PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO PHÙ CỪ
TRƯỜNG TIÓU HỌC MINH TÂN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN TẢ CẢNH CHO HỌC SINH LỚP 5”
Trường Tiểu học Minh Tân
Phân môn: Tập làm văn
Tác giả:
Hoàng Thị Thúy Vinh
Chức vụ : Giáo viên
Tổ :
4; 5
Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Minh Tân
Năm học: 2013 - 2014
1
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO PHÙ CỪ
TRƯỜNG TIÓU HỌC MINH TÂN
Sáng kiến kinh nghiệm:
RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN TẢ CẢNH CHO HỌC SINH LỚP 5
Trường Tiểu học Minh Tân
Phân môn: Tập làm văn
Tác giả: Hoàng Thị Thúy Vinh
Chức vụ: Giáo viên
TỔ: 4; 5
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Minh Tân
Năm học: 2013 – 2014
MỤC LỤC
2
Nội dung chính
STT
1 Mục lục
2
Lời cảm ơn
Trang
3
5
PHẦN MỞ ĐẦU
3
6
I. Lí do chọn đề tài.
1. Cơ sở lí luận
2. Cơ sở thực tiễn
4
II. Mục đích nghiên cứu
5
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
1. Khách thể nghiên cứu
2. Đối tượng nghiên cứu
6
7
7
8
8
8
6
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu.
8
7
8
V. Phương pháp nghiên cứu
VI. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
8
9
9
VII . Thời gian hoàn thành
9
B. NỘI DUNG
10
Chương I Những vấn đề chung
I. Cơ sở lí luận liên quan đến dạy học văn tả cảnh
II. Tình hình thực tế dạy và học
III. Những vấn đề cần giải quyết.
11
Chương II
Phương pháp tiến hành
9
9
10
13
13
1. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói
chung và tả cảnh nói riêng.
Bước 1: Tìm hiểu đề
13
14
Bước 2: Bước quan sát và tìm ý
Bước 3. Sắp xếp ý và lập dàn ý
Bước 4: Tạo bài văn
15
18
20
Bước 5: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn
24
3
2. Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh.
2.1 Chọn đối tượng miêu tả
2.2. Xây dựng mở bài trong bài văn tả cảnh
2.3 Xây dựng phần thân bài khi miêu tả cảnh.
2.4 Xây dựng kết bài văn tả cảnh
Chương III
12
26
27
27
30
31
32
XÂY DỰNG MỘT SỐ BÀI TẬP BỔ TRỢ RÈN KĨ NĂNG SỬ DỤNG
TỪ NGỮ VÀ CÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TU TỪ
1 Vai trò của bài tập và nguyên tắc xây dựng
2. Các bài tập hình thành kiến thức hiểu biết về kiểu bài
32
33
3. Các bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ
36
4. Bài tập rèn kĩ năng viết câu có hình ảnh.
37
5. Dạng bài tập cảm thụ cái hay, cái đẹp trong việc dùng từ và
biện pháp tu từ trong một số đoạn văn, đoạn thơ hay.
38
6. Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ, khi
39
học, đọc các bài văn, thơ về tả cảnh. Cung cấp vốn sống, vốn
hiểu biết về cảnh.
13
Chương IV: KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
41
14
Chương V . KẾT LUẬN CHUNG
42
I. Bài học kinh nghiệm
II. Những vấn đề còn bỏ ngỏ; điều kiện thực hiện đề tài,
43
hướng tiếp tục nghiên cứu và kiến nghị
2.1. Những vấn đề còn bỏ ngỏ
2.2. Điều kiện thực hiện đề tài
15
III, Những vấn đề còn hạn chế.
IV. Hướng tiếp tục nghiên cứu
43
43
45
45
16
Kết luận chung
46
17
Tài liệu tham khảo
48
4
LỜI CẢM ƠN
Sáng kiến kinh nghiệm‘‘ Rèn kĩ năng viết văn tả cảnh cho học sinh
lớp 5” mà tôi nghiên cứu đến nay đã hoàn thành. Có được kết quả này, tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Phòng Giáo dục Đào tạo huyện Phù Cừ đã tạo điều kiện
để tôi nghiên cứu và thực hiện.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban giám hiệu Trường Tiểu học Minh
Tân, giáo viên tổ: 4, 5, cô giáo Lê Phương Nga, các bạn học lớp K4 ĐHSP, đã hỗ
trợ, giúp tôi thu thập tài liệu, lựa chọn phương pháp làm cơ sở cho việc nghiên cứu.
Cũng trong dịp này, tôi xin cảm ơn các em học sinh khối 5 Trường Tiểu học Minh
Tân khóa học 2012 – 2013 và khóa học 2013 – 2014 đã ủng hộ, giúp đỡ để tôi
hoàn thành nghiên cứu này.
