
mở rộng vốn từ chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: thời gian ngắn, nội dung kiến
thức thay đổi theo từng bài học… Vì vậy, tổ chức trị chơi phải linh hoạt, khéo
léo, khơng làm ảnh hưởng đến thời gian và đảm bảo chất lượng dạy học.

Trò chơi: “ Em biết tuốt” Mở rộng vốn từ về..( Bài tập 2, TV2, tập1. Trang
137)
Biện pháp 4: Sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ để mở rộng vốn từ:
Sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ kích thích sự sáng tạo, sự chủ
động của học sinh trong q trình tìm hiểu ngơn ngữ giúp học sinh hiểu cặn kẽ
hơn về hiện tượng ngôn ngữ cần nhận thức và nhớ kĩ bài học hơn.
13



Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và
câu được hình thành thơng qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng
cường sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ rất cần thiết trong giờ học
Luyện từ và câu.
Để sử dụng phương pháp này, giáo viên giới thiệu ngữ liệu cần phân tích,
hướng dẫn học sinh quan sát và phân tích ngữ liệu theo định hướng của nội dung
bài học, hướng dẫn học sinh hình thành khái niệm lý thuyết cần đúc kết qua
phân tích hiện tượng ngơn ngữ, hướng dẫn học sinh củng cố và vận dụng lí
thuyết đã học vào việc luyện tập phân tích một số hiện tượng ngơn ngữ.
Ví dụ: dạy bài tuần 2- Mở rộng vốn từ ngữ về học tập - Luyện Từ và câu
lớp 2 trang 9[1]
Bài tập 1 tìm các từ
- Có tiếng học
- Có tiếng tập
Bài tập trên là bài tập tạo lập từ nhiều tiếng từ một tiếng cho trước nhằm
mở rộng và hệ thống hóa vốn từ liên quan đến học tập.
Giáo viên vận dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ để giúp học sinh
xác định được: các tiếng học và tiếng tập là những tiếng cho trước, có thể đứng
phía trước hoặc phía sau ở từ nhiều tiếng mới tìm được.
Giáo viên u cầu học sinh phân tích ví dụ ( mẫu: học tập) mà bài tập đưa
ra đã đạt được những yêu cầu nào. Học sinh cần nêu được:
- Nêu đúng tiếng mà khi ghép với tiếng “học” hay tiếng “tập” tạo thành từ
có nghĩa liên quan đến học tập.
Bài tập 2 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 1
Sau khi học sinh đã hiểu nghĩa của từ giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu
theo yêu cầu của bài.
Ví dụ: Bạn Lan học hành rất chăm chỉ./ Em rất thích tập vẽ.
Ngồi ra, sử dụng phương pháp phân tích ngơn ngữ để GV có cơ sở giúp
HS nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.

Khi sử dụng phương pháp trên vào dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ, tơi
thấy kích thích sự sáng tạo của học sinh trong q trình tìm hiểu ngơn ngữ, rèn
luyện tư duy cho học sinh trong q trình phân tích ngơn ngữ. Học sinh tìm
được nhiều từ mới hơn khi kết hợp với phương pháp gợi mở của giáo viên.
Biện pháp 5: Vận dụng phương pháp quan sát để mở rộng vốn từ
Dùng phương pháp quan sát giúp học sinh phối hợp nhiều giác quan để
quan sát
sự vật, hiện tượng, hình thành các biểu tượng, các khái niệm cụ thể. giúp các em
hứng thú học tập, phát triển khả năng tập trung, chú ý, óc tị mị, khám phá. phát
triển tư duy nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh.
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi mở rộng vốn từ: Quan sát trên
lớp theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà.
Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi
bật của đối tượng, mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên cạnh
đó, tơi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận một
cách có cảm xúc về sự vật.
14


