Tải bản đầy đủ (.pdf) (127 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Đề tài gia đình trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975 từ góc nhìn văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807 KB, 127 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN

ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG
SAU 1975 TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN

ĐỀ TÀI GIA ĐÌNH
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG
SAU 1975 TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Diệu Linh



THÁI NGUYÊN - 2019


i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích dẫn đều
có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều trung thực và chưa từng
được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Liên


ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn Thạc sĩ này, trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng dẫn TS.
Nguyễn Diệu Linh đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến các quí Thầy Cô trong Hội đồng chấm luận văn đã dành
thời gian đọc và đóng góp ý kiến giúp cho bài luận văn được hoàn chỉnh hơn. Trong quá trình

viết luận văn, khó tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của quí Thầy Cô và bạn đọc.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hồng Liên


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .....................................................................................................................ii
MỤC LỤC..........................................................................................................................iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................................. 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..............................................................................11
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................12
6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................13
7. Cấu trúc luận văn ..........................................................................................................13
NỘI DUNG .......................................................................................................................14
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .......................................................................14
1.1. Gia đình và văn hóa gia đình người Việt ................................................................14
1.1.1. Khái lược về gia đình .............................................................................................14
1.1.2. Văn hóa gia đình người Việt .................................................................................18
1.1.3. Gia đình trong tâm thức người Việt .....................................................................24
1.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam hiện đại ...................................................29

1.2.1. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng
Tám năm 1945 ..................................................................................................................29
1.2.2. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm
1945 đến 1975 ...................................................................................................................33
1.2.3. Đề tài gia đình trong văn học Việt Nam sau 1975..............................................36
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................................40
Chương 2: ĐỜI SỐNG VĂN HÓA GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA
VĂN KHÁNG SAU 1975...............................................................................................41
2.1. Những giá trị văn hóa truyền thống của gia đình ...................................................41
2.1.1. Sự gìn giữ nề nếp gia pháp, gia phong ................................................................41


iv

2.1.2. Lối sống yêu thương, nhân ái, bao dung..............................................................45
2.1.3. Luôn khát khao và có niềm tin vào cuộc sống.....................................................50
2.2. Nét đẹp trong văn hóa ứng xử ..................................................................................54
2.2.1. Ứng xử trong quan hệ bố mẹ - con cái.................................................................55
2.2.2. Ứng xử trong quan hệ vợ - chồng .........................................................................58
2.2.3. Ứng xử trong quan hệ anh chị em ........................................................................62
2.3. Những đổi thay trong văn hóa gia đình người Việt hiện đại .................................65
2.3.1. Bi kịch gia đình từ nỗi đau hậu chiến ..................................................................65
2.3.2. Sự rạn nứt gia đình bởi mặt trái của cơ chế thị trường và lối sống thị dân........69
2.3.3. Nỗi cô đơn của con người trong gia đình hiện đại .............................................75
Tiểu kết chương 2 .............................................................................................................79
Chương 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN VĂN HÓA
GIA ĐÌNH TRONG TIỂU THUYẾT CỦA MA VĂN KHÁNG SAU 1975..........80
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đa tính cách với đời sống nội tâm phong phú ....80
3.1.1. Nhân vật đa tính cách ............................................................................................80
3.1.2. Nhân vật với đời sống nội tâm phong phú ...........................................................88

3.2. Cách xây dựng cốt truyện mang tính xung đột văn hóa ........................................90
3.2.1. Những xung đột về chuẩn mực, giá trị đạo đức trong gia đình hiện đại .........90
3.2.2. Hệ thống tình huống truyện làm nổi bật tính cách nhân vật..............................95
3.3. Sự phong phú, đa dạng trong việc sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu ...................99
3.3.1. Sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ văn hóa dân gian và mang đậm nhãn quan
phong tục tập quán ...........................................................................................................99
3.3.2. Giọng điệu giàu cảm xúc và mang tính triết lý .................................................106
Tiểu kết chương 3 ...........................................................................................................112
KẾT LUẬN.....................................................................................................................113
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................115