Trong quá trình nghiên cứu, do thời gian có hạn và cách nhìn của bản thân
không tránh khỏi phiến diện, sai sót. Vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp của các chuyên viên Phòng giáo dục, Ban giám hiệu trường và các bạn
đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi có tính khả thi cao, góp phần vào
việc nâng cao chất lượng học viết văn nói riêng và học tập nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Minh Tân ngày, 10 tháng 3 năm 2014
Người viết
Hoàng Thị Thúy Vinh
A. PHẦN MỞ ĐẦU
5
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình tiểu học, cùng với môn toán môn Tiếng Việt chiếm khá
nhiều thời gian so với các môn học khác. Môn Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành
và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng việt để học tập và giao tiếp
trong các môi trường của lứa tuổi.Thông qua việc dạy học Tiếng việt, góp phần rèn
luyện tư duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và
con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu
Tiếng việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt,
góp phần hình thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Môn Tiếng việt gồm nhiều phân môn khác nhau như tập đọc, luyện từ và câu,
kể chuyện, tập viết, chính tả, tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người dạy cũng
như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học tiểu
học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà
còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt
còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại
và năng động. Dạy tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung
quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng
dạycác em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản- còn gọi là đoạn văn, bài
văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng việt.
Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của
chương trình tập làm văn 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một kiểu bài khó vì học sinh
không có khả năng quan sát tinh tế, mặt khác có những cảnh học sinh chỉ có thể
gặp một lần khi đi du lịch hay xem trên truyền hình, không cảm nhận được vẻ đẹp
của cảnh hay những thay đổi của cảnh, không biết dựa vào cảm xúc của mình để
làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn.
Làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả thì lại là một vấn đề rất
khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm công tác
giáo dục.
2. Cơ sở thực tiễn:
6
Là một giáo viên đã trải qua nhiều năm giảng dạy chương trình lớp 4, 5 tôi
nhận thấy thể loại văn tả cảnh trong phân môn Tập làm văn ở lớp 5 là thể loại văn
dùng lời nói có hình ảnh và cảm xúc làm cho người nghe, người đọc hình dung
một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự việc như nó vốn có trong đời
sống. Một bài văn miêu tả hay không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh
động đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá
của người viết đối với đối tượng được miêu tả. Thực tế giảng dạy tập làm văn phần
tả cảnh, bản thân người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy lúng
túng, bí từ và không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài
văn hay, có hình ảnh có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo
viên, sách thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu
lại chỉ có các bài văn đã viết sẵn và thực tế mẫu nhưng không phải là chuẩn mực,
có chăng chỉ là đôi chỗ có câu, ý hay,… mà lại không có một sự hướng dẫn cụ thể
nào để định hướng cho giáo viên cũng như học sinh.
Là một giáo viên tiểu học tôi luôn trăn trở suy nghĩ để làm thế nào cho học sinh
thích làm văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh động. Trong năm học 2011 –
2012, 2012- 2013, tôi đã dạy và tìm hiểu khá kĩ về mảng Tập làm văn, đặc biệt là
văn tả cảnh lớp 5. Tôi đã áp dụng một số phương pháp và thấy có những kết quả
đáng mừng. Kinh nghiệm này được áp dụng và đã mang lại hiệu quả nhất định
trong dạy Tập làm văn. Năm học 2013- 2014, tôi mạnh dạn đề xuất một vài biện
pháp nhỏ “ Rèn kĩ năng viết bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5”, để nghiên cứu
với hi vọng gúp phần nâng cao trình độ của bản thân và nâng cao chất lượng dạy học văn tả cảnh lớp 5 nói riêng và nâng cao chất lượng dạy học nói chung. Qua
đây, tôi mong muốn nhận được nhiều ý kiến trao đổi của đồng nghiệp để đề tài
thực sự có giá trị trong quá trình dạy học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
1. Giúp học sinh lớp 5:
- Hiểu được đặc điểm của thể loại văn tả cảnh, trọng tâm miêu tả của từng bài.
- Biết những ưu điểm và hạn chế của mình trong viết văn và có biện pháp tốt cho
việc học viết văn của mình.
7
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý, biết sử dụng sơ đồ tư duy để lập dàn ý,
viết bài.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát, mạch
lạc.
- Rèn kĩ năng viết các đoạn văn, bài văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những cảnh vật xung quanh
các em.
- Có cách nhìn sự vật theo hướng tích cực, ham thích quan sát, tìm tòi khám phá.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả ở các lớp sau…
2. Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy TLV nói
chung và trong dạy học sinh viết văn tả cảnh nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
III, KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1. Khách thể nghiên cứu: - Học sinh lớp 5 trường Tiểu học Minh Tân.
2. Đối tượng nghiên cứu: - Thể loại văn tả cảnh lớp 5, một số kinh nghiệm rèn
viết văn tả cảnh.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1. Tìm hiểu mục tiêu, nội dung dạy- học văn tả cảnh lớp 5.
2. Thực trạng dạy- học văn tả cảnh ở lớp 5.
3. Một số biện pháp dạy- học văn tả cảnh lớp 5.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp nghiên cứu lí luận:
- Đọc tài liệu liên quan đến đề tài
- Nghiên cứu nội dung chương trình TLV 5, mạch kiến thức Dạy viết văn tả
cảnh.
2. Phương pháp quan sát sư phạm:
- Điều tra thực trạng qua từng giai đoạn trong suốt năm học, trao đổi với giáo viên
và học sinh, tìm hiểu thực tế việc dạy- học phân môn TLV trong trường Tiểu học.
8
- So sánh đối chứng trong cùng một giai đoạn giữa lớp này với lớp kia, giữa các
giai đoạn với nhau trong cùng một lớp, đối chứng cả với những năm học trước.
