Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phương pháp chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục tích cực nhằm thay thế trừng phạt thân thể trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.28 KB, 21 trang )

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

1.
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
2.
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
3.
3.1.
3.2.

Mở đầu.
Lý do chọn đề tài.


Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung.
Cơ sở lí luận.
Thực trạng của vấn đề.
Các giải pháp thực hiện.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận, kiến nghị.
Kết luận.
Kiến nghị.
Mục lục

Trang
2
2
2
2
2
3
3
3
8
19
20
20
20

1



1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Năm 1990, Việt Nam đã ký tham gia Công ước về quyền trẻ em. Từ đó
đến nay, Nhà nước ta ban hành nhiều văn bản pháp quy nhằm thực hiện và bảo
vệ quyền trẻ em. Mặc dù phần lớn các giáo viên thừa nhận rằng, trừng phạt thân
thể là một sự xúc phạm, là vi phạm pháp luật nhưng nó vẫn được sử dụng không
ít trong thực tế. Những năm gần đây, các phương tiện thông tin đại chúng đã đưa
khá nhiều tin về việc trừng phạt trẻ em, đặc biệt là trừng phạt thân thể ở các
trường học, gây xúc động và bất bình trong dư luận.
Giáo viên các cấp học phổ thông khác nhau (tiểu học, trung học cơ sở,
trung học phổ thông) và ở các loại hình trường khác nhau (công lập, tư thục) đều
cảm thấy rằng số học sinh ngỗ ngược, thiếu tôn trọng giáo viên có dấu hiệu ngày
càng gia tăng. Họ cho rằng, đạo đức yếu kém của học sinh khiến họ không thể
giảng dạy có hiệu quả. Trong khi một số giáo viên tìm ra được những phương
pháp sáng tạo, không cần sử dụng bạo lực để giáo dục. Phần lớn giáo viên vẫn
khó khăn trong việc tìm kiếm cách giải quyết có hiệu quả. Nhiều giáo viên tận
tụy với nghề nhưng vẫn tin rằng việc duy trì kỉ luật bằng trừng phạt thân thể là
cần thiết, một số khác lại ủng hộ việc chấm dứt trừng phạt thân thể nhưng lại
chưa có được những phương pháp giáo dục khác tích cực hơn.
Là giáo viên trực tiếp làm công tác chủ nhiệm lớp ở trường Trung học cơ
sở (THCS), tôi chọn đề tài “Phương pháp chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp
giáo dục tích cực nhằm thay thế việc trừng phạt thân thể trẻ em” để góp
phần cùng nhìn nhận thực tế và góp phần tìm kiếm phương pháp chủ nhiệm lớp
ở trường THCS.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Một là, Thực trạng trừng phạt thân thể trẻ em tại Việt Nam; Nguyên nhân
của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể trẻ em; Vì sao cần phải chấm dứt
trừng phạt thân thể trẻ em.
Hai là, Phương pháp chủ nhiệm lớp bằng các biện pháp giáo dục tích cực,

nhằm thay thế việc trừng phạt thân thể trẻ em của bản thân để đồng nghiệp cùng
tham khảo, trao đổi.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Về lí luận: Vấn đề nghiên cứu là một lĩnh vực khá phong phú. Vì vậy tôi
phải tham khảo một số tài liệu có liên quan đến đề tài tôi đang tìm hiểu, giúp
cho đề tài đi đúng hướng và có chất lượng.
Về thực tiễn: Học sinh lớp 9A trường THCS Thọ Thanh.
Thời gian nghiên cứu: Năm học 2018- 2019.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát lớp học.
Phương pháp nghiên cứu lí luận.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Phương pháp kiểm tra, đánh giá.

2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Chủ nhiệm lớp là một trong những công tác khó khăn, vui ít, buồn nhiều,
thành công cũng có và thất bại cũng không phải là hiếm. Bởi lẽ, đó là một thể có
nhiều cá thể: Có những học sinh ngoan, chăm học, tự giác. Song, cũng có những
học sinh cá biệt về học tập, về đạo đức, khó khăn về kinh tế, bất hòa, bất hạnh,
mồ côi…
Cho nên người giáo viên chủ nhiệm phải có phương pháp chủ nhiệm thế
nào để có hiệu quả cao nhất. Công tác chủ nhiệm thành công đồng nghĩa với
việc giúp các em hoàn thiện mình hơn.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN
2.2.1. Thực trạng trừng phạt thân thể trẻ em tại Việt Nam
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho

giáo. Ngoài những điểm tích cực, tư tưởng Nho giáo cũng có những mặt hạn chế
như: Thừa nhận sự độc đoán, gia trưởng, trọng nam khinh nữ- là những nguyên
nhân gây ra bạo lực. Câu thành ngữ của ông cha chúng ta “Thương cho roi cho
vọt, ghét cho ngọt cho bùi” cho đến nay vẫn được nhiều giáo viên và nhiều bậc
cha mẹ thừa nhận.
Dùng Compa và que tầm vông đánh học sinh: Không học sinh nào nhận
mình đốt diêm trong lớp, một giáo viên của một trường ở tỉnh Đồng Nai đã
dùng compa và que tầm vông đánh học sinh, sau đó các em phải đứng ngoài sân
không được vào học.
Cha mẹ vắng mặt trong buổi họp phụ huynh, học sinh bị phạt 20 roi: Một
học sinh của một trường THCS tại TP Hồ Chí Minh, đã bị thầy chủ nhiệm phạt
đánh 20 roi vì cha mẹ không đến dự buổi họp phụ huynh. Chuyện xảy ra khiến
không ít học sinh và cha mẹ bức xúc.
Thực trạng trên, chứng tỏ một số giáo viên chưa được trang bị cũng như
đào tạo kĩ lưỡng về các phương pháp giáo dục tích cực. Họ cảm thấy trừng phạt
thân thể là biện pháp duy nhất để giáo dục học sinh, đặc biệt là những học sinh
mắc lỗi và xem rằng ngoài trừng phạt thân thể thì không còn có biện pháp giáo
dục nào khác có hiệu quả. Vì thế họ thường không biết kiềm chế khi giải quyết
tình huống xảy ra trong lớp học
2.2.2. Nguyên nhân của việc sử dụng biện pháp trừng phạt thân thể
trẻ em
Một số quan niệm sai lầm: Khi trừng phạt trẻ em, người ta thường đưa ra
những lí lẽ ngụy biện cho việc làm của mình. Những người ủng hộ việc trừng
phạt thân thể thường có một số lập luận, lí lẽ giống nhau. Nhiều người trong
chúng ta cũng cho những lí lẽ đó là đúng.
Quan niệm thứ nhất: Trừng phạt thân thể có tác dụng ngay tức thì. Khi bị
trừng phạt thân thể trẻ sẽ sợ và lập tức làm theo yêu cầu của người lớn, điều
này có tác dụng ổn định và duy trì kỉ luật. Trừng phạt thân thể sẽ nhanh chóng,
đơn giản hơn so với các biện pháp giáo dục khác.
Tác dụng của biện pháp giáo dục này trong thực tế:

Việc trừng phạt thân thể trẻ em chỉ có tác dụng trong thời gian trước mắt
mà không có tác dụng giáo dục trẻ lâu dài. Do bị đánh đau nên có thể trẻ sẽ vâng
3


lời người lớn ngay, nhưng sau đó thì trẻ sẽ quên mau vì không được giải thích về
những lỗi lầm của mình, trẻ không phân biệt được cái đúng, cái sai và như thế sẽ
tiếp tục mắc lại lỗi lầm của mình.
Việc người lớn trừng phạt thân thể đối với trẻ em sẽ đem tới cho trẻ một
thông điệp sai lầm, rằng cứ dùng bạo lực là có thể giải quyết hết mọi việc. Từ
đó, trẻ bắt chước cách làm của người lớn rồi dùng bạo lực để giải quyết các bất
đồng của mình với người khác.
Việc trừng phạt thân thể dẫn đến nảy sinh và phát triển thái độ thù địch,
hung hăng, trái ngược với ý thức kỉ luật tự giác. Đôi khi do quá dạn đòn, trẻ sẽ
chai lì, bưởng bỉnh, khó bảo, thậm chí chống đối.
Việc trừng phạt thân thể phá hủy mối quan hệ, sự quan tâm, gắn bó, tin
tưởng giữa giáo viên và học sinh. Có trẻ vì thế mà oán hận và thù ghét người
lớn, phản ứng lại quá trình giáo dục đạo đức, ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy
trò, từ đó dẫn đến mất niềm tin.
Đối với quan điểm thứ nhất, cần phải giải thích, chỉ rõ cho trẻ những lỗi
lầm mà trẻ mắc phải để trẻ biết cách sửa chữa thì mới giúp trẻ không tái phạm
lỗi lầm và giúp cho giáo viên ổn định kỉ luật lớp học một cách lâu dài.
Quan điểm thứ hai, việc trừng phạt thân thể trẻ em cũng đâu có ảnh
hưởng lâu dài, nặng nề đến thế.
Thực tế cho thấy rằng: Trừng phạt thân thể gây ra rất nhiều hậu quả có
ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng đối với trẻ em. Có những trường hợp trừng
phạt thân thể đã để lại cho trẻ những tổn thương về tinh thần và thể xác mà các
em phải gánh chịu suốt đời như: bị hoảng loạn, bị di chứng thần kinh, trầm cảm,
thương tật...
Ảnh hưởng lâu dài của việc bị trừng phạt thân thể sẽ làm học sinh trở nên

