Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Rèn kỹ năng viết văn tả cảnh cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 23 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tất cả chúng ta đều hiểu rằng, học sinh Tiểu học chỉ có thể học tập được
các môn học khác khi có kiến thức Tiếng Việt vì đây là phương tiện giao tiếp, là
công cụ trao đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Trong môn Tiếng Việt có nhiều
phân môn, mỗi phân môn mang một kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau.
Bắt đầu khởi động bằng môn Học vần, tiếp theo là Tập viết, Chính tả, Luyện từ
và câu,… cuối cùng làTập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học
tiểu học. Nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc,
viết mà còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và
còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới. Đặc
biệt, kiến thức Tập làm văn ở Tiểu học tập trung nhiều trong chương trình Tập
làm văn lớp 4 – 5 với các kiểu bài như: trao đổi ý kiến; kể chuyện; miêu tả.., tôi
nhận thấy học
sinh có thể làm tốt các kiểu bài ở thể loại văn miêu tả như: tả đồ vật, tả con vật,
tả người; nhưng trong chương trình Tập làm văn lớp 5, khi làm văn tả cảnh thì
học sinh còn nhiều lúng túng; câu văn thường ngắn ngủn, thiếu bộ phận, thiếu
hình ảnh; diễn đạt rườm rà, thiếu cảm xúc... Các bài viết thường rơi vào tình
trạng liệt kê, kể mà không tả. Do vậy, khi dạy kiểu bài này đòi hỏi giáo viên phải
có nhiều sáng tạo, linh hoạt trong quá trình lên lớp, chuẩn bị thật công phu các
tình huống có thể gặp ở học sinh.
Là một giáo viên đã trải qua nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 4, 5 ,tôi
nhận thấy văn tả cảnh là một kiểu bài khó vì học sinh chưa có khả năng quan sát
tinh tế, chưa cảm nhận được vẻ đẹp hay những thay đổi của cảnh, không biết
dựa vào cảm xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn và
viết thành những bài văn thì lại càng khó khăn hơn nhiều. Đây lại chính là cái
đích cuối cùng mà phân môn Tập làm văn đòi hỏi người học cần đạt tới.
Chính vì vậy, tôi luôn trăn trở suy nghĩ để làm thế nào cho học sinh thích
làm văn,lời văn chân thật, có cảm xúc. Trong 3 năm học: 2015 – 2016, 20162017; 2017 - 2018, tôi đã dạy và tìm hiểu khá kĩ về mảng Tập làm văn, đặc biệt
là văn tả cảnh lớp 5. Tôi đã áp dụng một số phương pháp và thấy có những kết


quả đáng mừng. Kinh nghiệm này được áp dụng và đã mang lại hiệu quả nhất
định trong dạy Tập làm văn. Năm học 2017- 2018, tôi mạnh dạn đề xuất sáng
kiến kinh nghiệm nhỏ “ Rèn kĩ năng viết văn tả cảnh cho học sinh lớp 5”, để
nghiên cứu với hi vọng góp phần nâng cao trình độ của bản thân và nâng cao
chất lượng bài viết văn tả cảnh cho học sinh. Qua đây, tôi mong muốn nhận
được nhiều ý kiến trao đổi của đồng nghiệp để sáng kiến thực sự có giá trị trong
quá trình dạy học.
2.Mục đích nghiên cứu:
*Giúp học sinh lớp 5:
- Hiểu được đặc điểm của thể loại văn tả cảnh, trọng tâm miêu tả của từng bài.
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý, biết sử dụng sơ đồ tư duy để lập dàn ý
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch lạc.
1


- Rèn kĩ năng viết các đoạn văn, bài văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những cảnh vật xung
quanh các em.
- Có cách nhìn sự vật theo hướng tích cực, ham thích quan sát, tìm tòi khám phá.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả ở các lớp sau…
* Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV nói
chung và trong dạy học sinh viết văn tả cảnh nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học
3.Đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 5A trường Tiểu học Lê Văn Tám.
- Đối tượng nghiên cứu: Thể loại văn tả cảnh lớp 5, một số kinh nghiệm rèn viết
văn tả cảnh.

4.Phương pháp nghiên cứu: Để nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm đạt
hiệu quả, tôi đã kết hợp sử dụng nhiều phương pháp
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
4.2. Phương pháp quan sát sư phạm:
4.3. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
4.4. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
4.5. Phương pháp trực quan
4.6. Phương pháp thực hành
4.7.Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:

I.

NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và
phát triển cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Thông qua việc dạy học
Tiếng Việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức
sơ giản về xã hội, về văn hóa của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu
Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng
Việt.
Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau. Việc dạy và học mỗi phân
môn có những thuận lợi và khó khăn riêng, song khó hơn cả đối với người dạy
cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học
Tiểu học. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung
quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng
dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn văn,
bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.


