Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm văn ở lớp 5b trường tiểu học thọ thanh, huyện thường xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.58 KB, 13 trang )

STT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Mục lục
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị

TRANG


1
1
1
1
1
2
2
3
4
10
11


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Là giáo viên Tiểu học ai cũng nắm rất rõ: Mục tiêu giáo dục tiểu học là
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi mơn học ở tiểu học đều góp phần
hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần
thiết. Trong đó phải kể đến phân môn tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất
quan trọng là rèn luyện kỹ năng nói và viết cho học sinh. Là nơi thử thách ở học
sinh các kỹ năng tiếng Việt, vốn sống, vốn từ ngữ, năng lực cảm thụ văn học
một cách tổng hợp. Song trên thực tế đa số học sinh còn lúng túng khơng biết
nói gì, viết gì.
Qua thực tế nhiều năm trong quá trình giảng dạy học sinh lớp 5 tại
Trường Tiểu học Thọ Thanh. Tôi nhận thấy rằng hầu hết các bài văn của các em
thường rập khuôn theo mơtíp quen thuộc, lời văn cịn nghèo nàn, thiếu hình ảnh,
thiếu sự quan sát tinh tế làm cho nhân vật trở nên méo mó, cảnh vật thì khơ cứng
Đa phần giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức hết tầm quan trọng của
giờ hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý nên các em ít được phát huy hết khả
năng tiềm ẩn và hồn tồn khơng có tính sáng tạo trong bài viết dẫn đến chất

lượng giờ dạy còn nhiều hạn chế.
Vì vậy dạy cho học sinh biết quan sát tìm ý để hình thành một thói quen, tiền
đề chuẩn bị làm bài văn là một yêu cầu quan trọng khi làm văn. Muốn quan sát tốt,
học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu quan sát để làm văn.
Để giải quyết những tồn tại trên đây hay nói cách khác là giúp các em có
kỹ năng quan sát tìm ý để học tốt phân mơn tập làm văn. Bản thân tơi đã trăn trở,
tìm tịi trong nhiều năm qua và đó cũng chính là lý do tôi chọn đề tài “Một số
kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý để học tốt phân môn tập làm
văn, ở lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh, huyện Thường Xuân”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Dựa vào việc tìm hiểu thực trạng của việc giảng dạy và học tập giờ quan
sát tìm ý cho bài tập làm văn hiện nay, người viết có một số đề xuất về việc
hướng dẫn học sinh biết quan sát tìm ý một cách tích cực có hiệu quả tiến tới
học sinh có khả năng nói và viết tốt hơn.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Chương trình phân mơn tập làm văn.
- Phương pháp dạy phân môn tập làm văn
- Cách tổ chức học sinh quan sát, tìm ý.
- Giáo viên và học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thọ Thanh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu:
+ Đọc tài liệu, sách tham khảo.
1


- Khảo sát thực tế:
+ Dự giờ thăm lớp.
+ Khảo sát tình hình thực tế.
- So sánh đối chiếu.
- Phương pháp thực hành

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.1.1. Vị trí nhiệm vụ phân môn tập làm văn
Phân môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh viết ra các
ngơn bản hay viết tập làm văn cịn là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết, đời
sống, trình độ văn hố của học sinh, bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng
hợp, là nơi trình bày kết quả đích thực của việc học tiếng Việt.
2.1.2. Tiết dạy quan sát và tìm ý
Tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là một công việc thuận về
nguyên tắc khi dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn
tượng, cảm xúc giúp cho việc quan sát tốt hơn. Từ đó hiểu biết kỹ năng về văn
miêu tả được hình thành một cách tự giác chủ yếu qua con đường thực hành.
Tiết học này mở đầu một quy trình dạy một kiểu bài, thông qua một bài cụ
thể luyện cho học sinh hai kỹ năng.
- Tìm tư liệu cho đề bài để chuẩn bị cho bài tập làm văn.
- Cung cấp hiểu biết chung nhất mang tính lý thuyết về kiểu bài, loại bài.
2.1.3. Cơ sở tâm lý và cơ sở ngôn ngữ
- Ở lứa tuổi lớp 5, học sinh đang phát triển về hệ xương, hệ thần kinh, ...
- Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi
vật xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái qt hố. Về
tình cảm các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, các em dễ
xúc động và bắt đầu biết mơ ước, có trí tưởng tượng phong phú. Thích ghi lại
các vấn đề mà mình đã quan sát được song vốn ngơn ngữ cịn hạn chế, sắp xếp ý
chưa có hệ thống và diễn đạt cịn thiếu mạch lạc.
2.1.4. Chương trình và sách giáo khoa
Phân môn tập làm văn ở lớp 5 một tuần có 2 tiết bao gồm các thể loại sau:
- Miêu tả:
+ Tả người
+ Tả cảnh sinh hoạt
- Kể chuyện xây dựng theo chủ đề