1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Gia đình được coi là nơi lưu giữ và phát triển các giá trị truyền thống từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình Việt Nam luôn chú trọng việc xây dựng gia
đạo, gia phong và gia lễ. Chính vì vậy văn hóa gia đình giàu tính nhân văn, đề cao
những giá trị đạo đức của mỗi con người. Sau năm 1975, sự giao lưu hội nhập
đem đến cho gia đình Việt Nam nhiều cơ hội phát triển về kinh tế, từ đó nâng cao
đời sống tinh thần. Gia đình Việt Nam thời kỳ hiện đại đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển của đất nước tiến đến mục tiêu dân giàu - nước mạnh - xã hội công
bằng, văn minh. Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực đó, gia đình Việt Nam
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, sóng gió.
1.2. Văn hóa gia đình là một bộ phận hợp thành của nền văn hóa Việt Nam.
Gia đình với những sợi dây liên kết phức tạp, cùng những giá trị văn hóa - đạo
đức đã trở thành một đề tài lớn của văn học Việt Nam qua từng chặng đường
phát triển. Từ những tác phẩm đầu tiên viết về đề tài gia đình của Tự lực văn
đoàn đến những tác phẩm đương đại, các giá trị của văn hóa gia đình đã được

nhiều cây bút khai thác rất thành công. Với những tác phẩm viết về đề tài gia
đình trong văn học sau 1975, các nhà văn đã đi sâu vào những mối quan hệ gia
đình nhiều chiều của mỗi gia đình trong thời kỳ hội nhập. Trong đó, đời sống cá
nhân của con người được đề cao. Lúc này, văn học thể hiện rõ vai trò đối với cá
nhân - gia đình một cách trọn vẹn.
1.3. Ma Văn Kháng là tác giả có vị thế quan trọng trong văn xuôi và trong
văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để lại dấu ấn riêng đầy cá tính sáng tạo trong
tiến trình đổi mới nền văn học dân tộc. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, khi
đất nước đang trong thời kỳ “đêm hôm trước” và trong những ngày đầu đổi mới,
Ma Văn Kháng đã dám “nhìn thẳng vào sự thật” và “nói rõ sự thật” về những
đổi thay vừa hừng hực khí thế, vừa day dứt, trăn trở và vật vã, đau xót. Trong
sáng tác của ông, nhất là một số tiểu thuyết tiêu biểu thuộc giai đọạn sau 1975,


2

những giá trị gia đình vừa mang tính truyền thống, vừa có những biến động và
mất mát bởi những tác động của mặt trái thời kinh tế thị trường với các giá trị
văn hóa ngoại lai của chủ nghĩa hậu hiện đại.
1.4. Trong nhà trường THPT hiện nay, đoạn trích tái hiện lại khung cảnh
đón Tết của gia đình ông Bằng trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của
Ma Văn Kháng được đưa vào chương trình với thời lượng từ một đến hai tiết.
Trong dự thảo đổi mới chương trình, tác phẩm này cũng vẫn được nhắc tới để
giáo viên lựa chọn dạy và học. Dù còn khiêm tốn nhưng trong số những tác giả,
tác phẩm văn chương sau năm 1975 thì Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông vẫn
là một lựa chọn không thể bỏ qua.
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Đề tài gia đình trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975 từ góc nhìn văn hóa làm đối tượng nghiên
cứu cho luận văn của mình với mong muốn tìm hiểu gia đình trong xã hội hiện
đại từ góc độ văn hóa. Đồng thời thấy được những giá trị nghệ thuật trong các