2


Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính
của chương trình Tập làm văn lớp 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một kiểu bài khó
vì với học sinh lớp 5 kĩ năng quan sát, tư duy trừu tượng, vốn từ, vốn hiểu biết
vẫn còn hạn chế. Trong khi đó, kiểu bài văn tả cảnh trong phân môn Tập làm
văn ở lớp 5 là thể loại văn dùng ngôn ngữ để “vẽ” ra các sự vật, con người, con
vật, cảnh vật, sự việc… một cách sinh động, cụ thể. Một bài văn miêu tả hay
không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động về đối tượng miêu tả mà
còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với
đối tượng được miêu tả. … Học sinh lại còn phải biết kết hợp hài hòa nhiều kĩ
năng như: phân tích đề, tìm ý, lập dàn ý, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn… Thế
nhưng trong thực tế giảng dạy tôi thấy số lượng học sinh viết được bài văn tả
cảnh hay còn rất hạn chế. Đa số các em khi làm bài văn tả cảnh còn mang tính
kể lể, liệt kê các sự việc, sự vật. Kĩ năng sử dụng từ, viết câu, liên kết các đoạn
chưa tốt, các ý chưa gắn kết với nhau, câu văn thiếu hình ảnh và thiếu cảm xúc,
chưa gắn với thực tế dẫn đến chất lượng bài văn còn thấp so với yêu cầu.
Từ những hạn chế trên tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Làm thế nào để tiết học Tập
làm văn nhẹ nhàng mà hiệu quả? Làm thế nào để các em hoạt động tích cực, chủ
động trong giờ học Tập làm văn? Làm thế nào để các em có kĩ năng viết được
một bài văn tả cảnh hoàn chỉnh đạt được yêu cầu như mong muốn?
Đó cũng chính là lí do tôi đưa ra nghiên cứu và đúc rút kinh nghiệm: “Rèn kĩ
năng viết văn tả cảnh cho học sinh lớp 5”.
2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thực trạng học sinh:
Qua trực tiếp giảng dạy phân môn Tập làm văn, tôi thấy khi làm văn tả cảnh
trong bài viết của các em còn có một số mặt hạn chế sau:
Tổng số
HS


43

Bài viết xúc
tích, lời văn
sinh động,
sáng tạo, giàu
hình ảnh,
cảm xúc chân
thực.
SL
8

%
18,6

Bài viết đúng
trọng tâm của
đề, lời văn chưa
giàu hình ảnh, ít
sử dụng các biện
pháp nghệ thuật
khi miêu tả.
SL
18

%
41,9

Bài viết đã

đúng yêu cầu
của đề, nhưng
miêu tả còn sơ
sài, chưa đúng
trọng tâm ,sa
vào liệt kê.
SL
13

%
30,2

Bài viết chưa
đúng yêu cầu
của đề, sắp xếp
ý lộn xộn bố
cục bài chưa rõ
ràng, sai nhiều
lỗi chính tả.
SL
4

%
9,3

Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với các em. Đôi khi các em ngại
viết, ngại và thậm chísợ phải làm bài văn miêu tả.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh
chưa đạt yêu cầu? Qua quá trình giảng dạy lớp 5 mà cụ thể là dạy dạng bài tập

làm văn tả cảnh, tôi nhận thấy chất lượng các bài văn tả cảnh của học sinh chưa
được cao do nhiều nguyên nhân.

3


b. Nguyên nhân của thực trạng:
* Về phía học sinh:
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định đúng yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh chưa tập trung quan sát đối tượng miêu tả hoặc là khi quan sát thì các
em thiếu kĩ năng và mục đích quan sát: quan sát những gì, quan sát từ đâu? Làm
thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả?...
- Các em chưa biết hình dung các đối tượng miêu tả thông qua hình ảnh, âm
thanh, cảm giác… về sự vật khi quan sát.
- Các em ít tìm hiểu và đọc sách, báo, tài liệu tham khảo liên quan đến môn học
để tích lũy vốn từ nên vốn từ của các em đơn điệu, nghèo nàn. Các em lại không
biết sắp xếp câu văn, ý văn như thế nào để bài viết được mạch lạc. Bên cạnh đó
việc diễn đạt một cảnh bằng vốn từ ngữ của các em về một sự vật, cảnh vật, về
một con người cụ thể nào đó cũng gặp nhiều lúng túng.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa linh hoạt, chủ động, sáng tạo khi tổ chức dạy trên lớp, hình
thức dạy học còn đơn điệu chưa gây được hứng thú cho học sinh.
- Giáo viên chưa quan tâm rèn luyện cho học sinh thói quen đọc sách, đọc các
bài văn mẫu để học tập các ý văn hay, từ ngữ đẹp, cách tả mới mẻ.
- Giáo viên thực hiện các yêu cầu khi trả bài viết của học sinh chưa thật sự tỉ mỉ,
chưa giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự
chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là vấn đề có thể giải
quyết được trong một tiết, một tuần… mà là cả một quá trình dạy Tập làm văn
bởi dạng văn tả cảnh là sự kết hợp của nhiều thể loại văn các em đã học và còn
cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới.

3. Các biện pháp đã sử dụng :
3.1. Những vấn đề cần giải quyết.
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên, yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi
mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn một cách
say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn. Để đạt được mục tiêu trên theo
tôi cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chính sau:
- Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và ghi chép.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh bằng cách luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu,
sử dụng biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả thông qua tất cả các phân môn
của môn Tiếng Việt.
- Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng.
3.2. Một số biện pháp để giải quyết các vấn đề.
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải
quyết các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh như sau:
a. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh.
- Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là
con người và cuộc sống con người. Đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp
4