- Viết biên bản
2


Số tiết dạy quan sát tìm ý cho học sinh lớp 5 không nhiều nhưng lại vô
cùng quan trọng
- Tiết quan sát tìm ý tả cảnh ( tuần 1)
- Tiết quan sát tìm ý tả người ( tuần 12).
Tiết học này mở đầu cho quy trình dạy một bài văn miêu tả cụ thể. Kết
quả cuối cùng của tiết học này là học sinh phải tìm được ý cần thiết chuẩn bị cho
việc làm bài văn theo yêu cầu của đề bài đã cho.
- Hình thành phương pháp kỹ năng quan sát cho những yêu cầu của các đề
văn khác.
Sách giáo khoa : Sách tiếng Việt lớp 5 và một số sách tham khảo.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng của giáo viên và học sinh
- Phần đông học sinh khi được hỏi các em có thích nghe phân tích cái hay, cái
đẹp trong văn học khơng thì các em trả lời là “Thích” nhưng hỏi các em có thích học
văn khơng thì nhiều em đều trả lời “Khơng thích” vì “Khó học”, “ngại viết”.
Cịn với giáo viên thì đa số đều cho các tiết dạy học sinh quan sát, tìm ý
“khó dạy”. Đây là các tiết mới có từ khi thực hiện SGK cải cách giáo dục, các
chỉ dẫn về phương pháp giảng dạy còn sơ lược, kinh nghiệm giảng dạy của giáo
viên về quan sát tìm ý chưa nhiều. Tuy vậy các tiết quan sát tìm ý lại đóng vai
trị quan trọng đối với phân môn tập làm văn.
2.2.2. Thực trạng việc dạy giờ quan sát tìm ý ở trường Tiểu học
* Nội dung mức độ kỹ năng cần đạt được
Đề bài tập làm văn ở lớp 5 thường chọn những đề bài gần gủi với học sinh
và học sinh có điều kiện quan sát cụ thể đối tượng cần miêu tả.
* Mức độ kỹ năng cần đạt
- Kỹ năng quan sát biết lựa chọn trình tự quan sát, biết sử dụng các giác

quan để quan sát, quan sát cần đi vào trọng tâm của cảnh vật và người từ đó rèn
luyện sự tinh tế trong quan sát.
* Phương pháp
Trình tự tiết dạy thường được thiết kế như sau:
- Kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh.
- Giới thiệu đề bài.
- Tìm hiểu đề.
- Đọc phần hướng dẫn, ghi nhớ.
- Đọc phần quan sát, tìm ý của học sinh đã sắp xếp thành dàn ý.
- Cho nhận xét.
- Tổng kết, dặn dò.
3


* Thực tế học sinh đã học, đã thực hành và thu được kết quả gì qua giờ học
- Học sinh quan sát cịn đại khái, lướt qua nên khơng tìm được ý, do đó ý
nghèo nàn, bài văn khơng có sáng tạo, học sinh ngại nói, ngại viết.
- Học sinh khơng biết ghi chép những gì mà mình quan sát được một cách rõ
ràng, chưa biết sắp xếp ý theo một trình tự hợp lý. Từ đó hạn chế tới việc nói và viết.
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại
- Sự hướng dẫn ở học sinh chưa thật cụ thể, dể hiểu.
- Sự chuẩn bị của giáo viên chưa thật chu đáo do đó hướng dẫn học sinh
quan sát chưa kỹ.
- Học sinh thiếu sự tưởng tượng, ít cảm xúc về đối tượng miêu tả. Không
quan sát theo đúng u cầu. Với ngơn ngữ q ít ỏi, nghèo nàn ... Những nguyên
nhân trên đã ảnh hưởng không tốt đến giờ dạy, không gây được hứng thú học tập
của học sinh.
Đứng trước thực trạng trên, để học sinh lớp 5B trường Tiểu học Thọ
Thanh có kỹ năng quan sát tìm ý, biết sắp xếp các ý mình đã quan sát được và
vân dụng vào các tiết tập làm văn. Bản thân đã cố gắng tìm tịi cách dạy nhằm

giúp các em học tốt phân môn tập làm văn. Nên ngay từ những tuần đầu tiên
bản thân đã mạnh dạn khảo sát học sinh lớp mình thực dạy. Cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến:
Qua thực tế khảo sát đầu năm học 2015 - 2016 với đề bài văn “tả cảnh” ở
lớp 5B, Trường Tiểu học Thọ Thanh do tôi giảng dạy. Kết quả đạt mức như sau:
Nắm được yêu
cầu, thể loại đề
bài