lì lợm do đã quá quen với đòn roi, sỉ nhục. Chúng trở nên ngang ngạnh, bướng
bỉnh và luôn có những hành vi bạo lực để tự bảo vệ mình.
Với thời niên thiếu luôn bị cư xử bằng bạo lực, lớn lên sẽ trở thành người
có thói quen dùng bạo lực để giải quyết xung đột, từ chỗ là nạn nhân trẻ sẽ trở
thành tội phạm. Việc trừng phạt thân thể trẻ em chẳng những gây ra hậu quả cho
bản thân trẻ mà còn là mầm mống hình thành bạo lực trong xã hội.
Hậu quả dài lâu nhất mà ai cũng có thể thấy là những người bị trừng phạt
thân thể sẽ tiếp tục áp dụng nó để dạy dỗ con cái, học sinh của mình. Ai cũng
cho là trẻ sẽ quên nhanh đòn roi. Nhưng trong thực tế, nhiều người khi đã trưởng
thành vẫn còn nhớ rất rõ những trận đòn khi mình còn bé. Có người đã không
thể tha thứ cho bố mẹ, thầy cô mình. Điều đó ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ
gắn bó yêu thương giữa cha mẹ với con cái, thầy cô với học sinh.
Quan điểm thứ ba, Trừng phạt thân thể là biện pháp bất đắc dĩ cuối cùng.
Đối với một số học sinh cá biệt, khó bảo thì trừng phạt thân thể là biện pháp
duy nhất để cho trẻ vâng lời.
Giáo viên cho rằng: Các trẻ khó bảo thường không nghe lời thầy cô.
Chúng chỉ khăng khăng tìm cơ hội nghịch phá trong lớp. Bảo ban giải thích mãi
chúng không bao giờ nghe. Với những trẻ cá biệt như thế thì chỉ đánh mắng mới
dạy được chúng.
4


Trong thực tế, rất nhiều thầy cô đã chia sẻ rằng việc đánh mắng các học
sinh cá biệt chỉ làm cho các em lì đòn hơn.
Sự thiếu quan tâm, thái độ khắt khe, bỏ mặc, không lắng nghe, thiếu chia
sẻ, không cảm thông và tha thứ của người lớn làm cho các em mất niềm tin, cảm
thấy cô đơn. Từ đó, dẫn đến sự sa sút về đạo đức và học tập khiến các em càng
trở nên cá biệt hơn.
Sự yêu thương và quan tâm của thầy cô, cha mẹ là điều kiện tốt nhất giúp
cho trẻ em thay đổi thái độ, hành vi. Tích cực lắng nghe để hiểu những nhu cầu,

những khó khăn và cùng trẻ chia sẻ, giải quyết sẽ giúp trẻ tiến bộ hơn.
Quan điểm thứ tư, Tôi cũng bị trừng phạt thân thể nhờ đó mà tôi nên
người.
Nhiều người cho rằng: “Từ nhỏ đến lớn, tôi cũng đã từng bị cha mẹ hoặc
thầy cô đánh mắng, nhờ đó mà tôi trở nên ngoan ngoãn, tiến bộ hơn trong học
tập và đạo đức. Nhờ bị đánh mắng mà tôi học được nhiều điều, như vậy việc
trừng phạt thân thể cũng đâu phải là điều quá đáng”.
Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu cho thấy việc sử dụng biện pháp trừng
phạt thân thể không ảnh hưởng và tác động như nhau đối với tất cả mọi người.
Một trong những điều kì diệu nhất của loài người là, chúng ta chẳng ai giống ai
cả về sức khỏe, tinh thần và thể chất. Có những người kiên định, nhưng những
người khác lại rất nhạy cảm. Tương tự, mỗi người có hoàn cảnh và điều kiện
sống khác nhau. Có người có gia đình, bạn bè hậu thuẫn vững chắc đem lại sức
mạnh để vượt qua. Có người đủ sức mạnh nội tâm bảo vệ mình trước những tổn
thương lâu dài do trừng phạt thân thể gây ra, nhưng cũng có người bị suy sụp,
khủng hoảng khi bị trừng phạt.
Vì vậy, cha mẹ và thầy cô giáo cần có trách nhiệm tìm hiểu đặc điểm, tính
cách và hoàn cảnh riêng biệt của từng học sinh để có những biện pháp giáo dục
thích hợp. Sự cảm thông, tình yêu thương và những lời giải thích, hướng dẫn
đúng đắn là cách tốt nhất giúp trẻ nên người chứ không phải là đánh mắng làm
trẻ nên người.
Quan điểm thứ năm, Đánh trẻ là một việc làm bình thường để giáo dục
trẻ.
Quan niệm xưa cho rằng: “Thương cho roi cho vọt”, nghĩa là muốn dạy
trẻ, để chúng không hư hỏng thì ngay từ nhỏ, ta phải đánh trẻ mới dạy trẻ nên
người. Khi trừng phạt thân thể trẻ, người ta cho rằng đó là việc bình thường,
được gia đình, xã hội chấp nhận. Muốn dạy trẻ thì phải đánh trẻ, điều đó không
có gì là vô lí cả.
Nhưng ngày nay, việc dùng nhục hình đối với trẻ em là vi phạm pháp luật.
Trẻ em có quyền được bảo vệ, không bị xúc phạm thể xác cũng như tinh thần.

Trẻ em ngày nay là chủ nhân tương lai của đất nước, các em cần được tôn trọng
và bảo vệ. Trừng phạt thân thể trẻ em không phải là phương pháp giáo dục phù
hợp. Trong giáo dục học, không có hướng dẫn nào có nội dung liên quan đến
việc sử dụng nhục hình nhằm giáo dục trẻ mà chính do người lớn, giáo viên tự
cho mình quyền áp đặt việc trừng phạt trẻ. Việc đánh trẻ có thể do nóng giận, tự
ái, thiếu kĩ năng sư phạm của giáo viên, cảm thấy bất lực hoặc do nhiều lí do
5


khác. Chính việc trừng phạt thân thể trẻ em của giáo viên đã phá đi hình ảnh tốt
đẹp của người thầy trong tâm trí trẻ thơ.
2.2.3.Vì sao cần phải chấm dứt trừng phạt thân thể trẻ em
Trừng phạt thân thể trẻ em để lại nhiều hậu quả cho gia đình và xã hội.
* Hậu quả đối với trẻ:
Trừng phạt thân thể ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triến trí tuệ của
trẻ.
Mỗi trẻ có những phản ứng khác nhau trước việc bị trừng phạt. Có trẻ sẽ
tự ti, mặc cảm, mất lòng tin ở người lớn, xa lánh người lớn, trở nên thụ động và
khó hòa nhập với cộng đồng. Có trẻ sẽ bất mãn và trở nên lì lợm, hung dữ. Đôi
khi những tác động của trừng phạt thân thể làm thay đổi cuộc đời trẻ theo hướng
tiêu cực, như: nghiện ma túy, phạm tội, sẵn sàng dùng bạo lực để giải quyết
những bất đồng với người khác, kể cả việc giết người.
Có thể khẳng định rằng, việc trừng phạt thân thể không những để lại cho
trẻ những hậu quả về thể chất mà nguy hiểm hơn, còn ảnh hưởng đến tâm sinh lí
và tinh thần lâu dài của trẻ.
Ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của trẻ.
Trừng phạt thân thể sẽ để lại dấu ấn tiêu cực, ảnh hưởng đến nhân cách
trẻ. Nếu ngày nào trẻ cũng căng thẳng, lo lắng thì sẽ ảnh hưởng xấu đến việc học
tập. Khi trong lòng trẻ luôn sẵn có một mối lo thì trẻ sẽ khó tiếp thu kiến thức.
Tình trạng tâm lí này nếu kéo dài còn ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của