và sống động diễn ra quanh ta, thay đổi từng giờ, từng ngày. Vậy nên tôi yêu cầu
học sinh phải thường xuyên quan sát và ghi chép.
- Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả thì kĩ năng quan sát và ghi chép
những điều đã quan sát được là một trong những việc làm rất cần thiết. Ngay từ
đầu năm học, tôi đã hình thành và tạo cho các em có thói quen quan sát và ghi
chép những điều mình quan sát được về đối tượng mình cần miêu tả( Chẳng hạn
khi tả cây có bóng mát, tôi cho học sinh trực tiếp xuống sân trường quan sát các
cây cho bóng mát như bàng, xà cừ,.... Tôi yêu cầu các em quan sát bằng các
giác quan để cảm nhận các đặc điểm của cây như: dùng tay sờ vào thân cây để

cảm nhận lớp vỏ thô nhám, sần sùi; Vòng tay ôm thân cây để thấy độ to của
thân, dùng mắt để quan sát màu sắc của lá, dùng tai để lắng nghe tiếng lá
reo khi có gió thổi....). Chính nhờ tạo được cho các em thói quen quan sát đó
nên khi chuyển sang thể loại tả cảnh, các em biết quan sát đối tượng miêu tả qua
các tiết học ngoài trời, quan sát thực tế với những bài văn tả cảnh đẹp quê
hương, trường lớp,…
- Muốn quan sát có hiệu quả , tôi hướng dẫn các em quan sát phải có tính mục
đích, phải có cách nghĩ, cách cảm nhận của riêng mình. Qua việc quan sát chi
tiết tỉ mỉ, học sinh sẽ thấy được bản chất của sự việc. Khi quan sát, tôi yêu cầu
các em tránh những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Miêu tả một
cách chi tiết nhưng mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm riêng biệt, nổi bật,
gây ấn tượng,… Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của cảnh. Tôi cũng yêu
cầu học sinh ghi chép lại những hình ảnh quan sát được một cách đầy đủ.
- Ban đầu tôi hướng dẫn học sinh quan sát để tìm ra màu sắc, âm thanh, hình
ảnh tiêu biểu của sự vật và cảm xúc của mình đối với sự vật.
Khi quan sát, tôi khuyến khích các em cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan
khác nhau:
+ Quan sát bằng mắt để nhìn ra hình khối sự vật.
+ Quan sát bằng tai để nhận ra âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
+ Quan sát bằng mũi nhằm nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm.
+ Quan sát bằng vị giác, xúc giác để cảm nhận.
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, hình ảnh phong phú
* Ví dụ: Đề bài “Em hãy lập dàn ý tả một cơn mưa.”
(Tập làm văn: Luyện tập tả cảnh – Tiết 5 tuần 3 – SGK trang 31)
- Tôi hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan như sau:
+Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy hạt mưa rơi, thấy
cây cối, con người (trước, trong và sau cơn mưa)...
+ Xúc giác: Gió thổi làm xua tan cái nóng mà nhường chỗ cho luồng khí mát lạnh.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng ếch
nhái... - Bên cạnh đó, các em học sinh được tôi lưu ý: khi quan sát cần quan sát

tỉ mỉ. Tôi nhấn mạnh cho các em các nội dung:
+ Cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
+ Có thể quan sát từ cụ thể đến bao quát hoặc ngược lại.
5


+ Quan sát từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới…
+ Quan sát theo trình tự không gian (từ xa đến gần hay từ gần đến xa).
+ Quan sát theo trình tự thời gian (theo các thời điểm trong ngày, theo mùa ...)
Tôi minh họa cho học sinh các cách quan sát đó qua các bài tập đọc để các em
hiểu hơn và có thể vận dụng khi viết văn:
* Ví dụ 1: Quan sát từ ngoài vào trong để miêu tả cảnh Đền Hùng.
“Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những
khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập
dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà
uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
* Ví dụ 2: Quan sát theo trình tự thời gian để miêu tả cây thảo quả.
( Bài : Mùa thảo quả trang 113 – SGK Tiếng Việt 5 tập 1)
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm
lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo
trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một
thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
b. Làm giàu vốn từ cho học sinh:
Khi trực tiếp giảng dạy các tiết Tập làm văn tôi thấy các em học sinh ít tham
gia phát biểu. Lí do là các em không biết thể hiện ý của mình bằng câu văn nào,
hoặc khi viết câu văn còn diễn đạt lủng củng, chưa rõ nghĩa … bởi lẽ vốn từ của
các em còn quá ít. Chính vì thế tôi dùng biện pháp làm giàu vốn từ cho các em
trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ và qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu và từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,….
- Làm giàu vốn từ qua phân môn Tập đọc: Khi dạy Tập đọc tôi đã chỉ ra các

từ ngữ miêu tả, cách sử dụng biện pháp tu từ, cách đặt câu trong một vài trường
hợp đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Việc
phân tích này giúp các em tiếp cận đựơc với các văn bản nghệ thuật, tiếp cận
với kĩ năng viết văn một cách thường xuyên và có chất lượng mà lại nhẹ nhàng
không áp đặt.
- Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ qua phân môn Luyện từ và câu: Ở lớp
5 phân môn Luyện từ và câu là phân môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ
nhiều nhất. Đặc biệt là các tiết: Mở rộng vốn từ; Từ đồng âm; Từ nhiều nghĩa;
Từ trái nghĩa. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết
thực như tìm từ, ghép từ, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm (nhóm
miêu tả đặc điểm của cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động)... Tôi khuyến khích các
em tìm được càng nhiều từ theo yêu cầu càng tốt bằng cách tổ chức thành các trò
chơi như : Nhìn hình đoán từ; đi tìm ẩn số, trò chơi truyền điiện ... để tạo hứng
thú và nhớ từ, hiểu nghĩa từ và sử dụng từ đúng với văn cảnh cụ thể cho các
em.
* Ví dụ: Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các từ ngữ
vừa tìm được
(Bài tập 4 - SGK Tiếng Việt 5 - trang 78 ).
6