Chưa nắm
được yêu cầu,
thể loại đề bài

Tổng
số bài

24

Biết cách quan
Chưa biết
sát tìm ý và sắp cách quan sát
xếp được
tìm ý và sắp
những điều
xếp được
quan sát theo
những điều
trình tự
quan sát theo
trình tự


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

14

58,3

10

41,7

11

45,8

13


54,2

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Từ thực trạng trên để giúp học sinh có hứng thú học tập và có khả năng
quan sát, tìm ý cho bài tập làm văn tốt, tơi có một số giải phảp sau đây:
2.3.1. Người giáo viên phải xác định rõ nhiệm vụ của phân môn tập
làm văn và nhiệm vụ của giờ quan sát, tìm ý
Bản thân xác định dạy học sinh phân môn tập làm văn là giúp cho các em
nói, viết lưu lốt, học sinh phát triển vốn từ ngữ, bồi dưỡng cảm xúc tình cảm
lành mạnh, trong sáng, khả năng lựa chọn sắp xếp ý rõ ràng. Rèn khả năng tư
4


duy, trí tưởng tượng phong phú. Qua đó vốn sống của các em được tăng lên
giúp các em có khả năng tự tìm tịi và ứng xử linh hoạt trong cuộc sống.
2.3.2. Những việc cần chuẩn bị
a. Chọn đề bài tập làm văn. Chọn những đề bài phù hợp, gần gủi với học
sinh, các em có khả năng trực tiếp quan sát.
Ví dụ: Tả hình dáng tính tình của cơ giáo... của mẹ.... của người thân, hay,
tả quang cảnh sân trường trong giờ ra chơi...
b. Đọc kỹ yêu cầu của đề bài.
Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng của cả giáo viên và học sinh .
- Học sinh đọc kỹ đề bài.
- Phân tích đề bài bằng cách đặt ra các câu hỏi ( bài văn thuộc thể loại
gì? nội dung bài văn là gì? kiểu bài văn? trọng tâm? muốn làm bài tốt cần quan
sát những gì?.
c. Hướng dẫn học sinh quan sát:
Giáo viên cho học sinh biết quan sát để làm tập làm văn và quan sát tìm
hiểu khoa học có mục đích khác nhau:

Mục đích quan sát khoa học là tìm ra cơng dụng cấu tạo của sự vật, đặc
điểm, tính chất của hiện tượng.
Quan sát văn học là tìm ra màu sắc, âm thanh, hình ảnh tiêu biểu và cảm
xúc của người đối với sự vật.
+ Quan sát bằng nhiều giác quan.
Quan sát bằng mắt: Nhận ra màu sắc, hình khối, sự vật.
Quan sát bằng tai: Âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
Quan sát bằng mũi: Những mùi vị tác động đến tình cảm.
Quan sát bằng vị giác và xúc giác: Quan sát cảm nhận
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận lại những ý mình đã quan sát
được một cách đa dạng, phong phú.
+ Quan sát tỉ mỉ nhiều lượt.
Nhận tìm ý cho bài văn , học sinh phải quan sát kỹ, quan sát nhiều lần
cảnh đó, tránh quan sát qua loa như ta nhìn lướt qua, hay liếc nhìn nó thì sẽ
khơng tìm ra những ý hay cho bài văn.
+ Học sinh cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
- Học sinh có thể lựa chọn các trình tự trên xuống dưới hoặc từ dưới lên
trên, từ trái sang phải hay từ ngoài vào trong, từ xa đến gần.
Trình tự thời gian, quan sát từ sáng đến tối, từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc...
Trình tự tâm lý, thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc quan sát trước.
d. Học sinh học nắm được yêu cầu quan sát của bài văn.
5