- Quan sát tinh thần, thái độ, ý thức học TLV của học sinh lớp dạy thực nghiệm và
học sinh lớp khác trong khi đi dự giờ, quan sát phương pháp sư phạm của giáo
viên giảng dạy, quan sát chất lượng bài viết của học sinh ở từng dạng miêu tả khác
nhau để tìm hiểu những tác nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng viết văn miêu
tả của học sinh.
3. Ứng dụng sơ đồ tư duy
Sử dụng sơ đồ tư duy trong một số phần để hướng dẫn học sinh quan sát, viết
mở bài, lập dàn ý cho bài văn tả cảnh.
4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
- Tiến hành đồng thời với phương pháp kiểm tra toán học và phương pháp tổng
hợp số liệu thống kê. Khi kiểm tra đánh giá chất lượng bài văn miêu tả của từng
học sinh, tôi mô tả và thống kê chất lượng ấy bằng những số liệu cụ thể, sau đó
tổng hợp các số liệu đã thu được nhằm rút ra kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân.
VI. PHẠM VI, GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
- Các tiết Tập làm văn về bài văn tả cảnh ở lớp 5.
- Thực trạng dạy – học văn tả cảnh của giáo viên, học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Minh Tân nơi tôi công tác trong thời gian qua, đặc biệt là học sinh lớp 5B năm
học 2012 -2013.
VII. THỜI GIAN HOÀN THÀNH
Việc nghiên cứu tìm ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 ‘‘Rèn kĩ năng viết
bài văn tả cảnh cho học sinh lớp 5’’được hoàn thành vào cuối học kì I năm học
2012 – 2013 và một số nội dung liên quan tới tháng 2 năm 2014.
9
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN DẠY HỌC VĂN TẢ CẢNH
Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho người
đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật nào đó
xung quanh ta.
Như vậy văn tả cảnh có thể xem là một văn bản nghệ thuật có sử dụng ngôn
ngữ văn chương để miêu tả sự vật hiện tượng một cách cụ thể sinh động. Bất kì
hiện tượng nào trong thực tế đời sống cũng có thể miêu tả được, tuy nhiên bằng
những cảm xúc khác nhau của mỗi người, mỗi hiện tượng lại được lại được miêu tả
với cách thể hiện riêng qua việc quan sát, sử dụng từ ngữ và cách diễn đạt khác
nhau.
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh ta như
dòng sông, cánh đồng, hàng cây...Khi viết bài văn tả cảnh cần đặc biệt tập trung
vào những nét tiêu biểu của cảnh vật đó. Để bài văn được sinh động và hấp dẫn
hơn với người đọc ta có thể lồng vào đó việc tả người, tả vật với những cung bậc
cảm xúc khác nhau.
Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần chính xác, cụ thể, giàu hình ảnh và có nét riêng
biệt. Chính vì thể để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải có hiểu biết về phương
pháp làm văn, phải biết dùng từ ngữ, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ
thuật tu từ được học.
II. TÌNH HÌNH THỰC TẾ DẠY VÀ HỌC.
1. Sách giáo khoa.
Hiện nay theo phân phối chương trình trong sách giáo khoa có 19 tiết tả cảnh,
trong đó có 13 tiết lý thuyết kết hợp thực hành, còn lại là kiểm tra và trả bài.
Nội dung tả cảnh tập trung vào các cảnh: Một buổi trong ngày, một hiện tượng
thiên nhiên, trường học, cảnh sông nước. Với các nội dung trên, yêu cầu viết lại
chủ yếu là đoạn văn. Do đó, với mỗi cảnh học sinh ít được viết hoàn thiện một bài
văn hoàn chỉnh ngay trên lớp để thầy cô và bạn bè trực tiếp góp ý.
2. Người học (về phía học sinh)
10
- Học sinh chưa biết bộc lộ cảm xúc và sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi tả
cảnh khiến bài viết thiếu hình ảnh, khô khan,… Học sinh chưa có hứng thú viết
văn đặc biệt là văn miêu tả.
- Học sinh không có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa khi viết
văn
- Khi làm văn, học sinh miêu tả hời hợt, chung chung, vốn từ còn nghèo nàn, bài
văn trở thành một bảng liệt kê các đối tượng miêu tả, không làm nổi bật được cảnh
đang tả.
- Bài văn học sinh làm thường vay mượn ý tình của người khác, các em thường sao
chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đầu bài quy định như
thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần miêu tả gì, không
chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng như không có cảm xúc
về nó.
- Học sinh chưa có ý thức quan sát đối tượng miêu tả và ghi chép những điều quan
sát được một cách cụ thể và chi tiết chính vì vậy mà các em còn lơ mơ về đối
tượng miêu tả nên tả còn nhiều chi tiết khập khiễng, lủng củng không gắn kết với
nhau.
- Học sinh tiểu học vốn sống, vốn kiến thức và những rung cảm trước cái đẹp còn
hạn chế nên chưa thổi được vào cảnh cái hồn để cảnh miêu tả trở nên sinh động, ấn
tượng
hơn.
- Học sinh chưa có phương pháp làm văn cụ thể, việc tiếp thu kiến thức làm văn
đến vận dụng kiến thức đó chưa chủ động và linh hoạt.