a. Tả sóng nước. M: ì ầm, ì oạp.....
b. Tả làn sóng nhẹ. M: lăn tăn, ...
c. Tả đợt sóng mạnh. M: cuồn cuộn,....
Riêng với phần đặt câu tôi khuyến khích các em đặt câu thêm với các từ
khác. Việc làm này sẽ giúp các em biết sử dụng vốn từ để đặt câu.
- Làm giàu vốn từ từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,…Tôi khuyến khích các
em xuống thư viện đọc sách, báo, truyện,... .để tích lũy thêm vốn từ.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh trong các giờ sinh hoạt Sao; giờ hoạt động Ngoài
giờ lên lớp, phong trào “ Nói chuẩn, viết chuẩn Tiếng Việt”, .....

Để tích lũy vốn từ tôi khích lệ học sinh tham gia các hoạt động:

Học sinh hoạt động nhóm: Giúp các em mạnh Học sinh thi bày cỗ trung thu: Giúp các
dạn trong giao tiếp, nói mạch lạc, lưu loát
em biết miêu tả lại sự vui vẻ, hào hứng, biết
dùng từ ngữ chỉ, màu sắc của các loại trái
cây, bánh kẹo...

Quang cảnh buổi lễ Chào cờ: Giúp các em
biết quan sát trình tự của một buổi lễ Chào cờ,
sắp xếp các ý hợp lí

Niềm vui ngày Khai giảng: Qua buổi lễ,
học sinh thể hiện được tình cảm yêu trường
lớp, thầy cô, bạn bè...

7


Qua các cách trên học sinh nhận thấy tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ
gợi tả, gợi cảm. Từ đó biết cách chọn từ và sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm,
những biện pháp nghệ thuật sao cho phù hợp với văn cảnh. Giúp các em mạnh
dạn và tự tin hơn trong giao tiếp.
c. Luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật
trong văn miêu tả.
* Về cách dùng từ: Sau khi học sinh đã có vốn từ nhất định, tôi giúp học sinh các
cách sử dụng vốn từ trong miêu tả.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình
cảm một cách rõ ràng.
- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ, tính từ.

- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là từ láy, từ tượng hình, tượng thanh..
- Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ.
+ Dùng từ chính xác: Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dùng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn vành vạnh toả ánh sáng dịu dàng
xuống vạn vật.
+ Dùng âm thanh: Mưa rơi tí tách trên mái hiên, rơi lộp độp trên tàu lá chuối….
* Về cách đặt câu:
- Phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là khi viết câu phải xác định được đâu
là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là các vế trong câu ghép, ....
- Biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên
tưởng... biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu (câu hỏi tu từ, đảo ngữ, điệp
ngữ, so sánh, nhân hoá...).
* Ví dụ: + Phép liên kết câu:
+ Phép lặp: Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi
để mang phù sa màu mỡ cho đất đai.
+ Biện pháp tu từ (thường dùng):
. Câu hỏi tu từ: Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào
là cảnh gì không? Đó chính là dòng sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
. So sánh: Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu trời.
. Nhân hoá: Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác lên
cỏ cây, hoa lá.
- Tôi giúp các em phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử
dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như
người viết đang kể lể dài dòng về cảnh. Tôi luôn nhấn mạnh với học sinh:
+ Câu văn kể: Thông báo cho người đọc, người nghe biết về sự việc, sự vật.
+ Câu văn tả: là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu, các
biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có thể
cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
8



Câu văn kể

Câu văn tả

- Ông mặt trời vén màn mây trắng, ban
- Mặt trời chiếu ánh nắng xuống
phát hàng ngàn vạn tia nắng vàng óng
mặt đất.
như tơ xuống mặt đất.
- Hết năm này đến năm khác, sông cứ
- Lúc nào sông cũng chảy để mang
cần mẫn chảy mang phù sa bồi đắp cho
phù sa cho đất.
đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt.
3.3. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng giúp học sinh viết bài văn đúng hướng, không bị sai lệch về cả nội
dung và hình thức.
a. Hướng dẫn học sinh nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
- Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
Ví dụ: Tả cánh đồng thì tập trung tả cánh đồng, không miên man tả sâu cảnh
xóm làng nằm bên cạnh cánh đồng, hay cảnh trời mây ... cho dù các sự vật đó
cũng có liên quan.
- Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?): Tả cảnh nào thì người đọc hình dung cảnh đó
Ví dụ: Tả cảnh cánh đồng thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không thể
tách rời như: Lúa, ngô, rau màu, thửa ruộng, đàn trâu, con người lao động...
- Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
Ví dụ: Tả cánh đồng với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào của

người dân quê hương, ích lợi mà cánh đồng mang lại….
- Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ: Tả cánh đồng với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp nên thơ...
b. Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả:
- Bước 1: Tìm hiểu đề.
- Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý.
- Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh.
- Bước 4: Kiểm tra lại bài.
* Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Tác dụng: Giúp học sinh xác định được đúng trọng tâm yêu cầu đề bài, tránh
làm lạc đề. Nói cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được mình
đang làm bài văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu cầu, giới
hạn đến đâu...
- Cách thực hiện: Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề. Phân tích đề bằng cách:
9


Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Gạch 3 gạch dưới từ xác định thời gian miêu tả. (việc làm này tùy thuộc vào
yêu cầu của đề bài vì có đề bài cho thời gian miêu tả nhưng cũng có đề không
cho thời gian miêu tả.)
* Ví dụ: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ.
Học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc trả lời các câu hỏi:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào? (Thể loại văn miêu tả).
- Đối tượng miêu tả là gì ? (cánh đồng lúa quê em).
- Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào? (sau trận mưa rào đầu mùa hạ).
Sau khi đọc đề bài và đã trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành

gạch chân trực tiếp trên đề bài.
Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ
* Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý:
- Sau khi tìm hiểu đề các em đã xác định chính xác đối tượng miêu tả
nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Tôi hướng dẫn
cho học sinh tìm ý cho bài văn tả cảnh. Việc tìm ý cho bài văn phải được tiến
hành song song với việc quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Để làm được việc
trên tôi hướng cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng ghi lại tỉ mỉ những nét
tiêu biểu, đặc sắc của cảnh để làm tư liệu cho việc lập dàn ý.
* Ví dụ: Để quan sát và tìm ý bài: Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong
giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
- Khung cảnh và không khí của sân trường trước giờ ra chơi như thế nào?
- Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó?
+ Học sinh từ các lớp ra sân như thế nào?
- Lúc có tiếng trống báo hoạt động giữa giờ:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? Tiếng nói? các
nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường?)
+ Nhóm hoạt động sôi nổi nhất là nhóm nào? Họ chơi những trò chơi gì? Các
bạn trong nhóm hoạt động thế nào?...
+ Tiếng hò reo, cổ vũ của các cổ động viên lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết thúc?
- Sau khi hoạt động giữa giờ xong:
+ Trên khuôn mặt một số bạn có biểu hiện gì?
+ Không khí trên sân trường lúc này ra sao?
- Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi?
+ Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học trò?

10



Trình tự miêu tả trong văn tả cảnh có thể là trình tự không gian, có thể là trình
tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để lựa chọn cho phù hợp.
* Ví dụ: Với bài :Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong giờ ra chơi" , ta
nên chọn trình tự thời gian
Cảnh sân trường trước giờ ra chơi…. Khi có tiếng trống báo hiệu giờ ra chơi
…. Cảnh tập thể dục ( múa hát sân trường )... Giờ ra chơi kết thúc …
* Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là không gian như:
+ Nhìn từ xa dòng sông như dải lụa mềm mại …..  Nước sông trong veo in
rõ từng mảng mây trời. …. Bờ bên trái là hàng phi lao ..... in bóng xuống mặt
sông như .... …. Bên phải là con đường nhựa nhẵn bóng như đang sánh duyên
cùng con dòng sông… ……
- Khi đã xác định được trình tự miêu tả thì học sinh tiến hành lập dàn ý
+ Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả
+ Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian.
+ Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.

Cảnh múa hát sân trường trong giờ ra chơi của học sinh trường Lê Văn Tám

Dưới đây là ví dụ dàn ý của bài văn tả cảnh mà học sinh đã làm:
Ví dụ 1: Dàn ý : Tả cảnh đồng lúa quê em. (Bài tập 1- tiết 15 Luyện tập tả cảnh
– Tuần 8 – SGK Tiếng Việt 5 tập 1) Em Hoàng Minh Trang lớp 5A
11


12


* Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh:

Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất. Trên cơ sở dàn bài
vừa lập, các em viết thành bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (mở bài, thân bài, kết
bài). Để viết được bài văn sinh động, giàu hình ảnh cuốn hút người đọc tôi đã
định hướng cho học sinh làm tốt cả ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).
- Mở bài: Là phần đầu tiên là phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người
đọc cảm giác ấn tượng về bài viết. Phần này có vai trò và tầm quan trọng khá đặc
biệt vì vậy một mở bài ngắn gọn, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và
báo hiệu một bài văn hay. Để học sinh làm tốt phần mở bài các em cần hiểu được
thế nào là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
+ Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ miêu tả.
Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và thích hợp với bài
viết ngắn tuy nhiên nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp
dẫn.
Với kiểu mở bài này , học sinh có một số cách vào bài trực tiếp như sau:
- Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh
Ví dụ: Ôi, dòng sông quê em mới đẹp làm sao !
- Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí hoặc thời gian quan sát cảnh.
Ví dụ: Trước trường em, có dòng sông hiền hòa thơ mộng.
+ Mở bài gián tiếp: Là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu đối
tượng mình định tả. Khi dạy kiểu mở bài này tôi hướng dẫn các em một số cách
mở bài gián tiếp như:
- Mở bài bằng một cách so sánh.
Ví dụ: Tuổi thơ ấu của tôi gắn liền với nhiều kỉ niệm. Con đường thơ mộng ngày
hai buổi đưa đôi chân nhún nhảy của tôi đến trường. Triền đê - nơi tôi và các bạn
thi nhau thả diều vào mỗi buổi chiều hè.... Nhưng thân thiết với tôi nhất vẫn là
cảnh nhộn nhịp của sân trường vào giờ ra chơi.
- Mở bài bằng một câu nói.
Ví dụ: “Trên đời này, em yêu ai nhất?”.
Không chần chừ em sẽ khẳng định em yêu mẹ nhất trên đời. Mẹ không chỉ là
người đã sinh ra, nuôi nấng em, mẹ còn là người bạn chia sẻ mọi buồn vui, cùng