tác phẩm viết về gia đình và những đóng góp của nhà văn ở chặng đường sáng
tác sau 1975 về một mảng đề tài không phải là mới mẻ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975
Ma Văn Kháng là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Ông sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936, tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn, quê ở
Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Bước vào tuổi thiếu niên (15 tuổi), Ma Văn Kháng
đã trở thành một chiến sĩ vệ quốc quân, được cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh,
Trung Quốc. Năm 1963, ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, đi dạy học ở vùng đất
Tây Bắc rồi chuyển sang làm báo, từng giữ chức Phó Tổng biên tập báo Lai
Châu. Từ năm 1976, ông chuyển về công tác tại Hà Nội, đảm nhiệm chức vụ
Phó Giám đốc - Tổng biên tập NXB Lao động. Từ năm 1995, Ma Văn Kháng là
Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên đảng đoàn Hội Nhà văn khóa V, Tổng biên tập
tạp chí Văn học nước ngoài. Vào những năm 60, bút danh Ma Văn Kháng đã tạo


3

cho người đọc sự chú ý đặc biệt. Trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam, ông là
người gắn với vùng đất biên ải trong một thời gian khá dài (1964 - 1976). Vì
vậy, lấy bút danh Ma Văn Kháng có lẽ chính là cách để nhà văn ghi nhớ những
kỷ niệm không thể nào quên về một thời tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, không ngại
gian khó, lăn lộn với công việc dạy học nơi bản làng và bày tỏ niềm tri ân sâu
nặng của mình đối với đồng bào các dân tộc vùng cao. Với những đóng góp tích
cực cho sự vận động và phát triển nhiều mặt của văn học nghệ thuật, Ma Văn
Kháng được tặng giải thưởng Văn học ASEAN năm 1998 và giải thưởng Nhà
nước về Văn học nghệ thuật năm 2001.
Ma Văn Kháng cầm bút từ sớm, nhưng phải đến thập kỉ 80 của thế kỉ XX,
ông mới thực sự trở thành một hiện tượng trong đời sống văn học nước nhà.
Ngay từ những tiểu thuyết đầu tiên đến giai đoạn sau 1975 như Đồng bạc trắng

hoa xoè (1979), Mưa mùa hạ (1982), Vùng biên ải (1983), Mùa lá rụng trong
vườn (1985), Côi cút giữa cảnh đời (1989), Đám cưới không có giấy giá thú
(1989), Chó Bi, đời lưu lạc (1992), Một mình một ngựa (2007)…, Ma Văn
Kháng đã được đông đảo dư luận, độc giả và các nhà phê bình quan tâm. Có thể
thống kê tới hàng trăm bài báo - tạp chí, các giáo trình nghiên cứu trực tiếp hoặc
gián tiếp về Ma Văn Kháng và tác phẩm của ông, tiêu biểu như: Bích Thu
(2002), Nhà văn tóc bạc và những vấn đề của cuộc sống đương đại, Báo Văn
nghệ, số 10 (tr.17-23); Trần Minh Hiếu (2006), Ma Văn Kháng với đời sống
đương đại, Văn hóa nghệ thuật, số 5 (tr 88-93); Tư duy mới về nghệ thuật
trong sáng tác của Ma Văn Kháng trong những năm 80, Tạp chí Văn học số 2
(tr 51-57); Mai Thị Nhung (2008), Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời
kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 10 (tr. 8997);...Ngoài ra, phải kể đến nhiều công trình nghiên cứu, phê bình về Ma Văn
Kháng trong các tuyển tập của các nhà nghiên cứu đầu ngành như: Phong Lê, Lã
Nguyên, Tô Hoài, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Ngọc Thiện...đã được đăng tải trên
nhiều báo, tạp chí và tập hợp trong các cuốn sách, cuốn giáo trình…