- Kĩ năng vận dụng các từ ngữ gợi hình, gợi tả và các biện pháp nghệ thuật tu từ
còn lúng túng.
b. Người dạy
- Giáo viên chỉ có một con đường duy nhất là hình thành các hiểu biết về lí thuyết,
thể loại văn, kĩ năng làm văn... Đó là qua phân tích các bài văn mẫu với lý thuyết
khô khan, khó hiểu.
- Giáo viên chưa chủ động, sáng tạo trong dạy học, chưa gây hứng thú cho học
sinh khi học văn, chưa có những câu văn chân thực, gần gũi,… Đặc biệt, khi học
11
sinh đưa ra một câu văn dùng từ chưa chuẩn hay thiếu hình ảnh, chưa hợp lí, …
chưa chỉnh sửa kịp thời và không làm bật được cái hạn chế và thay thế ngay câu
văn có nghĩa, đúng ngữ pháp, giàu hình ảnh để học sinh có thể ‘‘mê’’ thì chưa thể
thổi hồn, làm cầu nối nâng tình yêu văn học cho các em.
- Một số giáo viên còn mắc bệnh thành tích trong dạy học. Để đối phó với việc học
sinh làm kém và đảm bảo “chất lượng” khi kiểm tra, thi cử... nhiều cô giáo, thầy
giáo cho học sinh học thuộc (làm sẵn) một số bài văn mẫu để các em khi gặp đầu
bài tương tự cứ thế mà chép ra làm cho các em lệ thuộc vào bài mẫu, không có
sáng tạo trong làm bài.
- Ra đề bài chưa thích hợp với học sinh theo từng vùng miền, địa phương. Khiến
học sinh vô cùng lúng túng khi miêu tả.
Ví dụ: Đề bài yêu cầu tả cảnh biển lúc bình minh, thực tế học sinh chưa được nhìn
thấy hay được quan sát biển bao giờ.
- Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết của học sinh, không
giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có sự chỉnh
sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là vấn đề có thể giải
quyết được trong một tiết, một tuần, … mà là cả một quá trình dạy Tập làm văn
bởi dạng văn tả cảnh là sự kết hợp của nhiều thể loại văn các em đã học và còn
cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới.
- Chính vì một số nguyên nhân trên tôi đã khảo sát chất lượng làm văn của học
sinh hai lớp 5. lớp 5A (đối chứng) và lớp 5B (thực nghiệm) để làm cơ sở kiểm
chứng thực nghiệm sau này.
- Đề bài : Em hãy tả mét c¶nh thiªn nhiªn ®Ñp ë ®Þa ph-¬ng.
- Kết quả thu được như sau :
Lớp
Giỏi
Tổng
Khá
Yếu
Trung bình
số HS
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
5A
29
2
6,8
7
24,3
15
51,7
5
17,2
5B
28
2
7
6
20,7
15
52,6
6
20,7
TL%
12
Từ kết quả trên tôi thấy chất lượng học sinh hai lớp là tương đương bởi tỉ
lệ học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu luôn ngang nhau, tôi quyết định lựa chọn
một số giải pháp để ứng dụng, thực nghiệm mong muốn có kết quả tốt để cải tiến
cách dạy, cách học cho cá nhân và học sinh và có thể là giải pháp cho đồng nghiệp .
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT.
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi
mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể loại
miêu tả cảnh một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn.
Để đạt được mục tiêu trên thì cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chính sau:
Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh nói
riêng.
Hướng dẫn học sinh một số thủ pháp làm văn tả cảnh.
Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện pháp
nghệ thuật tu từ.
Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học, đọc, viết các bài
văn, thơ về tả cảnh. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh.
Các vấn đề được nêu ở trên cần được giải quyết đồng thời, xen lẫn vào nhau
một cách nhịp nhàng và linh động thì hiệu quả sẽ cao hơn rất nhiều.
CHƯƠNG II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH.
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải quyết
các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh như sau:
1. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng giúp học sinh có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không bị sai lệch
về cả nội dung và hình thức.
- Học sinh cần nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
+ Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
13
Ví dụ : Tả cánh đồng thì tập trung tả cánh đồng, không miên man tả sâu cảnh xóm
làng nằm bên cạnh cánh đồng, hay cảnh trời mây vào thời điểm đó cho dù các sự
vật đó cũng có liên quan.
+ Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?) : Tả cảnh nào thì người đọc hình
dung cảnh đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác.
Ví dụ : Tả cảnh cánh đồng thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không thể
tách rời như: Lúa, ngô, rau màu, thửa ruộng, bờ mương, đàn trâu, con người lao
động, ..
+ Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
Ví dụ : Tả cánh đồng với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào của
người dân quê hương, ích lợi mà cánh đồng mang lại….
+ Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ : Tả cánh đồng với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp nên thơ...
- Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả.
+ Bước 1: Tìm hiểu đề
+ Bước 2: Quan sát tìm ý
+ Bước 3: Sắp xếp ý (lập dàn ý)
+ Bước 4: Viết bài hoàn chỉnh
+ Bước 5: Kiểm tra lại bài.
Hiện nay Sách giáo khoa không còn những tiết riêng cho Tìm hiểu đề, quan sát
tìm ý nhưng qua mỗi đề văn giáo viên phải hướng dẫn học sinh làm theo các bước
kể trên.