Ví dụ: dạy bài 29 Mở rộng vốn từ về cây cối - Luyện từ và câu lớp 2 có
bài tập 1 yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận của cây ăn quả[2].
Bước 1:Lựa chọn đối tượng quan sát:
- Để học sinh tìm được các bộ phận của cây ăn quả, tôi cho học sinh quan
sát tranh vẽ các cây ăn quả để thấy được các đặc điểm chung của cây ăn quả.
Sau đó, tơi cho học sinh quan sát kĩ 1 cây ăn quả có đủ các bộ phận của cây.
Bước 2:Xác định mục đích quan sát:
Hướng dẫn quan sát từ trên xuống dưới hoặc từ dười lên trên của cây để
tìm các bộ phận của cây.
Bước 3: Báo cáo kết quả quan sát:
Sau khi học sinh quan sát xong, tôi yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận

của cây, em nào kể chưa đủ bộ phận của cây tôi đặt câu hỏi để các em tìm và bổ
sung kết quả. Ví dụ: Bộ phận nào hút chất dinh dưỡng dưới đất để nuôi sống
cây? Bộ phận nào của cây gần tiếp giáp với đất?
Chắc chắn các em sẽ tìm ra được đó là rễ cây, gốc cây.
Để làm được dạng bài này, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát các
đối tượng khác nhau: một bức tranh, một cái cây, một con vật. Biết quan sát tức
là các em biết dùng các giác quan( mắt, mũi, lưỡi, da) để nhận biết đặc điểm của
bức tranh hay con vật, cây cối có hình dạng, màu sắc như thế nào. Khi quan sát,
đầu tiên các em phải có một cái nhìn chung để xác định được mình đang phải
quan sát cái gì? Quan sát cảnh gì? Quan sát con gì? Tiếp theo các em phải biết
cách chia đối tượng thành nhiều phần rồi lần lượt quan sát theo nhiều góc độ.
Các phương tiện dạy học chủ yếu: tranh vẽ minh họa.
Hoạt động chính của học sinh khi học kiểu bài này: giáo viên hướng đẫn
học sinh quan sát tranh, thực hiện các thao tác quan sát. Diễn đạt những điều
quan sát được bằng ngơn ngữ có tính tạo hình. Hướng dẫn học sinh tìm từ ngữ
để thể hiện một cách có hình ảnh những điều đã quan sát được.
Sau khi sử dụng phương pháp quan sát để mở rộng vốn từ, tôi thấy các em
rất hứng thú học tập, tị mị thích được khám phá ra những biểu tượng, những
khái niệm cụ thể về đối tượng. Được quan sát các em đã tìm được rất nhiều từ
ngữ mới mà các em chưa được dùng tới bao giờ.
Biện pháp 6: Làm giàuvốn từ cho học sinh qua giao tiếp:
Sử dụng phương pháp theo định hướng giao tiếp chính là dạy cho học
sinh cách tổ chức giao tiếp bằng ngơn ngữ một cách hiệu quả trong những tình
huống điển hình và những tình huống cụ thể trong dạy học Tiếng Việt đặc biệt là
môn Luyện từ và câu sử dụng phương pháp giao tiếp giúp học sinh học tập sinh
động, hứng thú hơn.