4

Những năm gần đây, Ma Văn Kháng và các tác phẩm của ông trở thành đối
tượng nghiên cứu trong nhiều luận văn, luận án như: Lê Thanh Hùng (2006),
Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới (1980 - 1989), Luận văn Thạc sĩ,
Đại học sư phạm Thái Nguyên; Nguyễn Minh Chung (2007), Tiểu thuyết Ma
Văn Kháng thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ, Đại học khoa học xã hội và nhân
văn, Hà Nội; Trần Thị Phi Nga (2008), Đặc trưng tiểu thuyết thế sự của Ma
Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ - Đại học Sư phạm T.P Hồ Chí Minh; Nguyễn Thị
Phương Thảo (2011), Tiểu thuyết về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng, Luận
văn thạc sĩ - Đại học Đà Nẵng; Đỗ Phương Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự trong
sáng tác Ma Văn Kháng (Qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận án tiến sĩ, Đại
học Sư phạm Hà Nội; Nguyễn Thị Quất (2013), Nhân vật người trí thức trong

tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học xã
hội nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội…Tất cả các công trình này đều hướng
tới việc khẳng định sự tiếp nối, phát huy và đổi mới của Ma Văn Kháng trên các
phương diện: đặc trưng thể loại, đề tài và chất liệu văn học, vấn đề nhân vật và
nghệ thuật viết tự sự...Với những tác phẩm viết về cuộc sống con người miền
núi (đề tài nổi bật trong các sáng tác trước năm 1975 của Ma Văn Kháng), nhà
văn được đánh giá là đã thành công trong việc phản ánh hiện thực, ca ngợi hình
ảnh cao đẹp của các cán bộ miền xuôi với sự cống hiến hết mình trong công
cuộc giải phóng vùng biên ải; khắc họa chân thực hình ảnh những con người
miền núi thuần hậu mang trong mình nỗi cay đắng tủi nhục, chịu áp bức, bóc lột
và phong tục lạc hậu, mê muội. Tuy nhiên nhà văn cũng phát hiện và khẳng định
vẻ đẹp tình yêu và khát vọng sống tiềm tàng mãnh liệt trong tâm hồn họ...
Nghiên cứu tiểu thuyết viết về đề tài miền núi của Ma Văn Kháng sau
1975, đặc biệt khi nhận xét về tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe, tác giả Trần
Đăng Suyền cho rằng: “Ma Văn Kháng, bằng hình tượng nghệ thuật, đã chứng
minh rằng đồng bào các dân tộc ít người, mặc dù bị chìm đắm trong đau khổ,
tăm tối nhưng đều có mầm sống, khả năng cách mạng” [63, 13]. Tìm hiểu về đề


5

tài này trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Nguyễn Ngọc Thiện cũng khẳng
định: “Cuốn tiểu thuyết Gió rừng (1977), Đồng bạc trắng hoa xòe (1979),
Vùng biên ải (1983)…là một sự hội tụ, kết tinh cao độ vốn sống về con người và
cuộc sống miền núi, mà ông tích lũy suốt hơn 20 năm gắn bó với nó” [81, 57].
Có thể nói, 11 năm ròng dạy học nơi vùng cao “đã tích tụ trong Ma Văn Kháng
một vốn liếng quý giá vô ngần, chín dần qua năm tháng mãi về sau, trở thành
trầm tích, thành mỏ vàng trữ lượng luôn dồi dào” [99].
Không chỉ thành công ở mảng tiểu thuyết viết về đề tài miền núi, sau
những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, Ma Văn Kháng lại cho ra

đời hàng loạt tiểu thuyết đời tư - thế sự như Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng
trong vườn (1985), Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Côi cút giữa cảnh
đời (1989), Chó Bi đời lưu lạc (1992)…Với các tác phẩm này, Ma Văn Kháng
được coi là một trong những cây bút tiên phong đã khơi lại mạch viết về gia
đình vốn bị ngưng đọng gần nửa thế kỷ trong văn học Việt Nam hiện đại. Đây
cũng chính là một trong những mảng sáng tác thành công nhất của ông.
Tiểu thuyết đầu tiên như một dấu mốc đánh dấu bước chuyển trong đời văn
Ma Văn Kháng trong giai đoạn này là Mưa mùa hạ: “Tiểu thuyết (Mưa mùa
hạ) khi xuất hiện trên văn đàn đã gây sự ngỡ ngàng, xôn xao dư luận về cả đề
tài lẫn vấn đề được đề cập trong tác phẩm. Thứ nhất: một nhà văn chuyên đi
vào đề tài đấu tranh, cuộc sống con người ở miền núi nay bỗng nhiên lại chuyển
sang mảng thị thành rất tự nhiên. Thứ hai là những con người tốt, lương thiện
lại có kết cục buồn, bi thảm” [53, 12]. Tác phẩm được nhà phê bình Vân Thanh
đánh giá cao vì “Đã thể hiện cách nhìn, thái độ của các nhân vật trước những
hiện tượng tiêu cực trong xã hội” [72, 3]. Bên cạnh đó, Vân Thanh cũng cho
thấy từ trong những trang sách vang lên một tiếng giục giã, đánh thức lương
tâm, trách nhiệm của mỗi người: “bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn kịp
thời những tổ mối tiêu cực đang sinh sôi nảy nở trong đời sống nếu không chúng
sẽ đục ruỗng xã hội và hủy hoại những giá trị tinh thần vốn đã thành truyền