Để rèn cho học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn thì
mỗi bước làm giáo viên cũng phải hướng dẫn học sinh một cách tỉ mỉ về phương
pháp cũng như cách suy nghĩ, cách thực hiện bài làm.
Cụ thể:
* Bước 1: Tìm hiểu đề
- Tác dụng: Giúp học sinh xác định được yêu cầu đề bài, tránh làm lạc đề. Nói cách
khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được mình đang làm bài văn thuộc
thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu cầu, giới hạn đến đâu...
- Cách thực hiện:Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
14
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề.
Phân tích đề bằng cách:
- Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
- Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Ví dụ: Đề bài: Hãy miêu tả vẻ đẹp của một dòng sông mà em yêu thích (ấn tượng).
Học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc trả lời các câu hỏi:
?/ Hãy xác định thể loại làm văn?
?/ Đối tượng miêu tả là gì?
?/ Mấy cảnh? Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào ?
Thể loại
Miêu tả
Đối tượng
Giới hạn miêu tả
miêu tả
Dòng sông
Không gian
Thời gian
Mở
B ất kì
Đặc điểm
ấn tượng,
thích)
Sau khi trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch chân trực tiếp trên đề
bài.
Đề bài: Hãy miêu tả vẻ đẹp của một dòng sông mà em yêu thích (ấn tượng).
* Bước 2: Bước quan sát và tìm ý
- Tầm quan trọng: Là bước quyết định thành công của bài văn, học sinh
muốn viết được bài văn hay, sống động phải có được sự quan sát trực tiếp đối
tượng miêu tả và phải có sự ghi chép tỉ mỉ, chi tiết những đặc điểm mình miêu tả.
- Cách thực hiện: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát trực tiếp đối
tượng miêu tả nhiều lần và bằng nhiều giác quan khác nhau như thị giác, thính
giác, vị giác, khứu giác, xúc giác... nhằm giúp các em nhận biết về cảnh đầy đủ và
chính xác hơn.
* Luyện kĩ năng quan sát:
Muốn quan sát có hiệu quả, quan sát phải có tính mục đích, người quan sát phải
có cách nghĩ, cách cảm của riêng mình. Quan sát để làm văn nhằm phản ánh một
đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có tính khái quát. Qua chi tiết, người đọc phải
thấy được bản chất của sự việc. Vì vậy quan sát phải có lựa chọn. Nếu yêu cầu các
15
chi tiết cụ thể nhưng đó không phải là những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính
chất liệt kê. Chi tiết không cần nhiều mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm riêng
biệt, nổi bật, gây ấn tượng,… Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của cảnh.
Khi quan sát, cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và điều quan trọng là phải
quan sát bằng tấm lòng. Mục đích quan sát sẽ quy định đối tượng và phương pháp
quan sát. Để tả cảnh, cần xác định vị trí quan sát. thời điểm quan sát, trình tự và
nội dung quan sát. Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả.
Để giúp quan sát và tìm ý, với mỗi đề bài cần có một hệ thống câu hỏi gợi ý nội
dung quan sát và các ý cần xác lập.
Nếu học sinh không thực hiện tốt bước quan sát và tìm ý thì học sinh sẽ không
có chất liệu để làm văn từ đó học sinh sẽ không có hứng thú làm bài hoặc sao chép
bài văn từ những bài văn mẫu. Tuy nhiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách
ghi chép tỉ mỉ những điều mình quan sát tạo thành một cuốn cẩm nang để khi miêu
tả học sinh có sẵn tư liệu để làm bài.
Thông thường với đề bài nào tôi cũng yêu cầu các em ghi kết quả quan sát theo
các ý.
Mắt thấy
Tai nghe
Mũi ngửi
Tay sờ
(Thị giác)
(Thính giác)
(Khứu giác)
xúc giác)
…
…
…
…
(Chọn chi tiết nổi bật, nét riêng độc đáo, …có thể bỏ trống ô nếu không phù hợp).
Quan sát theo không gian (Vị trí)
Xa, gần, trên, dưới, trong, ngoài, trái, phải, phía trước, phía sau, …
Hoặc quan sát theo thời gian (Thời điểm)
Sáng, trưa, chiều, tối, các mùa trong năm, thời tiết, ….
Lưu ý: Đây là bước tìm ý ban đầu, cái sườn chung nhưng không phải bài nào cũng
theo đủ các ý, các trình tự như trên mà kết hợp cho hài hòa để thể hiện được
những nét riêng mà không trùng lặp…
Ví dụ: Khi tả dòng sông quê hương, học sinh quan sát và hoàn thành sơ đồ tư duy
như sau: Từ những ghi chép quan sát trên thì chắc chắn các em sẽ làm được những
bài văn vô cùng sinh động và hấp dẫn. Tuy nhiên quan sát bằng các giác quan chưa
16
đủ mà giáo viên cũng cần phải hướng dẫn học sinh quan sát theo trình tự không
gian và thời gian.
Ví dụ: Cách quan sát dòng sông quê.
Ví dụ : Dòng sông được quan sát gắn theo trình tự thời gian (thân bài).