trẻ, trẻ sẽ nên nhút nhát, tự ti hoặc phát triển theo chiều hướng bướng bỉnh, khó
dạy.
Ảnh hưởng đến mối quan hệ thầy trò.
Khi giáo viên dùng những biện pháp thô bạo như đánh đập, đe dọa, bỏ
mặc hoặc đối xử không công bằng trong việc dạy học hay ứng xử thì hình tượng
thầy cô trong các em sẽ sụp đổ, các em sẽ cảm thấy hoang mang, ấm ức, lo sợ vì
mất một chỗ dựa tinh thần, dẫn đến các dối nhiễu về tâm lí, trừng phạt thân thể
tạo khoảng cách giữa trẻ em và người lớn.
Ảnh hưởng đến kết quả học tập của trẻ.
Khi bị trừng phạt thân thể và tinh thần, trẻ thường rơi vào trạng thái buồn
chán, mặc cảm trước bạn bè, muốn bỏ học, chống đối, thậm chí muốn tự tử.
* Hậu quả đối với những người khác.
Cảm xúc của giáo viên.
Không phải thầy cô nào khi sử dụng trừng phạt thân thể cũng do ghét bỏ
học sinh. Do đó, sau khi trách phạt học sinh, đa số giáo viên đều cảm thấy bối
rối, ân hận, day dứt và tự trách mình...mà chung nhất là buồn vì cảm thấy mình
bất lực trong cách giáo dục các em.
Ảnh hưởng tới các mối quan hệ của giáo viên.
Việc trừng phạt thân thể làm cho mối quan hệ giữa học sinh và giáo viên
không còn thân thiện và gắn bó nữa. Hiếm có học sinh nào lại có thể yêu thương
hay gắn bó với người đã gây ra cho mình đau đớn tổn thương. Bắt đầu từ sự sợ
hãi, học sinh sẽ luôn ở trong tâm trạng lo lắng, tìm mọi cách để tránh sự trừng
phạt của giáo viên. Dần dần các em sẽ ngại tiếp xúc và khó chia sẻ những suy
nghĩ, tình cảm và những khó khăn của các em với giáo viên. Hình ảnh tốt đẹp
6


của giáo viên trong ánh mắt của trẻ sẽ mất đi. Trẻ sẽ không tôn trọng và không
hợp tác với giáo viên. Khi bị trừng phạt thân thể, có trẻ sẽ căm ghét hoặc nghiêm
trọng hơn, có thể mong muốn trả thù. Tất cả những điều này sẽ gây khó khăn

cho giáo viên trong việc hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của trẻ để có thể giảng dạy
và quản lí lớp học một cách hiệu quả.
Ngoài ra, giáo viên sử dụng các biện pháp trừng phạt thân thể chắc chắn
sẽ gặp phản ứng của gia đình học sinh và xã hội. Các bậc cha mẹ đều xót xa,
giận dữ khi thấy con em mình phải chịu đựng những tổn thương về thể xác hoặc
tinh thần. Tại thành phố Hồ Chí Minh, đã có trường hợp cả gia đình học sinh
vào lăng mạ, xúc phạm và rượt đánh giáo viên ngay trong sân trường khi biết
giáo viên này đã phạt và đuổi học con em họ. Báo chí cũng đưa tin nhiều trường
hợp khác trong cả nước, khiến dư luận xã hội rất bất bình, yêu cầu phải xử lí
nghiêm khắc đối với những giáo viên đã sử dụng biện pháp trừng phạt học sinh
gây hậu quả nghiêm trọng.
Đối với gia đình, cộng đồng và toàn xã hội.
Việc trừng phạt thân thể trẻ gây ra hậu quả cho gia đình, cộng đồng và xã
hội ở mức độ khác nhau. Một đứa trẻ khi bị trừng phạt, bị đau đớn có thể dẫn tới
bị bệnh, sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến gia đình trẻ về tinh thần, thời gian và tiền
của. Có khi người thân trong gia đình trẻ phải bỏ công ăn việc làm hoặc chấp
nhận bị mất việc để chăm sóc, chạy chữa, phục hồi cho trẻ. Vì thế, chúng ta cần
có biện pháp giáo dục mang lại hiệu quả cao hơn. Đó chính là các biện pháp
giáo dục tích cực.
Cảm xúc của cha mẹ học sinh và dư luận xã hội.
Khi con bị trừng phạt thân thể, đa số cha mẹ đều có tâm trạng xót xa, đau
đớn, thậm chí oán hận và giận dữ vì con mình bị đối xử thô bạo. Họ sẽ có thành
kiến đối với giáo viên và nhà trường, từ đó dẫn tới thái độ bất hợp tác trong việc
giáo dục trẻ. Có cha mẹ đã phản ứng lại bằng cách sử dụng bạo lực đối với giáo
viên. Có cha mẹ đã kiện giáo viên ra tòa vì tội đánh đập con mình.
Dư luận xã hội cũng không đồng tình với việc giáo viên sử dụng nhục
hình đối với học sinh. Một số trường hợp giáo viên đánh học sinh được đăng tải
lên các tờ báo trong thời gian gần đây đã làm cho dư luận xã hội có cái nhìn
không thiện cảm với giáo viên và làm ảnh hưởng đến uy tín của nghành giáo
dục, mặc dù các trường hợp đánh mắng trẻ này chỉ là “con sâu làm rầu nồi

canh”.
* Trừng phạt thân thể trẻ em không phù hợp với đạo đức nghề nghiệp của
người giáo viên, trái với phương pháp giáo dục, đi ngược lại với mục tiêu giáo
dục.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm
chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
* Trừng phạt thân thể trẻ em là vi phạm các văn bản pháp lí quốc gia và
quốc tế.
Về mặt pháp luật, trừng phạt thân thể trẻ em là hành vi vi phạm các văn
bản pháp lý quốc gia và quốc tế.
7


2.3. Các biện pháp giáo dục tích cực thay thế việc trừng phạt thân thể
trẻ em
2.3.1. Khái niệm và sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp giáo dục
tích cực
* Khái niệm về giáo dục tích cực
Giáo dục tích cực là giáo dục dựa trên nguyên tắc vì lợi ích tốt nhất của
trẻ; không làm tổn thương đến thể xác và tinh thần của trẻ.
* Sự cần thiết phải sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực
Sau khi đọc phần trên, chúng ta biết được những hậu quả của trừng phạt
thân thể trẻ em và vì sao cần chấm dứt trừng phạt thân thể. Việc chấm dứt trừng
phạt thân thể giúp tránh các hậu quả tiêu cực nói trên, ngoài ra còn mang lại
những lợi ích, đáp ứng mong muốn của học sinh, giúp các em có tâm trạng vui
vẻ, an toàn, thoải mái khi đến trường và học tập đạt kết quả tốt.
* Lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực đối với học
sinh và giáo viên.

Hãy xem xét cách giải quyết tình huống rất thông thường của hai giáo
viên sau:
Một học sinh loay hoay làm việc riêng trong giờ học, giáo viên gọi em trả
lời câu hỏi. Em giật mình đứng dậy và không trả lời được.
Giáo viên 1:
Giáo viên 2:
1. Em nào giúp bạn mình trả lời
1. Học thì dở, nói chuyện thì hay!
câu hỏi?
Đứng im đấy!
2. Em nhắc lại đi!
2. Ai trả lời?
3. Em trả lời được rồi!
3. Nhắc lại đi!
4. Em nhớ tập trung vào bài học
4. Xòe tay ra! (đánh hai cái vào
nhé!
tay)
5. Ngồi xuống! Lần sau còn vi
phạm nữa thì quét lớp một tuần
nghe chưa!
Chúng ta có thể hình dung được ngay cảm giác của học sinh trước cách
xử lý của hai giáo viên trên. Đối với cách nhắc nhở của giáo viên thứ nhất, học
sinh không bị tổn thương, em sẽ không làm việc riêng nữa, tập trung chú ý vào
học bài. Còn đối với cách cư xử của giáo viên thứ hai, học sinh sẽ cảm thấy xấu
hổ, mặc cảm; chưa kể những cảm xúc khác trong trường hợp học sinh bị trách
oan.
Như vậy, khi giáo viên sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực, không
dùng roi vọt, không nhục mạ thì cả học sinh và giáo viên đều được lợi.
Học sinh

- Có nhiều cơ hội chia sẻ và bày tỏ.
Được mọi người quan tâm, tôn trọng
và lắng nghe ý kiến, không mất niềm
tin.
- Tích cực và chủ động hơn trong học

Giáo viên
- Giảm được áp lực quản lí lớp học do
học sinh hiểu và tự giác chấp hành kỉ
luật. Từ đó giáo viên tạo được sự tin
tưởng nơi học sinh, được học sinh tôn
trọng và quý mến.
8


tập.
- Xây dựng được mối quan hệ thân
- Tự tin trước mọi người, khả năng của thiện giữa thầy và trò.
trẻ được phát huy.
- Xây dựng được sự đoàn kết, thống
- Nhận ra lỗi lầm của mình, cảm thấy nhất cao trong lớp học.
hòa nhập với tập thể.
- Nâng cao hiệu quả quản lí lớp học
- Được sự quan tâm của giáo viên, tiếp góp phần nâng cao chất lượng giáo
thu bài tốt hơn.
dục.
- Vui vẻ đến lớp, thích học hơn.
- Được sự ủng hộ từ phía gia đình học
- Gần gũi với bạn bè, thầy cô hơn.
sinh và xã hội.