15



Học sinh tự tin trong giao tiếp
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng sử
dụng từ ngữ để đặt câu, kĩ năng nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo
viên điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, tơi
thường tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có
thể kết nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm
việc trong nhóm ).
Chẳng hạn: sau khi học sinh tìm được các từ tả các bộ phận của cây tôi
cho học sinh nối tiếp nhau mỗi em đặt một câu tả về một bộ phận của cây tạo
thành một đoạn văn tả cây cối.Ví dụ: Rễ cây ngoằn ngoèo nằm trên mặt đất./
Thân cây to như cái cột đình./ Cành lá sum suê …
Trong quá trình học sinh đặt câu, nếu em nào dùng từ chưa đúng, giáo
viên chỉnh sửa giúp các em hoàn thiện câu văn đúng và hay.
Khi sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp trong việc mở rộng vốn từ
và rèn kĩ năng sử dụng từ đúng, tôi thấy các em rất hứng thú học tập, bởi các em
được nói ra những điều mình khám phá, được cơ giáo trau chuốt cho từng câu,
từng lời, được cô khen biết đặt những câu đúng và hay vì thế hiệu quả học tập
của các em ngày càng cao.[4]
Biện pháp 7: Khuyến khích sự hứng thú học tập của học sinh qua việc
thi đua, khen thưởng:
Thi đua gắn với khen thưởng là một động lực khơng thể thiếu được trong q
trình học của học sinh. Hình thức thi đua, khen thưởng rất phù hợp với đặc điểm
tâm lí của học sinh tiểu học. Các em phấn đấu vì động cơ rất đơn giản: Cố gắng
để được tích sao, được cơ giáo khen, được bạn bè mến phục, cố gắng để làm vui
lịng
ơng bà, bố mẹ… Trong giờ học mở rộng vốn từ, nhờ khơng khí thi đua, học sinh
sơi nổi hơn, hăng say hơn, khen thưởng giờ mở rộng vốn từ là sự công nhận kết
quả mà học sinh đạt được ( Học sinh tìm ra từ mới, phát hiện ra nghĩa mới câu
từ, đặt câu hỏi, đoạn văn hay…). Nếu được khen đúng lúc, học sinh sẽ cảm thấy
tự

tin và phấn đấu hơn. Hiện nay, giáo viên ít sử dụng khen thưởng nên giờ học
trầm, không sôi nổi và chất lượng dạy học vốn từ cũng bị hạn chế do lí do này.
- Trong q trình dạy mơe rộng vốn từ tơi đã vận dụng phương pháp thi đua,
khen thưởng như sau:
16


+ Trước khi vào bài học hay trước khi tổ chức một trị chơi học tập, giáo viên
nêu tiêu chí thi đua rõ ràng, cụ thể để tạo tâm thế thi đua cho học sinh.
Ví dụ:
*Thi đua xem bạn nào tìm được nhiều từ mới sẽ được tích thêm sao vào sổ
thi đua.
*Thi đua xem nhóm nào thảo luận sơi nổi, hoàn thành bài tập dúng và nhanh
sẽ được cộng thêm sao cho cả nhóm.
*Thi đua giữa các tổ về mọi mặt: nề nếp, ý thức, hiệu quả thảo luận…
- Hình thức khen thưởng đưa ra phải mang tính cụ thể, chủ yếu về mặt tinh
thần để khuyến khích học sinh: tích sao, 1 tràng vỗ tay,…
- Trong mỗi tiết dạy, giáo viên cần kịp thời khen những cá nhân tiêu biểu xuất
sắc và những cá nhân có tiến bộ vượt bậc theo từng nhóm đối tượng học sinh
trong tiết học. Từ đó học sinh cả lớp có thể noi gương để phấn đấu, phấn đấu để
được cô giáo khen và phấn đấu để không kém bạn bè.
- Tuy nhiên, trong mỗi tiết học, không phải mọi học sinh đều có tinh thần thi
đua để học tốt, vẫn có một số học sinh ít chú ý vào bài học. Vì vậy, bên cạnh
việc sử dụng biện pháp khen thưởng, giáo viên phải sử dụng hình thức nhắc nhở
đối với học sinh không chú ý xây dựng bài. Việc nhắc nhở phải nghiêm khắc và
công minh để các em nhận ra khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa để tiến bộ
cùng bạn bè.
Trong giờ mở rộng vốn từ nói riêng và tất cả các giờ học khác nói chung,
giáo viên phải ln tạo được khơng khí thi đua sơi nổi, hào hứng trong giờ học.
Khi học sinh đạt thành tích, giáo viên cần khen thưởng kịp thời để khuyến khích,