17
Nói tóm lại, giáo viên lưu ý cho học sinh khi quan sát một số điểm sau:
+ Khi quan sát học sinh phải nhìn ngắm cảnh trước mặt.
+ Học sinh phải quan sát nhiều lần, quan sát tỉ mỉ ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh
ở thời gian, địa điểm khác nhau.
+ Khi quan sát học sinh phải tìm ra những nét chính, trọng tâm của cảnh, sẵn sàng
bỏ đi những nét thừa không cần thiết (Cho nên học sinh không cần điền tất cả các
ô gợi ý trên).
+ Học sinh cần phải tìm được nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh. Phải bộc lộ cảm
xúc hứng thú say mê của mình trước đối tượng quan sát.
+ Học sinh phải tìm được những từ ngữ chính xác, những câu văn ngắn ngọn để
ghi lại những gì quan sát được.
* Bước 3. Sắp xếp ý và lập dàn ý
- Sau khi quan sát và tìm ý, trước khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác định
trình tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả
cảnh có thể là trình tự không gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để
lựa chọn cho phù hợp.
Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự không gian.
+ Trước cửa vườn + Giữa vườn:
+ Góc vườn bên trái:
+ Góc vườn
bên phải: + Cuối vườn:...
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:
+ Khoảng trời phía đông ửng hồng + Mặt trời bắt đầu nhô lên sau rặng tre.
+ Khi ánh nắng ban mai bắt đầu toả xuống... + Mặt trời lên cao.
Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là thời gian.
+ Sáng: + Trưa: + Chiều :
+ Tối:
Ta cũng có thể chọn trình tự không gian như:
+ Nhìn từ xa: + Trên mặt sông: + Bờ bên trái: + Bờ bên phải:+ Bến
sông:
Lập dàn ý.
Do nội dung chương trình trong sách giáo khoa phân bố thì học sinh luyện viết
các đoạn văn tả cảnh rất nhiều. Những bài văn tả cảnh hoàn chỉnh chỉ yêu cầu thực
hiện trong các tiết kiểm tra. Chính vì thế, tôi đưa dàn ý chung cho một bài văn tả
cảnh, và cả dàn ý cho một đoạn văn tả cảnh để học sinh dựa vào đó lựạ chọn cách
18
viết cho phù hợp. Có khi tôi cho quan sát theo bảng, cũng có khi cho học sinh quan
sát và ghi theo sơ đồ tư duy.( nhóm - cá nhân)
DÀN Ý CHUNG CHO BÀI VĂN TẢ CẢNH
Từ dàn ý chung đó các em sẽ lựa chọ cách mở bài, trình tự miêu tả hay cách kết
bài phù hợp cho bản thân.
19
+ Dàn ý chung cho yêu cầu viết một đoạn văn.
Mở đoạn
Giới thiệu cảnh sẽ tả
Thân đoạn
Tả chi tiết những đặc điểm nổi bật của cảnh
Kết đoạn
Nêu tình cảm, nhận xét đánh giá về cảnh.
*
Sau khi có trong tay dàn ý chung cho cho bài văn, đoạn văn học sinh sẽ áp
dụng để lập dàn ý chi tiết. Dàn ý này cũng chính là cái sườn sát nhất cho học sinh
viết thành bài văn cụ thể.
Ví dụ:
Với bài văn tả dòng sông, ta có thể xây dựng 2 dàn ý chi tiết : Dàn ý lựa chọn
miêu tả theo trình tự không gian, dàn ý theo lựa chọn trình tự thời gian, có thể chia
nhóm để mỗi học sinh ghi một vài đặc điểm của cảnh theo buổi tại lớp và về nhà
tái hiện lại cùng với cách làm của cá nhân tạo thành một bài văn hoàn chỉnh.
+ Dàn ý tả dòng sông theo trình tự thời gian(Phần thân bài), có thể như sau:
Sáng trưa chiều tối xuân hạ thu đông, …
+ Quan sát theo không gian (Vị trí)
Xa gần trên dưới trong ngoài bên trái bên phải đằng
sau đằng trước…
Lưu ý: Các em có thể ghép nội dung một số khoảng thời gian, không gian để tạo
thành một đoạn văn khi làm bài. Tuy nhiên, tùy vào nội dung và khả năng mà các
em có thể điều chỉnh thêm, bớt số đoạn cho phù hợp.
Bước 4: Tạo bài văn
Đây là giai đoạn quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất, đòi hỏi học sinh
phải linh hoạt vận dụng nhiều kiến thức để làm. Học sinh phải biết:
+ Dùng từ, đặt câu, dựng đoạn
+ Vận dụng phong cách ngôn ngữ văn bản
+ Bám sát dàn bài để viết thành bài văn hoàn chỉnh.
Muốn học sinh làm tốt bước này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh thực
hiện theo các yêu cầu sau:
a. Dùng từ.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình
cảm một cách rõ ràng.
20
- Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả
- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là các từ láy, từ tượng hình, từ tượng
thanh...
- Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ về từ
Ví dụ :
+ Dùng từ chính xác : Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dựng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn vành vạnh toả ánh sáng vằng vặc
xuống vạn vật.
+ Dùng từ trái nghĩa : Vào mùa nước lũ, dòng sông không hiền hoà chút nào.
+ Dùng cụm từ so sánh: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn con đom đóm
đang lập loè sáng.
b. Đặt câu.