* Lợi ích của việc sử dụng các biện pháp giáo dục tích cực đối với gia
đình, nhà trường và cộng đồng.
Nhà trường, gia đình, cộng đồng và xã hội sẽ có nhiều lợi ích khi có
những công dân được giáo dục bằng các biện pháp giáo dục tích cực:
Nhà trường có môi trường sư phạm thân thiện, an toàn, tạo được niềm tin
đối với xã hội.
Xã hội có những công dân tốt, có thể phục vụ, cống hiến cho gia đình, xã
hội trong tương lai.
Giảm thiểu được các tệ nạn xã hội, nạn bạo hành, bạo lực.
Các khoản chi phí để chi phí để chăm sóc, điều trị và trợ giúp gia đình trẻ
(nạn nhân của bạo hành, bạo lực) sẽ được dành để phục vụ nhân dân, nâng cao
đời sống cộng đồng, xã hội.
Gia đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh.
Vì những lợi ích trên, chúng ta cần sử dụng các biện pháp giáo dục tích
cực.
2.3.2.Các biện pháp giáo dục tích cực
* Giáo viên cần phải làm gì để chuẩn bị công tác giáo dục tích cực?
Hãy suy nghĩ sâu sắc về nghề dạy học: Yêu thích công việc của mình và
yêu thương học trò hơn nữa. Khi có tình yêu nghề nghiệp và tình thương đối với
học trò, người giáo viên sẽ tìm ra được những biện pháp giáo dục tích cực, hiệu
quả hơn.
Hãy suy ngẫm về mình: Mỗi ngày, bạn hãy dành một chút thời gian để
tĩnh tâm suy nghĩ về những gì mình đã làm, những điều mình đã trải qua. Mỗi
ngày, bạn nên dành 10 phút để suy nghĩ về học sinh của mình, về cách mình đã
đối xử với học sinh, về cách xử lí những học sinh còn mắc lỗi. Với thói quen
hằng ngày như thế, chắc chắn trong một thời gian nhất định bạn sẽ điều chỉnh
được thái độ của mình đối với học sinh.
Quan tâm chăm sóc bản thân (cả về mặt thể chât, tình cảm và tâm lí): Để
tránh gây căng thẳng, giận giữ, mệt mỏi hay buồn bực trong quá trình quản lí lớp
học.

Tự đặt mình vào hoàn cảnh của trẻ: Đặt mình vào hoàn cảnh của học
sinh, điều đó giúp cho giáo viên hiểu tâm tư nguyện vọng và mong muốn của
các em. Làm như vậy, chắc chắn sẽ giúp bạn có cách giải quyết tốt nhất.
Ghi chép công tác nhật kí lớp: Ghi nhật kí để nhìn nhận, đánh giá các vấn
đề đã thực hiện trong quá trình thay đổi phương pháp giáo dục, giúp giáo viên
nhìn nhận những điều đã làm được và chưa làm được. Giáo viên hãy viết ngắn
9


gọn các tình huống xảy ra và cách giải quyết của mình. Những câu chuyện bổ
ích sẽ giúp bạn giải quyết các vấn đề mà lúc đầu bạn tưởng như không giải
quyết nổi.
Luôn tạo ra niềm vui cho bản thân: Tự tạo niềm vui cho bản thân mình
giúp giáo viên tự tin và thoải mái hơn khi tiếp xúc với học sinh. Giáo viên hãy
cố sắp xếp cho mình thời gian thư giản theo sở thích: nghe nhạc, đọc sách, chăm
sóc mình, ăn mặc đẹp, nhờ đó sẽ cảm thấy yêu cuộc đời hơn và dễ thông cảm
với học sinh của mình hơn.
Gác lại những ưu phiền trong cuộc sống khi tiếp xúc với trẻ: Giáo viên
cần tạm quên những ưu phiền của cuộc sống riêng tư trong khi tiếp xúc với trẻ
để tránh “giận cá chém thớt”, trút mọi bực dọc lên học sinh, dẫn đến việc đánh
phạt học sinh.
Luôn trao đổi học tập kinh nghiệm với đồng nghiệp:Việc học tập, trao đổi
kinh nghiệm luôn là điều cần thiết để giải quyết những khó khăn trong việc giáo
dục tích cực. Khi bạn mạnh dạn trao đổi nghiêm túc với đồng nghiệp về những
khó khăn của mình, bạn sẽ nhận được những kinh nghiệm quý báu. Giao tiếp với
học sinh là một nghệ thuật, mà nghệ thuật đó đòi hỏi người giáo viên phải học
hỏi thật nhiều qua những người có kinh nghiệm.
Không tiết kiệm lời khen đối với trẻ: Sự khen ngợi thích hợp sẽ động viên
trẻ trong việc giữ gìn kỉ luật. Ai cũng thích được khen. Với trẻ, lời khen của thầy
cô luôn là động lực để trẻ vươn lên. Khi nhận được lời khen từ người khác, trẻ

cảm thấy rất hạnh phúc, nhất là những em ít khi được khen.
Tạo không khí lớp học sinh động: Không khí sinh động của lớp học luôn
kích thích thầy trò làm việc tốt hơn, mối quan hệ thầy trò gần gũi, thân thiện
hơn.
Phối hợp với nhiều lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường: Giáo
dục trẻ không phải là công việc của riêng giáo. Với những đứa trẻ chưa ngoan,
bạn cần phải tìm hiểu để nắm vững hoàn cảnh sống, tâm tư tình cảm của trẻ, ai
là người được trẻ yêu quý hoặc tin tưởng vì lời khuyên, an ủi động viên của
những người này đối với trẻ rất hiệu quả. Nên tạo cho trẻ cảm giác được mọi
người quan tâm, tạo điều kiện cho các em tham gia hoạt động tập thể. Vì vậy,
việc phối hợp với nhiều lực lượng giáo dục khác nhau như: nhà trường, gia đình,
cộng đồng là rất cần thiết.
Xây dựng hộp thư “Điều em muốn nói”: Giáo viên cần tìm cách để hiểu
học sinh của mình. Trong phạm vi trường hoặc lớp, cần có hộp thư “Điều em
muốn nói”, nhằm khuyến khích trẻ viết thư chia sẻ những băn khoăn, thắc mắc,
những vấn đề khó khăn về học tập và trong cuộc sống mà trẻ đang gặp phải
nhưng ngại nói ra.
2.3.3. Các biện pháp giáo dục tích cực áp dụng ở lớp học
* Thay đổi cách cư xử trong lớp học
Trước đây, người lớn thường xử lí sai phạm của trẻ bằng các hình thức
trừng phạt như: chửi mắng, sỉ nhục, đánh đập...Điều đó có thể mang lại sự sửa
đổi tức thì của trẻ, nhưng đó chỉ là hành vi đối phó và chắc chắn sẽ để lại trong
tâm hồn trẻ sự tổn thương tinh thần.
10


Ngày nay chúng ta cần phải thay đổi cách xử lí sai phạm của học sinh
bằng các biện pháp giáo dục tích cực. Cần xử lí với thái độ động viên, khuyến
khích nhằm giúp học sinh có hành vi và thái độ ứng xử đúng đắn.
- Xây dựng những quy tắc rõ ràng và nhất quán