em khám phá kho tàng chuyện cổ tích vào tối chủ nhật mỗi tuần.
- Mở bài bằng cách trích dẫn câu văn, câu thơ, câu đố, câu hát… về đối tượng.
Ví dụ: ..... Én có gì lạ, báo mùa xuân sang
Nắng có gì lạ mà cánh hoa hồng tươi....
Lời bài hát vang lên trên loa phát thanh của khu phố trong buổi sáng đầu xuân
khiến lòng tôi xốn xang, rạo rực. Vẫn là chim, là nắng, là hoa,....mà sao sáng nay
tôi thấy đáng yêu đến thế. Có lẽ, mùa xuân đã đến trên quê hương tôi thật rồi.
Với mỗi bài văn tôi luôn khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp. Vì
mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn gây hứng
thú cho người đọc.
13


- Thân bài: Để giúp các em làm tốt phần thân bài, tôi hướng dẫn học sinh:
+ Bám sát dàn bài chi tiết.
+ Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ về câu như so sánh, nhân hóa.
+ Trình bày đoạn văn đúng cách có liên kết đoạn: Mỗi cảnh nhỏ sẽ viết thành
một đoạn văn trọn vẹn, trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể. Sau đó
dùng từ ngữ, dùng câu liên kết các đoạn văn lại với nhau.
+ Sử dụng đúng các dấu câu: Sử dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ giúp bài văn trở
nên rõ ràng, rành mạch.
Ví dụ : Hãy tả đêm trăng rằm trung thu.
Em Hàn Hải Yến lớp 5A

- Kết bài: Nếu như mở bài như một lời thân ái mời chào của người viết đối với
khách tới thăm thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép lại
trước mắt người đọc những cảm xúc, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em đã miêu
tả, nó kết lại những ý lớn ở phần thân bài. Vì thế khi viết phần kết bài, tôi cũng
đã hướng dẫn các em viết làm sao cho thật cô đọng, ngắn gọn. Để làm được điều
đó các em cần hiểu được thế nào là kết bài mở rộng và không mở rộng đồng thời

cũng biết được với mỗi cách kết bài đều có những cách diễn đạt khác nhau.
+ Kết bài không mở rộng: Thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý:
. Nhận xét, đánh giá về cảnh.
. Hoặc tình cảm đối với cảnh. ` Hoặc hành động : Chăm sóc, bảo vệ,... Các ý
trên có thể được sắp xếp ở các vị trí để tạo ra các kết bài khác nhau.
* Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các ý:
Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp!
Tình cảm : Yêu quý và luôn cảm thấy thích thú khi ngắm khu vườn.
Hành động : Chăm sóc, bảo vệ cây cối.
Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài chung đảo trật tự như sau:
14


Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải mái. Em
sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc: Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó. Em sẽ
chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc: Chăm sóc và bảo vệ cây cối ở đây để khu vườn ngày thêm đẹp là niềm
vui của em.
Kiểu kết bài mở rộng: Khi viết kết bài mở rộng học sinh vẫn đưa 3 ý suy nghĩ,
tình cảm, hành động nhưng diễn đạt mở rộng bằng cách:
.
. Nêu ra câu hỏi.
. Nêu một ý mới lạ.
. Đưa ra một lời bình.
Từ việc phân tích một số mẫu kết bài trên học sinh sẽ luyện tập viết kết bài theo
một trong các cách kể trên.
* Bước 4: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn:
Đây là bước rất cần thiết, nó giúp các em sửa chữa những lỗi sai khi viết văn
như: lỗi chính tả, cách dùng từ, đặt câu, tạo đoạn, dấu câu, cách trình bày và đặc

biệt là nhận biết được mình đã làm đúng yêu cầu đề bài chưa và bổ sung nội
dung còn thiếu. Dưới đây là một minh chứng cụ thể cho đề bài
“Tả con đường từ nhà em đến trường vào một buổi sáng đẹp trời” Em
Trịnh Phương Thu lớp 5A đã miêu tả con đường từ nhà đến trường như sau

15


3.4. Giáo viên chấm bài và trả bài viết:
a. Chấm bài: Đối với giáo viên việc chấm bài cho học sinh rất cần thiết bởi kết
quả bài viết của các em sẽ cho giáo viên biết được ưu điểm, hạn chế trong cách
dạy để điều chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp.
Với mỗi bài tôi thường đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về
diễn đạt của học sinh, xem học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng
tâm bài viết chưa. Sau đó, tôi đọc kĩ từng phần trong bài viết của các em để phát
hiện và ghi lại câu văn hay, ý hay, đoạn văn giàu hình ảnh, …, đồng thời cũng
ghi lại những lỗi sai mà học sinh mắc phải (lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu...)
vào sổ theo dõi chấm bài để làm dữ liệu cho tiết trả bài. Trong quá trình chấm
bài mà phát hiện ra lỗi các em mắc phải tôi thường dùng bút đỏ gạch chân, với
một số lỗi điển hình tôi trực tiếp sửa lỗi sang bên cạnh để lưu ý cho học sinh.
Sau khi xem xét toàn bài tôi ghi những lời nhận xét cụ thể về những ưu điểm cần
phát huy, những nhược điểm cần khắc phục của bài viết.
Khi chấm xong, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và rút ra
những tiến bộ cần phát huy, những thiếu sót cần sửa chữa, bổ sung để chuẩn bị
cho tiết trả bài sắp tới….
b. Trả bài viết: Như chúng ta đã biết tiết trả bài viết là tiết sau cùng của một đề
văn, nhưng đây lại là tiết thiết thực nhất, cụ thể nhất để các em thấy được
16