động viên các em. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, giáo viên không lạm dụng
quá nhiều gây nhàm chán đối với học sinh.
Biện pháp 8: Hình thành và bồi dưỡng ý thức tự làm giàu vốn từ cho
học sinh.
Theo quan điểm của giáo dục học, tự học là quá trình tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành khơng có sự hướng dẫn
của cơ sở giáo dục. Tự học có thể bằng cách đọc tài liệu, sách giáo khoa, nghe
đài, xem truyền hình, thăm bảo tàng, triển lãm…
Tự học gắn liền với tự ý thức và tự giáo dục. Ở học sinh tiểu học, tự ý
thức và tự giáo dục của các em đang hình thành và phát triển. Do vậy, tự học của
học sinh tiểu học khác với tự học của các cấp học trên( THCS, THPT) về yêu
cầu, mức độ, phạm vi…Tự học của học sinh tiểu học chỉ giới hạn trẻ tự giác
hoàn thành các nhiệm vụ học tập được giao ( làm bài tập về nhà, chuẩn bị để học
bài mới…).Dù trực tiếp hay gián tiếp, hoạt động tự học của học sinh tiểu học
đều có sự hướng dẫn của giáo viên. Tự học của học sinh tiểu học không những
diễn ra ở nhà mà diễn ra ngay trong lớp học với hình thức dạy học cá nhân trên
lớp. Ở hình thức dạy học này, học sinh thực hiện theo nội dung, cách thức và
tiến độ khác nhau tùy thuộc vào năng lực cá nhân, dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
Trên cơ sở đó, tự làm giàu vốn từ có thể hiểu là q trình học sinh tự mình
lĩnh hội vốn từ, tự mình tìm hiểu nghĩa của từ, phân loại quản lí vốn từ và vận
dụng từ vào trong hoàn cảnh giao tiếp.
17


Đối với học sinh lớp 2, tự làm giàu vốn từ có thể bao gồm các cơng việc
sau: Học sinh tự giác hoàn thành các bài tập trong giờ mở rộng vốn từ, hoàn
thành các nhiệm vụ giáo viên giao, có thắc mắc và có ham muốn tìm hiểu từ
mình chưa rõ nghĩa, chưa biết sử dụng, thường xuyên đọc và tra từ điển để tăng
thêm vốn từ và hiểu nghĩa của từ…

Để bồi dưỡng năng lực tự học cho học sinh tôi đã thực hiện như sau:
- Hướng dẫn cho học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ: Giáo viên
giao nhiệm vụ cho học sinh. Khi giao nhiệm vụ, giáo viên phải đảm bảo tất cả
các học sinh đều nhớ và hiểu rõ nhiệm vụ được giao, bao gồm: Ôn lại các từ và
nghĩa vừa học của bài trước, làm các bài tập trong sách giáo khoa, chuẩn bị quan
sát, tìm từ để học bài mới… Giao thêm cho học sinh có nwang khướu các nhiệm
vụ học tập khó hơn, địi hỏi các em phải có sự cố gắng nhiều hơn.
- Hướng dẫn học sinh cách đọc bài, làm bài và sử dụng thời gian tự học.
Khi học bài: Trước khi học bài, học sinh phải nhớ lại bài giáo viên dã giảng
trên lớp ( Bài học chủ đề gì? Những từ đã học là từ gì? Nghĩa của từ đó là gì? Sử
dụng thế nào?...) Tập trung suy nghĩ để hiểu bài, nhớ lâu từ và nghĩa của từ
trong bài. Tập vận dụng những từ vừa học dưới hình thức: Tìm thêm ví dụ, liên
hệ đối chiếu với các từ trong nhóm và với các từ khác, đưa từ vào trong hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể trong cuộc sống của mình.
- Khi làm bài: Đọc kĩ đề bài, làm bài ra giấy nháp, sửa chữa cho chính xác
rồi mới viết vào vở. Nếu gặp những từ chưa hiểu rõ nghĩa học sinh phải tự tra từ
điển hoặc hỏi người lớn để hiểu nghĩa.
Trong khi học bài, làm bài, học sinh phải tập thói quen cẩn thận, chắc
chắn, thực hiện đến nơi đến chốn các nhiệm vụ được giao và bố trí thời gian tự
học hợp lí. Trong buổi tự học, cần giành thời gian để ôn bài vừa học, làm các bài
tập, chuẩn bị cho bài ngày hơm sau.
Có thể kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ tự học của học sinh
thơng qua các hình thức củng cố kiến thức bài học trước, kiểm tra vở bài tập
hoặc nêu ngay câu hỏi để học sinh trả lời ngay đối với học sinh đang học trên
lớp.
Tóm lại, tăng cường tự học làm giàu vốn từ là một trong những con đường để
nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ làm giàu vốn từ cho học sinh. Đồng
thời cũng hình thành và phát triển bước đầu cho học sinh năng lực tự học.
2.4. Kết quả thực hiện SKKN.
Như vậy, trong qua trình dạy học mở rộng vốn từ tôi dã áp dụng một số biện