Khi quan sát trẻ em vui chơi, ta có thể thấy các em dành nhiều thời gian
để thống nhất “luật chơi” trước khi bắt đầu chơi. Bạn có thể không tin, nhưng trẻ
em thích các quy tắc vì nó đem lại cho chúng sự cảm nhận về ý thức tổ chức với
điều kiện là những quy tắc đó phải rõ ràng và “có nghĩa”. Vì vậy, nguyên tắc cơ
bản của việc thay đổi biện pháp giáo dục nhằm duy trì kỉ luật lớp học là xây
dựng được những quy tắc rõ ràng.
Tuy nhiên, không đề ra quá nhiều quy tắc. Nhiều quy tắc quá sẽ làm trẻ
lúng túng và cảm thấy gò bó, khiến các em không thể tập trung đến những quy
tắc quan trọng. Hãy xem xét những quy tắc nào là quan trọng nhất. Các quy tắc
cần đề cập đến những chuẩn mực đạo đức và giá trị cơ bản như: sự an toàn, sự
tôn trọng lẫn nhau, lòng nhân ái và sự trung thực.
- Khuyến khích động viên tích cực
Biện pháp này nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khen ngợi, động
viên khi trẻ có hành vi tích cực. Việc động viên tích cực, có thể được thực hiện
dưới nhiều hình thức như: Một nụ cười, một lời khen ngợi, biểu dương trước
lớp, một lá thư khen gửi về gia đình. Một nụ cười, một lời khen động viên của
giáo viên đặc biệt quan trọng với những trẻ sống trong những gia đình không
hòa thuận.
Việc khen ngợi, động viên đặc biệt quan trọng đối với những học sinh cá
biệt hay học sinh thường có hành vi vô kỉ luật trong lớp. Lúc đầu có thể khó tìm
ra cơ hội để khen những em này, nhưng dần dần sẽ dễ dàng hơn bởi khi có
những hành vi tốt được công nhận, chúng sẽ tăng dần.
- Những hình thức xử phạt phù hợp và nhất quán
Khi những yêu cầu đã được đặt ra rõ ràng thì cũng cần có những biện
pháp xử phạt cụ thể, rõ ràng đối với những hành vi vi phạm và các biện pháp
phải được áp dụng một cách nhất quán.
Các biện pháp xử phạt phải nhằm mục đích dạy cho học sinh biết rằng
thái độ, hành vi của em như vậy là sai. Người lớn cũng như người làm công tác
giáo dục cần cố gắng không bao giờ sử dụng những hình phạt khiến trẻ cảm thấy
mình là kẻ bỏ đi, vô dụng.

Tuyệt đối không sử dụng những hình thức phạt mang tính bạo lực: Các
hình thức phạt cần phù hợp với mức độ vi phạm. Những hình thức phạt nên
mang tính tích cực, để thông qua hình phạt học sinh có thể học thêm được một
số kĩ năng nào đó. Ví dụ: giao cho trẻ sửa chữa những gì em vừa làm hỏng.
Tránh gây căng thẳng, đối đầu với học sinh.
Khi áp dụng các hình thức xử phạt nên nói rõ sai phạm của học sinh.
Nhấn mạnh khuyết điểm ở hành vi sai phạm, chứ không phải bản thân trẻ. Ví dụ:
Thay vì nói “Em là đứa tồi tệ vì đã đánh bạn”, hãy nói “Không được đánh bạn
vì đánh bạn sẽ là hành vi tồi tệ”.
Áp dụng hình thức xử phạt một cách công bằng và bình tĩnh: Trong thực
tế luôn có những học sinh được giáo viên yêu quý và có những học sinh hay làm
11


giáo viên khó chịu. Việc áp dụng các quy định một cách nhất quán, có nghĩa là
chúng ta không để tình cảm riêng chi phối hành vi của mình: tức là xử phạt
những học sinh mình quý mến theo một cách thiên vị, và những học sinh mình
không ưa thích theo một cách hà khắc, khắt khe. Tương tự như vậy, trong cuộc
sống có ngày giáo viên vui vẻ, nhưng cũng có những ngày giáo viên cảm thấy
mệt mỏi. Việc áp dụng các quy định một cách nhất quán có nghĩa là giáo viên áp
dụng các biện pháp xử phạt một cách kiện định, trước sau như một, luôn công
bằng và hợp lí ngay cả khi trạng thái không được vui. Bằng cách đó, học sinh
hiểu được rằng việc xử phạt là có nguyên tắc chứ không phụ thuộc vào cảm xúc
hay tâm trạng của giáo viên. Học sinh sẽ tôn trọng giáo viên hơn khi các em tin
tưởng rằng giáo viên luôn công bằng, không thiên vị.
Việc áp dụng các hình thức phạt một cách nhất quán, công bằng và bình
đẳng không có nghĩa là luôn cứng nhắc, áp dụng một cách máy móc trong mọi
trường hợp. Không nên phạt học sinh vì những lỗi do ngoại cảnh tác động,
không phải do chính bản thân học sinh cố tình gây nên. Ví dụ: Không nên trách
phạt một học sinh không mặc đồng phục do gia đình khó khăn không có khả

năng mua cho em.
Không phạt học sinh vì những quy định chưa được thỏa thuận trước:
Việc đó giống như đề ra những quy tắc mới giữa chừng cuộc chơi. Nếu một học
sinh bị phạt vì vi phạm một “quy tắc” mà không biết quy tắc đó thì coi như
“giao kèo” giữa giáo viên và học sinh bị phá vỡ, học sinh sẽ bối rối, sợ hãi và dễ
dàng “giở chứng”, cáu giận hoặc thiếu tôn trọng giáo viên. Nếu cần bổ sung
hoặc sửa đổi các quy tắc thì hãy bàn bạc, thảo luận với chúng vào lúc thuận tiện.
- Làm gương trong cách cư xử
Điều có ý nghĩa hết sức quan trọng là giáo viên cần phải là tấm gương
mẫu mực cho học sinh về tư cách đạo đức, thái độ, hành vi.Trẻ em học và làm
theo những gì các em thấy từ cuộc sống và những người xung quanh. Nếu người
lớn dùng bạo lực, trẻ em cũng sẽ làm theo. Nếu giáo viên luôn cư xử một cách
nhẹ nhành, khoan dung, độ lượng, kiên trì, nhẫn nại, thì học sinh cũng học theo
cách cư xử đó.
* Quan tâm đến những khó khăn của trẻ
Việc tìm hiểu những trở ngại trong học tập và những khó khăn về mặt tâm
lí của trẻ sẽ giúp giáo viên không phải dùng biện pháp trừng phạt thân thể mà
vẫn giáo dục trẻ có kết quả.
Bảng thông tin dưới đây đưa ra một số hướng dẫn cơ bản về cách nhận
biết và xử lí một số rào cản trong học tập và những khó khăn về mặt xã hội mà
trẻ em đang mắc phải.
Khó khăn
Cách nhận biết
Sự can thiệp và giúp đỡ
Những khó Những dấu hiệu về khó khăn Liên hệ với cha mẹ học sinh
khăn về thị của thị giác bao gồm: Đầu của (CMHS) đưa HS đi kiểm tra về
giác
học sinh ở một tư thế không mắt ở bệnh viện chuyên khoa,
bình thường hoặc cúi sát sách cần phải đeo kính nếu cần thiết.
vở. Khi viết, đọc học sinh (HS) Bố trí, sắp xếp chỗ ngồi phù hợp

nheo mắt. Khi nhìn lên bảng cho HS, tạo điều kiện cho HS
không rõ, mắt liên tục sưng đỏ, ngồi ở vị trí nhìn bảng được rõ
12


chảy nước mắt hoặc rất hay dụi
mắt, HS thường xuyên không
chép kịp bài trên bảng như các
HS khác.
Những khó HS không hiểu câu hỏi, hỏi A
khăn
về thì trả lời B. Có thể cười hoặc
thính giác nói to hơn bình thường...Đó là
những biểu hiện của HS khó
khăn về thính giác. Khi biết
mình khiếm khuyết, không bình
thường như mọi người, HS
thường tự ti, chán nản, có thể
trở nên hiếu động, mất trật tự
và biểu lộ những thái độ bất
thường trong quan hệ với mọi
người.
Những khó Trẻ em có nhu cầu an toàn và
khăn
về được yêu thương. Khi những
tâm lí
nhu cầu cơ bản đó không được
đáp ứng, chúng sẽ trở nên buồn
rầu, có cảm xúc tiêu cực, không
biết cách kiềm chế bản thân và

cảm thấy bất hạnh. Khi đó, trẻ
thường có những biểu hiện sau:
- Có những thay đổi khác lạ
trong thái độ, cách cư xử: trở
nên lãnh đạm, không chan hòa,
không muốn chơi đùa, hay khóc
hoặc hung hăng, cáu kỉnh, gây
gổ với bạn, xúc phạm người
khác.
- HS không quan tâm, hứng thú
với trường học và việc học, học
sa sút thậm chí bỏ học.
- Thiếu tự tin vào bản thân,
không tin cậy người khác nhất
là người lớn.
- Cố thu hút sự chú ý của người
khác bằng cách: làm trò cười
trong lớp hoặc lấy đồ của bạn.

nhất.