6

thống của dân tộc” [72, 3]. Điều đó thể hiện ý thức trách nhiệm của Ma Văn
Kháng đối với cuộc sống hiện đại. Chính nhà văn đã từng bộc bạch: “Tôi không
có được cái dự cảm rằng mình đã là một nhà văn dũng cảm, không sợ các nhà
phê bình, không ngại dư luận, rằng mình là kẻ dám nhìn thẳng vào sự thật,
trong khi hình thành ý định và sáng tác tiểu thuyết Mưa mùa hạ” [87, 112].
Những tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy
giá thú,...vẫn tiếp nối đề tài về thành thị. Ngòi bút tinh tế, sáng tạo của nhà văn

đã phản ánh chân thực những thân phận giữa đời thường, thẳng thắn phơi bày sự
tha hóa đạo đức của con người trong xã hội ở mức độ cao hơn: “Bằng cách nhìn
tinh tế vào hiện thực đời sống, tác giả đã mô tả những người giáo viên sống và
làm việc gặp quá nhiều khó khăn. Những vui buồn của thời thế đã phản ánh vào
những trang tiểu thuyết trở nên sống động, hấp dẫn” [101]. Theo tác giả Lê
Ngọc Y, Ma Văn Kháng “đã có cái nhìn hiện thực, tỉnh táo nên không bị thói
xấu, cái bất bình thường vốn nảy sinh trong xã hội đang vận động lấn át, hoặc
chỉ, thấy một chiều này u ám mà không thấy chiều khác đầy nắng rực rỡ” [101].
Còn Nguyễn Thu Thủy trong công trình luận văn của mình đã bày tỏ quan điểm:
“Đa số các tiểu thuyết của Ma Văn Kháng luôn có giọng suy tư bùi ngùi xen lẫn
với đắng cay chua xót. Ngòi bút của ông luôn soi tìm, đào sâu vào tâm hồn con
người, từ đó phát hiện ra những tâm tư, tình cảm, phẩm chất của từng cá nhân”
[83, 179].
Những công trình chuyên luận nghiên cứu trên đây cùng với nhiều bài báo,
tạp chí có chung định hướng và nội dung nghiên cứu, dù nhiều, dù ít đều đề cập
đến các mối quan hệ, những nhân vật, những vẻ đẹp văn hóa đạo đức và cả
những tổn thương, sa đọa, đổ vỡ, mất mát có khi rất đau đớn, nghiêm trọng và
phũ phàng trong các trang văn của Ma Văn Kháng. Đồng thời ta cũng thấy rõ cái
nhìn tiến bộ, mới mẻ của nhà văn. Tất cả những nhận xét, đánh giá sâu sắc và
khách quan về các tác phẩm sau 1975 của Ma Văn Kháng dưới góc nhìn khác
nhau, đều nhằm khẳng định những đóng góp và thành công của ông trong tiến


7

trình phát triển của Văn học Việt Nam giai đoạn đương đại. Trên tinh thần kế
thừa những thành tựu của những người đi trước để lại, các công trình khoa học
của các học giả, các nhà nghiên cứu trên đây sẽ là những gợi ý vô cùng quan
trọng trong quá trình chúng tôi kiến giải đề tài.
2.2. Những công trình nghiên cứu về đề tài gia đình