pháp để làm giàu vốn từ cho học sinh. Các biện pháp này có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Để tìm được các từ theo chủ điểm, phát huy khả năng giao tiếp và
vốn từ sống của học sinh, tôi dùng biện pháp thảo luận nhóm. Để học sinh hứng
thú hơn trong việc học, tơi sử dụng hình thức thi đua, khen thưởng. Để thay đổi
hình thức dạy học, tơi dùng trị chơi trong dạy học. Đồng thời, không phải khi
nào giáo viên cũng tổ chức thảo luận nhóm hoặc trị chơi học tập, sẽ có thời gian
học sinh phải độc lập làm bài tập cá nhân nên giáo viên luôn phải nhắc nhở học
sinh ý thức tự học và hướng dẫn học sinh phương pháp tự làm giàu vốn từ.
Kết quả khảo sát cuối tháng 3 của lớp 2A ( Sử dụng biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh ) và lớp 2B
( không sử dụng biện pháp làm giàu vốn từ cho học sinh):

18


HTT
HT
CHT
Tổng số
HS
SL
TL
SL
TL
SL
TL
2A
30
19
63.7
10

33
1
3,3
2B
30
9
29.7
16
53.8
5
16.5
Thông qua bảng thống kê, ta thấy chất lượng học sinh giữa hai lớp có sự khác
biệt rõ rệt. Điều đó chứng tỏ tính đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp làm
giàu vốn từ cho học sinh mà tôi đã và đang áp dụng.
3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận:
Đứng trước vai trị,vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Luyện từ và câu
cho HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp hai nói riêng, tơi thấy việc
hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Luyện từ và câu là
hết sức cần thiết . Học Tiếng Việt không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ,
về lý luận … mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển 4 kĩ năng nghe, đọc,
nói, viết của học sinh.. Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng
Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng
Việt, một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy
học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số
những khái niệm hay quy tắc ngơn ngữ mà mục đích cuối cùng cần đạt đến lại là
việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ.
Học sinh không chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết
một khối lượng lớn các từ ngữ tiếng việt, mà lại khơng có khả năng sử dụng hiểu
biết ấy vào trong giao tiếp .Dạy Tiếng Việt cho các em, đặc biệt các lớp đầu bậc