Phải tìm được những nét riêng tiêu biểu của sự vật. Không cần đầy đủ sự
việc, chỉ cần chép lại những đặc điểm mà mình cảm nhận sâu sắc nhất không
thống kê tỉ mỉ mọi chi tiết về sự vật.
Để làm được bài văn đúng yêu cầu của đề bài, q trình quan sát khơng thể
dàn đều mà phải tìm ra trọng tâm. Để tìm hiểu kỹ trọng tâm quan sát là nét chính
của bài nổi bật chủ đề của bài văn và dùng ý của người viết. Có như vậy bài viết

mới tránh khỏi dàn trải, nhạt nhẽo, lan man.
Quan sát trong văn học cần giúp cho học sinh có hứng thú và say mê, từ
đó bộc lộ được cảm xúc của bản thân trước đối tượng quan sát. Có hứng thú,
cảm xúc học sinh mới dễ dàng tìm từ, chọn ý giúp cho việc diễn tả sinh động và
hấp dẫn.
e. Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh quan sát:
Ví dụ: Bài văn thuộc thể loại gì ?
Kiểu bài văn là gì ?
Trọng tâm miêu tả cảnh nào ?
Quan sát cảnh đó vào lúc nào ?
Quan sát theo thứ tự nào ?
Quan sát bằng những giác quan nào ?
Quan sát như vậy nhìn thấy cảnh gì ?
Nghe thấy âm thanh gì ? Có cảm xúc gì ?
Có nhận xét gì qua những quan sát đó.
2.3.3. Tổ chức cho học sinh quan sát:
Tuỳ theo đề bài, giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát ngay tại địa điểm
có cảnh vật cần tả.
Ví dụ: Tả một cây cổ thụ

Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát cây cổ thụ
6


Nếu khơng thể tổ chức quan sát được thì giáo viên cho học sinh quan sát
cảnh vật trước khi tới lớp và ghi lại những điều ghi nhận được.
Học sinh phải tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính.
Giáo viên có thể nêu những câu hỏi chung cả lớp.
Giáo viên có thể có những câu hỏi gợi mở, học sinh trả lời miệng hoặc
giáo viên chỉ cần gợi ý riêng cho một số đối tượng học sinh chưa biết cách quan

sát tìm ý.
Giáo viên giành thời gian tối đa cho hoạt động này, học sinh có thể đứng
một chỗ, để có vị trí thích hợp quan sát, các em có thể dịch chuyển vị trí thảo
luận nhóm để tìm ý.

Học sinh đứng ở vị trí thích hợp để quan sát
Giáo viên có thể gợi ý các em phát hiện những nét đặc sắc của bầu trời,
cây cối, cảnh vật từ đó các em có sự liên tưởng.

Giáo viên hướng dẫn học sinh phát hiện những nét đặc sắc của cây
cối, bầu trời
7


2.3.4. Quy trình lên lớp:
a. Giáo viên kiểm tra phần chuẩn bị của học sinh
b. Lên lớp:
- Giới thiệu đề bài, viết đề bài
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, nắm chắc đề bài.
+ Thể loại
+ Kiểu bài
- Đối tượng miêu tả.
- Trọng tâm
- Cảnh đó diễn ra ở đâu lúc nào ?
- Giáo viên vừa gợi ý, vừa gạch dưới những từ quan trọng.
2.3.5. Hoàn chỉnh bài chuẩn bị
Học sinh đọc hướng dẫn và ghi nhớ
2.3.6. Học sinh trình bày những điều quan sát được đã sắp xếp theo trình
tự.
Học sinh trình bày

Học sinh nhận xét: Đã quan sát tỉ mỉ chưa:
Đã sắp xếp theo trình tự hợp lý chưa ?
Đã có trọng tâm chưa?
Hoạt động nào để tả chính ?
Đã chọn lọc nét tiêu biểu chưa ?
Đã bộc lộ được cảm xúc khi tả chưa ?
2.3.7. Củng cố:
- Một em đọc phần tìm ý tương đối hồn chỉnh
Dặn dò:
- Tiếp tục quan sát, bổ sung cho dàn bài chi tiết.
- Chú ý tìm từ, câu sinh động để diễn tả những điều quan sát được.
2.3.8. Kết hợp các yếu tố giáo dục khác
Như chúng ta đều biết các bài làm văn miêu tả, thì vốn sống, vốn hiểu biết
của các em chưa phong phú, các em còn hạn chế trong quá trình tìm hiểu thế giới
xung quanh. Dù giáo viên cố gắng rất nhiều song việc hướng dẫn, tổ chức quan
sát đối tượng miêu tả, dù các em có quan sát rất kỹ đến mấy, nhưng do vốn từ
nghèo nàn. Nên các em cũng chỉ biết dựa vào giàn bài liệt kê hàng loạt chi tiết quan
sát được, không biết lựa chọn từ ngữ vừa sát thực và gợi tả, gợi cảm.
Để cung cấp thêm vốn từ cho học sinh, trước tiên phải dạy tốt các phân
môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Chính tả. Khi dạy cần chú ý xây
8