+ Trong khi làm văn, học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là bản thân
em đó phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là các vế trong câu
ghép.
+ Các em phải biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế, phép
nối, phép liên tưởng,..., biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu(câu hỏi tu từ, đảo
ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá...).
Ví dụ:
- Phép liên kết câu:
Mưa xuân lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón những
hạt mưa xuân. Với chúng, mưa xuân chính là liều thuốc tiên để sinh tồn và
phát triển.
- Phép lặp:
Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang phù
sa màu mỡ cho đất đai.
- Biện pháp tu từ ( thường dùng)
+ Câu hỏi tu từ: - Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào là
cảnh gì không? Đó chính là dòng sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
+ So sánh : Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu trời.
21
+ Nhân hoá : Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác lên
cỏ cây, hoa lá.
* Học sinh phải phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử dụng
các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như người viết
đang kể lể dài dòng về cảnh
- Câu văn kể chỉ nêu một thông báo cho người đọc, người nghe.
- Câu văn tả là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu, các
biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có thể
cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
Ví dụ:
Câu văn kể
Câu văn tả
- Ông mặt trời vén màn mây trắng, toả
- Mặt trời toả nắng xuống mặt đất.
những tia nắng vàng óng như tơ xuống
mặt đất.
- Lúc nào sông cũng chảy để mang phù - Hết năm này đến năm khác, sông cứ cần
sa cho đất.
mẫn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất
đai màu mỡ, cây cối xanh tốt.
c. Dựng đoạn
c1. Cách trình bày đoạn văn
Đoạn văn là phần văn bản nằm giữa hai chỗ xuống dòng và thường biểu đạt một ý
tương đối hoàn chỉnh. Khi làm bài thông thường học sinh chỉ để ý đến từ, câu mà ít
quan tâm đến đoạn văn.
- Cách trình bày một đoạn văn thường là diễn dịch, quy nạp, song hành, móc
xích, tổng phân hợp. Song đó không phải là phần lý thuyết giáo viên dạy cho học
sinh tiểu học mà nhiện vụ của giáo viên là giúp các em biết cách viết các đoạn văn,
biết trình bày các đoạn văn theo các cấu trúc trên
Ví dụ:
Diễn dịch
+ Câu mở đoạn nêu nhận xét đánh giá chung về đối tượng tả
trong đoạn, các câu còn lại tả chi tiết đối tượng đó.
+ Ví dụ: Ôi, bầu trời đêm mới đẹp làm sao! Mặt trăng tròn, to như
quả bóng vàng treo lơ lửng trên bầu trời mờ đục, cao thăm thẳm.
22
Những vì sao như ngàn vạn hạt kim cương lấp lánh tô điểm cho chiếc
áo đêm thêm lộng lẫy. Chúng mang đến vẻ đẹp bí ẩn cho “thửa
ruộng của vợ chồng lão nông ”…
+ Câu cuối đoạn nêu nhận xét, đánh giá về đối tượng được tả ở trên.
các câu còn lại tả chi tiết các đặc điểm của đối tượng.
+ Ví dụ: Mặt trăng tròn, to như quả bóng vàng treo lơ lửng trên bầu
Quy nạp
trời mờ đục, cao thăm thẳm. Những vì sao như ngàn vạn hạt kim
cương lấp lánh tô điểm cho chiếc áo đêm thêm lộng lẫy. ánh trăng
vàng đổ xuống mái nhà, lồng trong kẽ lá, chảy xuống nhành cây,
tràn ngập khắp con đường trắng xoá. Khoảng sân đầy ắp trăng,
cánh đồng trăng mênh mông. Dưới ánh trăng, dòng sông lấp lánh
như được dát bạc. Ôi, trăng đêm nay thật đẹp!
+ Tả luôn các đặc điểm của đối tượng tả, có thể mỗi đặc điểm
được tả bằng một hoặc hai câu.
+ Ví dụ: Nàng hồng xúng xính trong bộ áo đỏ thắm, nàng cúc tưng
bừng trong chiếc váy màu vàng rực rỡ…tất cả đang toả hương thơm
ngát. Cây cam mang trên mình những trái cam căng tròn, đỏ ối lúc
Song hành
lỉu trên cành. Mẹ con bác chuối vui vẻ dang cánh tay to bản phần
phật trong gió. Mấy hàng rau cải khiêm tốn nằm sát mặt đất xoè
những chiếc lá xanh non mơn mởn thi nhau vươn lên đón nắng
mai..
+ Câu đầu đoạn và câu cuối đoạn nêu nhận xét, đánh giá về đối
tượng tả. Các câu còn lại miêu tả chi tiết đặc điểm của đối
tượng.
+ Ví dụ : Dòng sông vào đêm trăng thật đẹp và nên thơ. Dưới ánh
trăng và lớp sương bàng bạc, dòng sông như được trải rộng mênh
Tổng phân mông. Mặt sông như được dát bạc. Ánh đèn hai bên tạo thành những
hợp
vệt sáng lấp loáng làm sông trở nên lung linh hơn. Văng vẳng đâu
đây tiếng lanh canh của thuyền đánh cá đêm, tiếng hò của ngư dân.
Lúc này, dòng sông bồng bềnh, huyền ảo và đẹp như bức tranh
thuỷ mặc.