ưu, nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau.
Tìm cách và biết cách sửa lỗi. Vì vậy theo tôi, giáo viên cần nắm rõ nội dung,
phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, có ba hoạt động
chính:
1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút
kinh nghiệm.
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, tôi đã lấy thông tin từ bài viết của học sinh (đã
chấm và ghi ở sổ theo dõi chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một
cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
* Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp:
- Trước khi nhận xét bài viết của học sinh tôi thường ghi lại đề bài lên bảng. Sau
đó cho các em xác định lại yêu cầu của đề bài. Việc làm này giúp các em có thể
so sánh và hình dung ra bài viết của mình đúng như thế nào? Mình thiếu những
gì? Từ đó các em dễ dàng nắm được ưu và nhược điểm trong bài viết của mình.
- Khi nhận xét chung về bài viết của học sinh tôi thường nêu rõ những ưu điểm
cũng như một số hạn chế trong bài viết.
+ Ưu điểm: . Học sinh đã hiểu đề và xác định đúng yêu cầu của đề.
. Bố cục đầy đủ, sắp xếp các ý hợp lí, lôgic. Câu văn diễn đạt rõ ý, giàu hình ảnh.
. Bài viết có sự sáng tạo khi miêu tả.
. Viết đúng chính tả, bài viết trình bày sạch đẹp….
Với những bài viết có một số ưu điểm trên hoặc những bài viết có sự tiến bộ tôi
thường tuyên dương các em trước lớp để khích lệ các em, tạo động lực cho các
em làm bài tốt hơn trong các bài tiếp theo.
+ Hạn chế: - Bài viết còn sai lỗi chính tả, dùng từ chưa chính xác, lặp từ, câu
văn diễn đạt chưa rõ ý, trình bày bài chưa sạch đẹp,…
- Để giúp các em khắc phục những hạn chế trên tôi thường yêu cầu học sinh
thảo luận với bạn phát hiện lỗi sai và tìm cách sửa lại.
* Hoạt động 2: Chữa bài

- Trả bài viết cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài làm của
mình, lời nhận xét chung và những chỗ lưu ý cụ thể của cô giáo trong bài viết
- Sau khi đọc bài và đã phát hiện ra lỗi sai thì tôi yêu cầu các em tự chữa
bài của mình rồi đổi bài cho bạn để kiểm tra, giúp nhau về việc chữa lỗi.
* Hoạt động 3: Cho học sinh đọc lại câu văn hay, ý hay, một số đoạn, hoặc vài
bài văn hay của mình cho cả lớp nghe.
Sau khi nghe bạn đọc tôi gợi ý cho các em nhận xét, nêu những ưu điểm
trong bài văn của bạn (về bố cục, sắp xếp ý, diễn đạt, dùng từ đặt câu, sử dụng
biện pháp nghệ thuật…) để học tập.
4. Hiệu quả của sáng kiến đối với hoạt động giáo dục:
Trong bối cảnh hiện nay, giáo viên không chỉ dạy kiến thức cho học sinh mà còn
17


phải có phương pháp làm cho các em đam mê học tập, có kĩ năng giao tiếp, quan
sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những phẩm chất
tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Vì thế khi áp dụng sáng kiến
“Rèn kĩ năng viết văn tả cảnh cho HS lớp 5” trong giảng dạy môn Tiếng Việt
cho học sinh, tôi nhận thấy việc thực hiện thông tư 22 của BGD về đánh giá học
sinh Tiểu học vào đánh giá quá trình học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn
Tập làm văn nói riêng có những ưu điểm sau:
- Giáo viên điều chỉnh đổi mới phương pháp, hình thức dạy học theo chuẩn
kiến thức kĩ năng môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Từ đó đánh giá được kết quả học tập của học sinh ngay trong từng hoạt động
học tập.
- Thành tích học tập của các em học sinh có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết
văn các em đã hứng thú làm văn tả cảnh theo trình tự các bước. Nhiều bài văn có
chất lượng cao. Tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi về chính tả, lỗi dùng từ
đặt câu...đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử dụng những biện pháp tu từ
so sánh, nhân hóa làm cho bài văn trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh

đó các em còn biết làm văn có cảm xúc hơn, câu văn chau chuốt hơn, mở bài,
kết bài khá ấn tượng.... Học sinh biết tự đánh giá mình, đánh giá bạn, biết học
tập những ưu điểm của bạn và sửa chữa những hạn chế của mình .
Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn đã nâng lên rõ rệt. Xin
trích dẫn vài số liệu thống kê kết quả khảo sát khả năng làm văn tả cảnh của 43
học sinh ở lớp5A do tôi chủ nhiệm như sau:

Thời
gian
khảo
sát

Tháng
9

Mức độ đánh giá
Bài viết xúc
Bài viết hay,
Bài viết đã
Bài viết
tích, lời văn
lời văn sinh
đúng yêu cầu
chưa đúng
Tổng
sinh động,
động giàu hình của đề, nhưng
yêu cầu của
số
sáng tạo giàu

ảnh, đôi chỗ
miêu tả còn
đề, sắp xếp
HS
hình ảnh, cảm
diễn đạt còn
sơ sài, hoặc
ý lộn xộn
xúc chân thực.
lủng củng
lan man.
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
43