dựng vốn từ cho học sinh ngoài những từ đã có trong sách giáo khoa. Các em có
thể tự bổ sung thêm một số từ ngữ khác bằng sự hiểu biết của mình.
Trong các giờ Luyện từ và câu giáo viên hướng dẫn để các em có thể sử
dụng từ ngữ để đặt câu đúng, câu hay hoặc giáo viên ra bài tập cho các em làm
để các em nắm được giá trị gợi tả, gợi cảm. Khi sử dụng từ chúng ta có thể cho
các em tìm từ điền vào chỗ trống.
Ví dụ: Em hãy điền những từ ngữ sau đây vào chỗ trống sao cho câu thơ

đúng và gợi cảm nhất (ríu rít, thánh thốt, râm ram,…)
Muốn bài văn được tốt, cái đơn giản nhất nhưng cũng khó nhất là dùng từ
chính xác. Loại từ thường được sử dụng và mang giá trị biểu đạt cao là từ tượng
thanh và từ láy, từ tượng hình.
Ví dụ:
Tả màu da có thể dùng: xanh xao, hồng hào, trắng trẻo,…
Tả về đơi mắt có thể dùng: lay láy, long lanh, trịn xoe,…
Hình dáng: lênh khênh, mập mạp, gầy gầy, thon thả,…
Tả tiếng cười, giọng nói: thỏ thẻ, ríu rít, khúc khích, thì thào, lanh lảnh,…
Khi miêu tả tính nết tuỳ thuộc vào lứa tuổi để tả phù hợp…
Ví dụ:
Một đứa trẻ có thể:
+ Hiền lành, thơng minh, sáng dạ,…
+ Một đứa trẻ chậm chạp, lười biếng,…
+ Một đứa trẻ hiếu thảo, đáng thương,…
Một bà mẹ có thể:
+ Một người mẹ dịu dàng.
+ Một người mẹ bao dung.
+ Một người mẹ đảm đang, chịu thương, chịu khó,…
Ví dụ:
Một cụ già có thể:
+ Sống giản dị , hiền lành, phúc hậu, khoan dung, độ lượng,…
+ Thật thà, chất phát, hiền hoà, thương con, quý cháu,…
Ví dụ: Đi cày về
Bố em đội sấm, đội chớp, đội cả trời mưa
Tại sao tác giả lại dùng từ “đội” mà khơng dùng từ “chịu”, “vượt”
Ngồi ra, khi quan sát bản thân đã định hướng cho học sinh cần chọn một
số nét đặc trưng để tả
9



Ví dụ: Tả người khơng cần thiết bao giờ cũng tả đẹp, tả những nét tốt, nét
tiêu biểu mà có thể chỉ là một nét riêng biệt của người đó như:
Cùng tả về một người mẹ: Một em học sinh viết: "Mẹ của em phải làm
lụng vất vả, các ngón tay của mẹ gầy gầy, xương xương. Mái tóc của mẹ đã
điểm bạc và làn da có nhiều nếp nhăn".
Có em chỉ chọn nét đặc trưng đó là đơi vai của mẹ, em viết: "đôi vai của
mẹ đã thành chai sạn từ bao giờ không biết, chỉ thấy cái u chai đã dày cộm lên
do suốt đời mẹ chỉ biết gánh và gánh. Mấy chiếc địn gánh khơng rời vai mẹ, mẹ
gánh thóc, gánh gạo… gánh đến lúc da rớm máu. Đôi vai ấy con tin rằng suốt
đời không bao giờ trở lại lành lặn như đôi vai người thường đâu mẹ ạ. Nhưng
chính vì đơi vai chai sạn, bé nhỏ mỏng manh ấy lại gánh được bao nhiêu thứ mà
người thường không thể làm được".
Khi tả một đôi vai của người mẹ ở đoạn 2 chúng ta thấy hiện lên một hình
ảnh bà mẹ vất vả, chịu thương, chịu khó dù khơng nói một lời u thương mẹ
nhưng chúng ta lại thấy tác giả bài viết bộc lộ qua bài viết yêu mẹ biết nhường nào.
Mặt khác qua các bài tập đọc, tôi đã hướng dẫn các em về cách dùng từ
ngữ, hình ảnh hay phân tích tâm trạng cảm xúc của nhân vật qua các bài văn.
Chỉ rõ những biện pháp tu từ mà tác giả đã sử dụng trong các tác phẩm. Để
khi làm văn các em biết cách sử dụng những biện pháp tu từ cho bài văn sinh động.
Ví dụ: “ Mắt hiền sáng tựa vì sao
Bác nhìn đến tận Cà Mau cuối trời”
Hay khi học đến bài “Hạt gạo làng ta”, tôi cung cấp thêm cho học sinh
nghệ thuật tu từ, cách miêu tả giàu cảm xúc và sử dụng các hình ảnh đối lập.
Qua đó học sinh biết cách quan sát tinh tế có chọn lọc khi miêu tả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với một số kinh nghiệm hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý như trên. Tơi
thấy tiết quan sát tìm ý của phân mơn tập làm văn lớp tôi thực dạy đã đạt kết quả
tốt. Số lượng học sinh nắm được thể loại, yêu cầu bài đã tăng lên. Nhiều học
sinh đã biết cách quan sát tìm ý và sắp xếp được những điều quan sát theo trình