Liên hệ với CMHS để đưa HS đi
kểm tra tại bệnh viện chuyên
khoa.
Những HS khiếm thính bù lại
thường hiểu tốt các dấu hiệu
quan sát. Vì vậy, khi giao tiếp
với các HS này, giáo viên cần
hướng mặt về phía các em, để
các em có thể nhìn rõ mặt của

mình và nói to rõ ràng. Bố trí
chỗ ngồi phía trên gần bàn giáo
viên để em có thể nhìn rõ khi
thầy cô giảng bài.
Khi có những dấu hiệu cho thấy
HS đang phải chịu đựng những
vấn đề tâm lí như nêu ở cột bên,
giáo viên cần:
- Quan sát và tìm ra nguyên
nhân, những nhu cầu tình cảm
không được đáp ứng của các em.
Nói chuyện với cha mẹ các em
về vấn đề này. Trong những
trường hợp đó, tình yêu thương,
sự che chở, động viên, khen ngợi
của thầy cô và cha mẹ sẽ giúp
các em phát triển những suy nghĩ
tích cực khắc phục những hạn
chế của bản thân.
- Giáo viên cùng HS xây dựng
một tập thể lớp chan hòa, đoàn
kết và gắn bó để các em cảm
thấy được che chở, được an toàn
và phát huy được tính sáng tạo.
- Tôn trong HS để các em biết
tôn trọng bản thân. Lắng nghe
HS và khuyến khích những tiến
bộ.
- Tạo điều kiện để các em tham
gia vào các hoạt động sáng tạo

của cả lớp: hoạt động nghệ thuật,
kể chuyện, vẽ tranh, thảo luận...
13


Trẻ bị hành Ngoài những dấu hiệu ở trên,
hạ, ngược giáo viên cũng cần quan tâm
đãi
đến những dấu hiệu sau:
- Những vết thâm tím, vết bỏng,
vết xước, lằn trên người mà HS
không giải thích rõ nguyên
nhân.
- Thay đổi bất thường trong thái
độ, cách cư xử: sự lơ đãng, lo
âu, căng thẳng, không hòa nhập
với bạn bè, gây gỗ...

Bị xâm hại Bị xâm hại tình dục có thể gây
tình dục
ra những khó khăn tâm lí
nghiêm trọng. Các em thường
rất khó bộc lộ mình bị xâm hại.
Giáo viên thường chỉ có thể
nhận biết HS có bị xâm hại tình
dục hay không thông qua quan
sát và giao tiếp với trẻ. Khi giao
tiếp phải thể hiện thái độ thông
cảm, muốn giúp đỡ, quan tâm
đến nỗi sợ hãi của các em và

đặc biệt là tạo được sự tin cậy ở
các em.
Những dấu hiệu sau đây có thể
giúp giáo viên phát hiện, thể
hiện rõ nhất là ở các em gái bị
xâm hại:
- Sa sút nghiêm trọng về sức
khỏe, tỏ ra chán nản, nhút nhát,
buồn rầu khác thường.

Giáo viên cần nhận ra vấn đề và
tìm ra được những hình thức trợ
giúp thích hợp.
- Nói chuyện riêng với HS trên
tinh thần quan tâm, lo lắng chứ
không phai là tra xét, kết tội.
Không đề cập cụ thể đến sự xâm
hại, nhưng khuyến khích các em
nói về điều gì làm em lo lắng.
Nếu các em không bộc lộ việc bị
xâm hại thì cũng cần nói với
giáo viên những khó khăn mà
các em đang phải trải qua.
- Tìm kiếm sự trợ giúp thích hợp
với vấn đề và hoàn cảnh của HS
đó là rất cần thiết. Giáo viên có
thể trao đổi vấn đề đó với Ban
giám hiệu, với các chuyên gia
tâm lí, các tổ chức trợ giúp xã
hội (các đoàn thể, công an, y tế,

tòa án...). Nếu HS mong muốn tự
mình đối phó, giải quyết hãy để
các em tự lực, song giáo viên có
thể tư vấn hoặc giúp các em tiếp
xúc với các tổ chức trên.
Cũng giống như khi bị hành
hoặc ngược đại, điều quan trọng
là tìm cách giúp đỡ phù hợp.
Nguyên tắc giải quyết các vấn đề
về xâm hại tình dục là tôn trọng
sự tin cậy và điều bí mật của HS.
- Giáo viên cần nói chuyện riêng
với HS trên tinh thần quan tâm,
lo lắng, không truy xét, cáo
buộc, kết tội. Không đề cập cụ
thể tới sự xâm hại, nhưng
khuyến khích các em nói về
những vấn đề làm em lo lắng ở
nhà, ở trường hay ở một nơi nào
khác.
- Củng cố niềm tin, sự tin cậy
của HS: cam đoan với HS rằng
việc giãi bày là đúng và bạn bè
thân thích có thể trợ giúp cho
em. Tỏ thái độ cảm thông, chia
14


- Tỏ thái độ bực bội, bất an
không thoải mái khi tiếp xúc

với các bạn hoặc với người lớn
khác giới.
- Cẩu thả, bừa bãi, buông thả
trong quan hệ với người khác
giới.

sẻ và động viên, quan tâm chăm
sóc nhiều hơn.
- Tìm kiếm sự trợ giúp thích hợp
từ phía gia đình, nhà trường và
các cơ quan chức năng. Nếu HS
mong muốn tự giải quyết hãy
giới thiệu em đến với các nhân
viên tư vấn và với các tổ chức
tin cậy có thể giúp đỡ em.
- Quan tâm đến quá trình bình
phục của HS sau khi bị xâm hại.

* Tăng cường sự tham gia của trẻ trong xây dựng nội quy lớp học
Biện pháp này nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc cho trẻ em tham
gia vào quá trình ra quyết định trong lớp học. Cụ thể là tham gia xây dựng nội
quy lớp học, quy định chế độ khen thưởng và kỉ luật, học sinh tham gia giám sát
và thực hiện nội quy thông qua tổ chức cho các em nhận xét việc thực hiện nội
quy hàng tuần. Việc học sinh tham gia xây dựng nội quy lớp học, khiến các em
cảm thấy có trách nhiệm và thực hiện kỉ luật một cách tự giác hơn. Không chỉ
vậy, thông qua quá trình tham gia xây dựng nội quy, học sinh rèn luyện cho
mình khả năng bày tỏ suy nghĩ của bản thân, biết đưa ra các quyết định, phát
huy tinh thần tập thể và tinh thần trách nhiệm của các em.
* Xây dựng tập thể lớp
Việc xây dựng một tập thể lớp tốt tạo ra mối quan hệ thân thiện, cảm

thông, gắn bó giữa giáo viên và học sinh trong quá trình giáo dục. Một tập thể
lớp tốt là môi trường lí tưởng để trẻ học tập và phát triển nhân cách. Một tập thể
lớp tốt là một tập thể hướng tới và hoạt động dựa trên các giá trị như: tôn trọng,
yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết, có tinh thần trách nhiệm, biết cách giải
quyết các xung đột không bằng bạo lực...Học sinh có thể học từ một tập thể lớp
tốt những bài học đạo đức qua những tấm gương tốt của giáo viên và của các
bạn trong lớp.
Để xây dựng một tập thể lớp tốt, giáo viên cần trang bị cho mình những
phẩm chất và kĩ năng cần thiết. Những phẩm chất và kĩ năng đó là:
Có lòng kiên trì và nhẫn nại: Việc xây dựng tinh thần tập thể đòi hỏi có
thời gian, không thể một sớm một chiều mà thực hiện được. Hãy tỏ ra nhẫn nại,
dịu dàng, mềm mỏng với chính bản thân mình và những người khác.
Có lòng nhân ái: Không có ai biết được tất cả mọi điều, không có người
nào luôn đúng hoặc không bao giờ bị bối dối, mất bình tĩnh. Lòng nhân ái và sự
cởi mở đối với chính bản thân mình cũng như đối với người khác sẽ giúp giáo
viên có được tình thương và sự cảm thông từ những người xung quanh.
Biết tôn trọng những người ít tuổi hơn mình: Chỉ có thể xây dựng được
tập thể lớp học khi giáo viên biết tôn trọng học sinh của mình. Trẻ em chắc chắn
sẽ kính trọng những người tôn trọng chúng.
Chân thành trong giao tiếp: Những giáo viên thực sự quan tâm tới học
sinh sẽ biết cách nói chuyện với chúng. Thái độ giao tiếp chân thành, tôn trọng,
15


cởi mở, thân thiện, không mang tính mệnh lệnh, cứng nhắc. Tìm hiểu và quan
tâm đến những suy nghĩ, cảm xúc của học sinh. Dành thời gian nói chuyện với
học sinh về những điều các em quan tâm. Bằng cách đó, giáo viên không chỉ đáp
ứng nhu cầu giao tiếp của học sinh mà còn nêu một tấm gương cho học sinh về
cách xử sự đối với những người xung quanh.
Tạo điều kiện cho việc xây dựng sự đoàn kết, gắn bó của học sinh: Tập