8

18,6

18

41,9

13


30,2

4

9,3

43

10

23,3

21

48,8

9

20,9

3

7,0

Tháng
2

43


15

34,9

22

51,2

5

11,6

1

2,3

Tháng
3

43

20

46,5

21

48,8

2


4,7

0

0

Tháng
11

III KẾT LUẬN
18


* Kết luận:
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn tả cảnh sinh
động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức
nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề
nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tụy thì việc mong muốn có nhiều học sinh
giỏi văn sẽ không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những
biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất
lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho
nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta
phải tôn trọng , giúp đỡ để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn, yêu thích
học văn. Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn tả cảnh
cho học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm
này tiếp tục áp dụng để giảng dạy trong năm học này và các năm sau, với mong
muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp

Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh
cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng
nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của
giáo viên nhưng chúng ta truyền được lửa đam mê, ham học hỏi cho các em thì
các em sẽ viết được nhữngbài văn tả cảnh hay, giàu cảm xúc.
*Kiến nghị:
Qua quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy để dạy tốt
thể loại văn tả cảnh thì trước tiên giáo viên phải lưu ý một số vấn đề sau:
- Giáo viên cần lưu ý học sinh phải hiểu rõ miêu tả là gì? Đặc biệt để tả cảnh cần
quan sát kĩ, dùng các giác quan quan sát và nhận xét cẩn thận, bằng trí óc tìm
các chi tiết đặc biệt để làm nổi bật đề bài.
- Khảo sát chất lượng học sinh làm văn một số dạng bài trước đó để nắm tình
hình học làm văn của các em.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức phù hợp với lớp và phù hợp tới từng nhóm
đối tượng học sinh.
- Nghiên cứu bài thật kỹ trước khi lên lớp. Đối với mỗi thể loại văn miêu tả
nói chung, tả cảnh nói riêng và mỗi bài văn giáo viên cần đặc biệt lưu ý các
điểm sau
+ Giúp học sinh nắm chắc phương pháp cơ bản nhất của văn miêu tả và văn tả
cảnh.
+ Rèn cho học sinh một số kĩ năng: Kĩ năng quan sát, kĩ năng sử dụng từ ngữ và
các biện pháp nghệ thuật tu từ, kĩ năng đặt câu …
+ Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học các phân môn
khác của môn Tiếng Việt và các môn học khác.
+ Tạo thói quen chăm chú nghe giảng, nắm vững kiểu bài, có kĩ năng quan sát,
tìm ý, tìm từ ngữ phù hợp, có bố cục rõ ràng,…
19



+ Nhận xét, đánh giá kịp thời thường xuyên, chuyển kết quả đánh giá của giáo
viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh.
+ Tạo không khí sôi nổi, tôn trọng học sinh, khích lệ động viên khi các em có sự
cố gắng dù là đôi chút…
+ Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để cung cấp cho học
sinh những hình ảnh sinh động về cảnh vật và đặc biệt là những cảnh đẹp của
đất nước mà các em ít có điều kiện biết đến.
+ Thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học đặc biệt là giáo dục môi trường.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng vào
quá trình dạy Tập làm văn tả cảnh ở lớp 5. Tuy một số biện pháp này bước đầu
đã mang lại hiệu quả thiết thực song trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sẽ
không tránh khỏi những mặt còn hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp
ý chân thành của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến hoàn
thiện hơn, có hiệu quả hơn trong những năm học tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

(xác nhận)
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….

Nguyễn Thị Xuân Hạnh


20


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN TẢ CẢNH
CHO HỌC SINH LỚP 5

Người thực hiện: Nguyễn Thị Xuân Hạnh
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Lê Văn Tám
SKKN thuộc lĩnh vực môn : Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2018

21


MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang


I

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1.

Lí do chọn đề tài

1

2.

Mục đích nghiên cứu

1

3.

Đối tượng nghiên cứu

2

4.

Phương pháp nghiên cứu

2


II

NỘI DUNG

2

1

Cơ sở lí luận

2

2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

3

3

Các biện pháp đã sử dụng

4

3.1

Những vấn đề cần giải quyết

4


3.2

Mộtsố biện pháp để giải quyết các vấn đề

4

3.3

Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung

9

và tả cảnh nói riêng
3.4
III

Giáo viên chấm bài và trả bài viết
KẾT LUẬN

16
19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TT
1

Tên tài liệu
Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1-2

Chủ biên: Nguyễn Minh Thiết- NXB Giáo dục Việt Nam
22


2

Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1-2
Chủ biên: Nguyễn Minh Thiết- NXB Giáo dục Việt Nam

3

Luyện Tập làm văn lớp 5
Chủ biên: Lê Phương Nga- NXB Đại học Sư phạm

4

Những bài văn mẫu lớp 5 Tập 1-2
Chủ biên: Trần Thị Thìn- NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh

5

Rèn kĩ năng Tập làm văn lớp 5 qua các bài văn chọn lọc
Chủ biên: Lê Phương Nga- NXB Giáo dục Việt Nam

6

Bồi dưỡng Văn- Tiếng Việt lớp 5
Chủ biên: Nguyễn Thị Kim Dung- NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh

7


Tạp chí Giáo dục Tiểu học - Bộ giáo dục và Đào tạo

8

Rèn kĩ năng cảm thụ văn, thơ cho HS lớp 5
Chủ biên: Nguyễn Trí- NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh

23



×