tự. Đa phần bài văn của các em đã biết dùng từ ngữ gợi tả, gợi cảm. Nhiều em
đã biết sử dụng biện pháp tu từ để câu văn chứa đầy hình ảnh và giàu cảm xúc.
Qua cách dạy này đã rèn luyện cho học sinh có kỹ năng quan sát, tìm ý. Học
sinh đã thực sự có hứng thú trong các tiết học các tiết tập làm văn. Chính vì vậy
hiệu quả giờ học tập làm văn lớp tôi thực dạy đã được nâng lên rõ rệt.
So sánh với kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến và sau khi áp
dụng sáng kiến trên kết quả lớp tôi thu được như sau:

10


Nắm được yêu
cầu, thể loại đề
bài

Chưa nắm
được yêu cầu,
thể loại đề bài

Tổng số
bài

24

Biết cách quan Chưa biết cách
sát tìm ý và sắp quan sát tìm ý
xếp được
và sắp xếp
những điều
được những

quan sát theo
điều quan sát
trình tự
theo trình tự

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

24

100

0

0

22


91,7

2

8,3

Các bài kiểm tra định kỳ phân môn tập làm văn các em làm bài đạt từ
hoàn thành trở lên là 100%.
3. Kết luận, kiến nghị
Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý trước khi làm bài tập làm văn thực sự
là một vấn đề cần thiết và quan trọng.
Giáo viên phải tạo điều kiện cho các em đến tận nơi quan sát đối tượng
được miêu tả. Tổ chức cho các em quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Mặt
khác giáo viên phải dạy tốt tiết quan sát tìm ý. Trong tiết học đó, học sinh phải
tập quan sát bằng nhiều giác quan khác nhau. Tuy vậy giáo viên cũng cần hướng
dẫn các em quan sát, phải huy động vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc
rồi ghi chép lại. Trong giờ học giáo viên phải hướng dẫn các em, nhận xét, uốn
nắn, chuẩn bị ứng phó các tình huống sư phạm. Giờ tập làm văn phải đảm bảo
theo hướng đổi mới phương pháp dạy học, các em được học tập tích cực, chủ
động và sáng tạo suy nghĩ độc lập, tự nhiên khơng gị bó, rập khn, máy móc.
Tuy nhiên học sinh vẫn cịn một số khó khăn khi quan sát, tìm ý. Vì vậy địi hỏi
giáo viên phải linh hoạt và sáng tạo trong việc hướng dẫn học sinh, giáo viên
phải động viên và khuyến khích các em mạnh dạn tích cực hơn, có như vậy, học
sinh mới có thể học tốt phân môn tập làm văn ở lớp cuối cấp này.
Có thể nói, bước đầu thành cơng trong các tiết tập làm văn cho học sinh
lớp 5B Trường Tiểu học Thọ Thanh là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ
đem kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở
các năm sau, với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất
lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học.

Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình dạy học sinh
quan sát tìm ý. Tuy vậy với khả năng trình độ và suy nghĩ của bản thân cịn
nhiều hạn chế, chắc chắn khơng khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý
chân thành của ban giám hiệu nhà trường, các bạn đồng nghiệp và Hội đồng
khoa học các cấp để tơi có thể hồn thiện mình hơn, để việc dạy dỗ thế hệ trẻ
ngày càng đạt kết quả tốt hơn .
Tôi xin chân thành cảm ơn !
11


XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thường Xuân, ngày 20 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Huế

12



×