23
Trong các mô hình cấu trúc một đoạn văn trên thì cấu trúc tổng- phân -hợp là tiêu
biểu nhất đối với học sinh tiểu học. Cấu trúc này tương ứng với cấu trúc của cả bài
văn.
- (Mở bài- thân bài- kết bài) và cấu trúc của đoạn văn (Câu mở đoạn- phần trung
tâm - câu kết đoạn). Mặt khác trong chương trình sách giáo khoa lớp 4, lớp 5 có
rất nhiều bài tập yêu cầu học sinh viết một đoạn văn.
- Khi viết một đoạn văn đứng độc lập thì chọn cấu trúc Tổng - phân- hợp là hợp lí
hơn cả.
c2. Liên kết đoạn văn.
Khi trình bày bài văn thành nhiều đoạn khác nhau, các em cần phải biết cách liên
kết đoạn văn. Liên kết đoạn văn có thể dùng từ ngữ, dùng câu:
+ Dùng từ để liên kết đoạn:
> Chỉ trình tự, bổ sung: Buổi sáng, buổi trưa, khi mùa xuân về, …trước hết, cuối
cùng, ngoài ra, thêm vào đó,...
> Chỉ ý nghĩa tổng kết, khái quát: Tóm lại, nói tóm lại, nhìn chung,...
> Chỉ ý đối lập, tương phản: Ngược lại, trái lại, nhưng, thế mà, tuy vậy,...
> Từ ngữ thay thế: Do đó, do vậy, vì thế, cho nên,...
+ Dùng câu:
> Dùng câu nối với phần trước của văn bản.
> Dùng câu nối với phần sau của văn bảm.
> Dùng câu nối phân trước và phần sau của văn bản.
c3. Quan hệ giữa đoạn văn với đoạn văn.
- Để tạo ra sự lôgic trong diễn đạt thì học sinh có thể dựa vào quan hệ không gian,
quan hệ thời gian, quan hệ đặc điểm (với dạng bài tả cảnh thì thường dùng quan hệ
không gian, quan hệ thời gian)
- Ngoài ra quan hệ giữa các đoạn văn có thể là quan hệ giữa ý chính và ý diễn giải,
giữa ý cụ thể với ý tổng kết...
Bước 5: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn.
Kiểm tra lại toàn bộ bài văn là bước quan trọng nhưng thực tế đây là bước
mà nhiều giáo viên bỏ qua hoặc nếu có thực hiện thì chỉ lướt qua gọi là có. Sau khi
viết xong bài văn, sau khi nhận bài chấm của cô nhiều em không biết mình viết
24
không được ở chỗ nào, lỗi sai ở đâu, không hay ở đâu, có khi chỉ nhìn xem mình
được mấy điểm, hơn kém ai, ….
* Với học sinh. Đây là bước rất cần thiết, nó giúp người viết sửa chữa những lỗi
sai khi viết văn như: lỗi chính tả, cách dùng từ, đặt câu, tạo đoạn, dấu câu, cách
trình bày và đặc biệt là nhận biết được mình đã làm đúng yêu cầu đề bài chưa và
bổ sung nội dung còn thiếu.
* Cách làm: Bước kiểm tra này có thể tự học sinh kiểm tra sau khi viết xong bài
(ở nháp, ở dàn bài chi tiết hoặc bài hoàn chỉnh), khi nhận xét bài của bạn, trong
tiết trả bài. Giáo viên yêu cầu các em thực hiện nghiêm túc 3 bước:
+ Đọc đi đọc lại bài văn
+ Tìm lỗi sai hoặc chưa hay về dàn bài, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn.
+ Sửa lại cho đúng, cho hay.
Các em có thể tự làm một mình hoặc cùng bạn kiểm tra để đặt ra câu hỏi và tự
trả lời như:
+ Mở bài, thân bài, kết bài đã đủ bố cục chưa?
+ Nên thêm hay bớt chỗ nào? thay thế từ nào cho phù hợp? Có lạc ý không?...
+ Bài văn, đoạn văn có đủ bố cục chưa?
+ Mình đã dùng nhiều từ láy, từ gợi tả chưa?
+ Những câu nào sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa?
+ Có lỗi chính tả không?
+ Câu có đủ thành phần chưa? Câu nào cần bổ sung trạng ngữ?
+ Cách trình bày đoạn đã phù hợp chưa?
…
* Với giáo viên: Đây là kết quả của việc giảng dạy nhiều ngày- bước hái quả, nên
chúng ta sẽ biết được ưu điểm, hạn chế trong cách dạy để điều chỉnh cho phù hợp.
Tổ chức rút kinh nghiệm thực hiện tiết trả bài chính là thực hiện khâu cuối cùng
kiểm tra, đánh giá nhằm mục đích củng cố lại dạng bài, biết sửa lỗi, bổ sung ý
thiếu cho bài tới và nâng cao chất lượng viết văn.
* Cách làm: Thu bài, chấm, đọc ghi lại những lỗi cụ thể, ghi câu văn hay, ý hay,
đoạn văn giàu hình ảnh, dùng từ khéo léo … thống kê vào bài soạn tiết trả bài, có
khi đưa vào cuốn sổ tích lũy cho những năm sau.
25