thể được xây dựng trên cơ sở các mối quan hệ tôn trọng lẫn nhau. Giáo viên phụ
trách một lớp học có tính tập thể cần tạo điều kiện phát triển các mối quan hệ
tôn trọng và quan tâm lẫn nhau giữa các học sinh. Có thể hàng tuần, giáo viên
nên tổ chức hoạt động mà qua đó học sinh có thể bày tỏ suy nghĩ nhiều hơn về
bản thân, về những chuyện vui buồn trong cuộc sống và về những suy nghĩ của
mình.
Chú trọng đến việc tổ chức các buổi thảo luận chung: Tính tập thể được
hình thành và phát triển thông qua các hoạt động tập thể, những cuộc bàn bạc,
thảo luận có sự tham gia của các thành viên trong tập thể. Khi nảy sinh những
vấn đề mà cả lớp phải đối mặt, giáo viên nên tổ chức cho cả lớp thảo luận về
những vấn đề đó và bàn cách giải quyết.
Giải quyết các xung đột: Sự bất hòa và giải quyết các xung đột là điều
khó tránh khỏi trong một tập thể. Qua việc giúp học sinh giải quyết các tình
huống xung đột, giáo viên dạy cho học sinh những kĩ năng sống.
2.3.4. Một số hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục tích cực trong
nhà trường
* Xây dựng trường học
- Xây dựng trường học theo định hướng tập thể
Nhà trường cần tổ chức các hoạt động hướng về cộng đồng nhằm tạo
điều kiện cho mọi người tham gia, tạo sự gắn kết thân thiện trong công tác giáo
dục. Các hoạt động có thể là những hoạt động văn hóa, văn nghệ, hội thảo
chuyên đề, những buổi lễ kỉ niệm quan trọng như: Ngày nhà giáo Việt Nam,
ngày truyền thống của nhà trường, cá trò chơi chung sức giữa giáo viên và học
sinh...Thành phần tham dự gồm cha mẹ học sinh, giáo viên, cộng tác viên, đại
diện chính quyền địa phương. Tất cả những hoạt động trên sẽ giúp tăng cường
sự hiểu biết, gắn bó và hợp tác trong toàn trường.
- Xây dựng nội quy trường lớp
Nhà trường tổ chức cho học sinh tham gia xây dựng nội quy của trường
nhằm giúp học sinh hiểu rõ và làm theo nội quy một cách tự giác. Các lớp có thể
cử đại diện dự buổi họp chung toàn trường để thảo luận, xây dựng nội quy của

nhà trường. Các bản nội quy trên được treo/đặt ở nơi mọi người dễ dàng nhìn
thấy. Nội quy cần ngắn gọn, cụ thể, dễ hiểu, để học sinh dễ nhớ và thực hiện.
Cần dành thời gian trong năm để thu nhận phản hồi về thực hiện nội quy và điều
chỉnh, bổ sung nếu thấy cần thiết. Nội quy cũng cần được công bố ở các kì họp
cha mẹ học sinh hằng năm.
- Xây dựng môi trường sư phạm thân thiện
Nhà trường cần xây dựng không khí thân thiện nhằm tạo ra một môi
trường cảm thông, chia sẻ, hợp tác trong hoạt động giáo dục. Môi trường học
thân thiện là môi trường hòa nhập bình đẳng, hoan nghênh và tôn trọng tất cả
16


các em không có sự phân biệt về giới tính, thể chất, trí tuệ, tâm lí, hoàn cảnh
xuất thân và những đặc điểm khác.
* Mạng lưới trợ giúp
- Nhóm giáo viên trợ giúp
Nhà trường cần thành lập nhóm giáo viên trợ giúp để thảo luận về những
vấn đề liên quan đến hành vi cư xử, kỉ luật và giải quyết xung đột. Bắt đầu bằng
việc cá nhân chia sẻ với nhau về cuộc sống, tâm tư và những lo lắng của mình.
Dần dần đây sẽ là nơi an toàn để giáo viên chia sẻ những khó khăn và trút
bỏ những sự buồn bực tức giận. Đây cũng là nơi giáo viên có thể nói với nhau
một cách chân thực về “những đứa trẻ khó bảo” và cùng bàn cách để tìm ra các
giải pháp thích hợp, để giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả mà không cần
sử dụng hình phạt. Đây cùng là nơi giáo viên chia sẻ những gì mình làm được,
sự thành công của những ý tưởng mới. Nhóm trợ giúp phải là nơi an toàn và tin
tưởng để giáo viên chia sẻ và là nơi thực sự họ có thể nói cho nhau biết tất cả
mọi việc về bản thân mình mà không hề e ngại.
Qua đó, từng thành viên trong nhóm sẽ rút ra các bài học kinh nghiệm bổ
ích khi giải quyết từng tình huống gặp phải trong quá trình giáo dục.
- Nhóm trợ giúp từ cộng đồng

Nhà trường nên thành lập nhóm trợ giúp này để hỗ trợ các hoạt động giáo
dục của nhà trường.Trường học cũng cần có tổ tư vấn gồm những cha mẹ học
sinh quan tâm đến giáo dục trẻ, các chuyên gia tâm lí, những người có uy tín,
được kính trọng trong cộng đồng (chính quyền địa phương, khu phố, giáo viên
nghỉ hưu...) để họ có thể giúp đỡ trong công việc giải quyết các vấn đề cần thiết
liên quan đến học sinh.
Nhóm tư vấn trợ giúp này có thể giúp nhà trường tổ chức các hoạt động
giáo dục như: tư vấn sức khỏe, tâm lí, kể chuyện danh nhân hay sự kiện lịch sử;
chăm sóc vườn trường, trồng cây cảnh, hoặc hướng dẫn học sinh đọc sách, phụ
đạo học sinh yếu; giúp giáo viên làm đồ dùng dạy học, nhóm này còn có thể
giúp các em giải quyết các vấn đề khó khăn về sức khỏe và xã hội khác hay vận
động các nguồn lực để hỗ trợ nhà trường nhằm tăng cường trang thiết bị, cơ sở
vật chất phục vụ dạy học.
- Câu lạc bộ “Những người bạn”
Câu lạc bộ “Những người trợ giúp có uy tín”: Nhà trường nên vận động
những người có uy tín, có kinh nghiệm và tâm huyết tham gia trợ giúp công tác
giáo dục học sinh. Trong cộng đồng có những người được học sinh và giáo viên
rất kính trọng và tin tưởng, có kinh nghiệm hòa giải, nhà trường mời những
người này làm cố vấn để xử lí “những học sinh phá rối” hoặc các vấn đề khác
của học sinh. Khi có xung đột, nên mời họ đến để cùng nhau tìm ra các giải
pháp tốt nhất cho các em mà không cần dùng đến sự trừng phạt.
Câu lạc bộ “Nhóm bạn tư vấn”: Nhà trường nên thành lập câu lạc bộ
“Nhóm bạn tư vấn” gồm những người bạn thân, những người cùng độ tuổi, cùng
hoàn cảnh để cùng tìm hiểu, trao đổi, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn và giúp
nhau trong học tập.
Học sinh với vai trò “tư vấn viên”: Ở cấp trung học cơ sở có thể giao cho
học sinh vai trò tư vấn viên. Trong các trường học, nhu cầu được tư vấn rất cao
17



bởi luôn có những học sinh phải đương đầu với những khó khăn về mặt xã hội
và trong quan hệ cá nhân. Có thể lựa chọn những học sinh có khả năng thuyết
phục, có hiểu biết để tập huấn cho các em những kĩ năng cơ bản về tư vấn.
Câu lạc bộ “vừa là thầy- vừa là bạn”: Trường học nào cũng có những
giáo viên luôn luôn được học sinh tin cậy và tín nhiệm. Họ như những nam
châm tự nhiên có sức hút đối với học sinh trong những lúc các em cảm thấy lo
lắng, phiền muộn- dù đó là những điều phiền muộn cá nhân, những vấn đề ở gia
đình hay xung đột ở trường học. Họ được học sinh tin cậy vì luôn đối xử thân
thiện công bằng, luôn lắng nghe ý kiến của học sinh.
Nhà trường có thể thành lập nhóm “vừa là thầy- vừa là bạn” để những
giáo viên này gặp gỡ, lắng nghe và giúp đỡ khi học sinh gặp những khó khăn
hoặc đáp ứng những mong muốn của các em. Nhóm là chỗ dựa tin cậy và vững
chắc của các em, lắng nghe học sinh thổ lộ những suy nghĩ, phiền muộn mà các
em gặp phải trong cuộc sống và đưa ra những lời khuyên hữu ích.
* Tổ chức các hoạt động gắn kết
- Tổ chức các hoạt động vui chơi
Nhà trường tổ chức các hoạt động vui chơi, nhất là các trò chơi dân gian
cho học sinh để đem lại niềm vui cho các em. Các hoạt động vui chơi lành mạnh
luôn mang lại niềm vui cho học sinh, tạo không khí sôi động trong trường học.
Các trò chơi nên có sự tương tác giữa thầy và trò. Các buổi tham quan di tích
lịch sử, văn hóa, cách mạng, danh lam thắng cảnh, dã ngoại, các hoạt động thể
dục thể thao đều đem lại sự bổ ích cho học sinh.
- Hộp thư “Điều em muốn nói”
Nhà trường nên lập hộp thư “Điều em muốn nói” để học sinh được bày tỏ
ý kiến của mình. Những ý kiến của học sinh có thể là những tình cảm, cảm
nhận, mong muốn, đề nghị của các em về thầy cô, cha mẹ, nhân viên phục vụ,
điều kiện học tập- sinh hoạt và các hoạt động vui chơi mà các em không thể
hoặc chưa dám nói trực tiếp.
Hộp thư được đặt tại các vị trí thuận tiện, vừa tầm cao để học sinh dễ bỏ
thư.