tiểu học, không phải chủ yếu là dạy “ Kĩ thuật “ ngôn ngữ mà dạy “ kĩ thuật”
giao tiếp.Vậy dạy Tiếng gắn liền với hoạt động giao tiếp là con đường ngắn
nhất, có hiệu quả nhất giúp HS nắm vững các quy tắc sử dụng ấy.Vì thế, có thể
dạy Tiếng chính là việc dạy cho các em cách tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Mỗi một câu học sinh biết sử dụng từ ngữ thành thạo là một dịp để các em có
thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc sống văn hóa thường
ngày.Vì vậy, giáo viên cần hết sức linh hoạt trong việc giảng dạy truyền kiến
thức cho các em, để các em lĩnh hội kiến thức một cách sáng tạo, thoải mái mà
không bị nhồi nhét, áp đặt. Để làm được điều này giáo viên phải linh hoạt trong
mọi tiết dạy mà lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức lớp học sao cho
đảm bảo tính vừa sức của học sinh tạo tiết học hứng thú và bổ ích.
Qua nghiên cứu thực trạng dạy học mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn
Luyện từ và câu ở lớp 2, tôi thấy việc rèn kĩ năng mở rộng vốn từ là vô cùng
quan trọng. cơng việc này địi hỏi người giáo viên phải linh hoạt, sáng tạo song
cũng cần kiên trì, chịu khó trong suốt q trình giảng dạy Luyện từ và câu nói
chung và dạy học sinh các mơn học khác nói riêng. Việc dạy học sinh theo
hướng nêu trên đã đem tới sự tiến bộ vượt bậc không chỉ riêng ở môn Luyện từ
và câu mà trong giờ tập làm văn hay giờ kể chuyện thì ngơn ngữ của các em
cũng sát thực và giàu hình ảnh hơn.
Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy mở rộng vốn từ trong phân môn
Luyện từ và câu, tôi nhận thấy các em không sợ học phân mơn Luyện từ và câu
nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trị chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ
TT

19


rằng với biện pháp trên, không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp
dụng được. Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện pháp trên để tiến hành
dạy trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục, hiệu quả quả giáo dục của môn

Tiếng Việt cụ thể là phân môn Luyện từ và câu ngày càng tăng cao một cách rõ
rệt. Các biện pháp đó tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ
hẳn trong năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra cịn nhiều hạn chế, thiếu
sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự
đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm của cấp Hội đồng
Khoa học và bạn bè đồng nghiệp.
3.2. Kiến nghị:
Ban giám hiệu nhà trường tham mưu cho cấp trên mua sắm các trang thiết
bị hiện đại phục vụ tốt cho việc dạy học, tổ chức các câu lạc bộ Tiếng Việt để
học sinh được giao lưu và học hỏi lẫn nhau.
Các cấp quản lí giáo dục cần được tổ chức thêm các chuyên đề Tiếng Việt
để tất cả giáo viên được học hỏi thêm kinh nghiệm về cách làm giàu vốn từ cho
học sinh.
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
mình

Nga sơn, ngày 17 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
viết, không sao chép nội dung
của người khác
Phạm Thị Phượng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ GD& ĐT – Sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 1- Nguyễn Minh Thuyết
( chủ biên) – NXBGD Việt Nam.
2. Bộ GD& ĐT – Sách giáo khoa Tiếng Việt 2, tập 2- Nguyễn Minh Thuyết
( chủ biên) – NXBGD Việt Nam.
3. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu hoc II- Lê Phương Nga – Nhà xuất
bản Đại học Sư Phạm..

4. Phương pháp dạy học các môn ở Tiểu học – Nguyễn Hữu Châu - NXBGD
- Bộ GD& ĐT.
5. Chuyên đề Giáo dục Tiểu học – Vụ trưởng Vụ Giáo dục Tiểu học – Nhà
xuất bản Giáo dục ( tập 33,35).
6. Sử dụng các tư liệu, hình ảnh trên Intemet.

20


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phạm Thị Phượng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Nga Điền 1 -Nga Sơn

STT

4

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá xếp
loại ( Phòng, sở,
Tỉnh)

Một số biện pháp rèn chữ - Phòng GD & ĐT
viết cho học sinh lớp 2
Nga Sơn.


Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A,B
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2012-2013
21


5

Một số biện pháp dạy - Phịng GD & ĐT
tốn có lời văn cho học Nga Sơn.
sinh lớp 2

B

2015-2016

22




×