Cần lập một ban phụ trách gồm các thành viên: Đại diện Ban giám hiệu,
đoàn thể, học sinh...để mở thư, ghi nhận, giải quyết và trả lời những ý kiến đóng
góp của học sinh. Cần cân nhắc khi lựa chọn hình thức trả lời ý kiến học sinh:
bằng hình thức trao đổi cá nhân hay trả lời chung trước toàn lớp/trường (tùy nội
dung). Hộp thư nên được quan tâm giải quyết hằng ngày (nếu có điều kiện).
Qua hộp thư, người lớn (thầy cô, cha me...) sẽ có điều kiện hiểu các em
nhiều hơn, từ đó điều chỉnh các hoạt động giáo dục cho phù hợp.
- Thu hút sự tham gia của cha mẹ học sinh
Nhà trường cần thu hút sự tham gia của cha mẹ học sinh trong các hoạt
động ngoại khóa để gắn kết mối quan hệ thân thiện giữa nhà trường và cha mẹ
học sinh. Sau đây là một số gợi ý có thể giúp cha mẹ tham gia vào các hoạt
động:
Cha mẹ học sinh góp ý cho nội quy lớp học: Giáo viên chủ nhiệm có thể
giới thiệu nội quy lớp học trong cuộc họp cha mẹ học sinh vào đầu năm và đề
nghị cha mẹ góp ý kiến của mình về nội dung bản nội quy.
18


Hội thảo dành cho cha mẹ học sinh về vấn đề giáo dục tích cực: Tình
trạng trừng phạt thân thể vẫn diễn ra không ít tại các gia đình. Trường học có vai
trò quan trọng trong việc trang bị cho cha mẹ học sinh những quan điểm mới về
giáo dục tích cực.
Trên thực tế, các cuộc họp cha mẹ thường diễn ra theo cách đến để nghe
giáo viên thông báo kết quả học tập, đóng tiền rồi về. Nếu ở buổi họp này, giáo
viên chủ nhiệm biết dành thời gian để trao đổi với họ những quan điểm mới về
giáo dục tích cực, những điều cha mẹ nên làm và không nên làm. Cần trao đổi
với ai khi có những lỗi lầm mà con họ đã mắc phải. Ai sẽ giúp họ hạn chế những
sai lầm trong việc giáo dục con cái và bằng cách nào. Làm như vậy thì nội dung
cuộc họp sẽ bổ ích và gây hứng thú hơn.
Thường xuyên liên hệ, trao đổi với cha mẹ học sinh: Sổ liên lạc, gọi điện

thoại, mạng lưới nhắn tin.
Liên hệ với cha mẹ khi học sinh có vấn đề: Đây là vấn đề nhạy cảm vì cha
mẹ của các em học sinh có vấn đề rất dễ bị tổn thương, xấu hổ hoặc mặc cảm tự
ti, nhất là khi vấn đề xuất phát từ gia đình. Giáo viên cần thận trọng, khéo léo, tế
nhị để cùng cha mẹ tham gia giải quyết những vấn đề của học sinh một cách
hiệu quả và mang ý nghĩa giáo dục.
Theo dõi hiện tượng trốn học: Trốn học thường là dấu hiệu của một vấn
đề bất ổn trong cuộc sống của trẻ, nguyên nhân có thể là vấn đề xảy ra ở trường,
ở nhà hay trong việc học tập. Cần phải liên hệ với trẻ và cha mẹ khi thấy các em
không đến trường và không rõ lí do. Nhiều vấn đề có thể được ngăn chặn nếu
kịp thời phát hiện trước khi trở nên nghiêm trọng.
- Hoạt động đánh giá, rút kinh nghiệm
Hoạt động này nhằm đánh giá, rút kinh nghiệm và điều chỉnh những nội
dung, hình thức giáo dục đang thực hiện trong nhà trường. Việc đánh giá này
nên làm hàng quý để xem xét lại các hoạt động đã được thực hiện đến đâu, đã
cải thiện được gì về mối quan hệ giữa thầy và trò. Việc đánh giá, rút kinh
nghiệm nếu được thực hiện nghiêm túc sẽ đem lại nhiều kết quả tốt cho nhà
trường trong việc giáo dục học sinh. Để người thầy mãi mãi là hình ảnh tốt đẹp
trong mỗi học sinh.
2.4. Hiệu quả của SKKN
Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã áp dụng các giải pháp
như vừa nêu trên, qua một năm thực nghiệm, tôi đã thấy có sự chuyển biến rõ rệt
ở học sinh. Vì thế cha mẹ học sinh yên tâm, tin tưởng vào nhà trường, tích cực
ủng hộ việc dạy học của nhà trường. Qua khảo sát bằng việc so sánh, đối chiếu
hạnh kiểm đầu năm học và cuối năm học, kết quả đạt được như sau:
Thời điểm
Trước khi áp
dụng SKKN
Sau khi áp
dụng SKKN


Lớp/sĩ số
9A- 29

Tốt
21

Khá
05

Trung bình
02

Yếu
01

9A- 29

26

03

0

0

19


3. Kết luận và kiến nghị

3.1. Kết luận
Trên đây là một số biện pháp giáo dục tích cực nhằm ngăn chặn các biểu
hiện tiêu cực của học sinh và thay thế hình thức trừng phạt thân thể mà giáo viên
có thể thực hiện tại lớp học của mình. Còn rất nhiều biện pháp khác mà giáo
viên có thể nghĩ ra. Giáo viên có thể tự tìm hiểu và thử nghiệm các biện pháp
khác nhau và lồng ghép vào các hoạt động hằng ngày trên lớp. Giáo viên cũng
có thể điều chỉnh các hoạt động để tìm cho mình một cách làm phù hợp.
3.2. Kiến nghị
- Tổ chức tuyên truyền vận động: Tuyên truyền, vận động là một trong
những biện pháp quan trọng để các cán bộ quản lí giáo dục tác động đến nhận
thức của giáo viên. Công tác tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức như:
pano, khẩu hiệu...
- Cung cấp sách báo, tài liệu: Sách báo, tài liệu là một trong những nguồn
cung cấp thông tin không thể thiếu giúp thay đổi nhận thức của giáo viên. Thông
qua nguồn thông tin này, giáo viên tự học hỏi và tích lũy kinh nghiệm giáo dục
bằng các biện pháp giáo dục tích cực.
- Tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo: Các lớp tập huấn, hội thảo luôn
mang lại cho giáo viên những ý tưởng hay. Cán bộ quản lí giáo dục cần tổ chức
các hội thảo, tập huấn để giáo viên nhận thức được mục đích của việc sử dụng
các biện pháp giáo dục tích cực, giúp họ chọn lọc, sáng tạo những hình thức giáo
dục phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích việc thực hiện các biện pháp giáo dục
tích cực: Nhà trường cần có một cơ chế cụ thể trong việc thực hiện các biện
pháp giáo dục tích cực. Cơ chế này được xây dựng trên cơ sở thống nhất của
Hội đồng sư phạm bao gồm đầy đủ các nội dung như: Kiểm tra, giám sát việc
thực hiện, khen thưởng, tôn vinh những giáo viên thực hiện tốt; kỉ luật nghiêm
khắc những giáo viên vi phạm nội quy. Việc nhà trường thực hiện tốt cơ chế này
sẽ đảm bảo tất cả học sinh đều được hưởng lợi ích của biện pháp giáo dục tích
cực.
Các biện pháp giáo dục tích cực không khó thực hiện, chỉ cần bạn thực sự

muốn thay đổi thì sẽ làm được.
Trên đây là một số kinh nghiệm về “Phương pháp chủ nhiệm lớp bằng các
biện pháp giáo dục tích cực” ở trường THCS. Với nhận thức và kinh nghiệm còn
nhiều hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận
được sự góp ý của các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thường Xuân, ngày 10 tháng 03 năm 2019.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.

20


Lê Thị Hường

21



×