Khi nghiên cứu về đề tài gia đình trong sáng tác của Ma Văn Kháng, các
nhà nghiên cứu phê bình đều khẳng định nhà văn đã có những cách tân lớn, góp
phần thể hiện rõ thái độ và trách nhiệm, lương tâm của một người cầm bút trước
những biến đổi mạnh mẽ trong cuộc sống gia đình. Sau tiểu thuyết đầu tiên Mưa
mùa hạ (1982), tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn (1985) ra đời được coi là
đỉnh cao, là dấu mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển biến của nhà văn cả về nội
dung và hình thức nghệ thuật, đã chứng tỏ sự thâm nhập vững vàng của nhà văn
vào chủ đề gia đình - “một phạm trù quan trọng (…), có nhiều cái đáng nói lắm
(…), đáng nghiên cứu lắm” [32, 83]. Trong các sáng tác viết về đề tài gia đình,
tác phẩm này nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà phê bình, nghiên cứu
hơn cả. Trước hết phải kể tới lời nhận xét của tác giả Vân Thanh: “Có thể xem
Mùa lá rụng trong vuờn là một tiếng nói của tác giả trước hiện thực hôm nay một tiếng nói về quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội, về trách nhiệm của
mỗi người đối với cuộc sống và cuộc sống dành cho mỗi người (...)” [73, 15]. Ở
đó, mỗi con người cần có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của các thành viên,
của gia đình và của cả xã hội. Tác giả Hoàng Sơn cho rằng: “Thật ra vấn đề gia
đình chỉ là cái cớ, vỏ bọc bên ngoài. Điều nhà văn tìm hiểu cũng là điều muốn
nói với bạn đọc là vấn đề sống của con người Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” [62, 4].
Về tác phẩm này, cũng cần phải kể tới lời đánh giá của Trần Đăng Suyền:
“Viết Mùa lá rụng trong vườn, Ma Văn Kháng đã rọi một luồng ánh sáng nhân
đạo khi đánh giá con người trong thời kỳ khó khăn, phức tạp hiện nay” [64, 17].
Tác giả cũng nhấn mạnh: “Mùa lá rụng trong vườn là một khuynh hướng tiếp


8

cận đời sống bằng con đường riêng của nghệ thuật: Hãy từ cửa sổ gia đình
mình nhìn ra cuộc đời; và từ cuộc đời hãy chiếu rọi ánh sáng vào mỗi căn nhà,
như thế mọi điều sẽ sáng tỏ hơn” [64, 20]. Mùa lá rụng trong vuờn thực sự là
một cuốn tiểu thuyết bổ ích trong việc giáo dục và khẳng định những giá trị văn

hóa gia đình. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên thành công
của tác phẩm…
Năm 1989, tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú ra đời và nhận
được nhiều sự khen chê, đánh giá khác nhau. Sáng ngày 11 tháng 1 năm 1990,
báo Văn nghệ đã tổ chức một hội thảo riêng về tác phẩm này. Tới dự cuộc tọa
đàm có các nhà văn, nhà phê bình: Xuân Cang, Nguyên Ngọc, Nguyễn Kiên,
Xuân Thiều, Huy Phương, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ, Từ Sơn, Phan Hồng
Giang, ông Lê Thanh Tùng và ông Xuân Du - đại diện nhà xuất bản Lao động.
Về phía báo Văn nghệ, ngoài nhà thơ Hữu Thỉnh - Tổng biên tập, còn có các nhà
văn, nhà thơ, nhà phê bình: Ngô Ngọc Bội, Nguyễn Vĩnh, Hoàng Minh Tường,
Phạm Tiến Duật, Thiếu Mai, Phạm Đình Ân. Toàn văn buổi tọa đàm đã được in
trên báo Văn nghệ, số 6, ngày 10 tháng 2 năm 1990 và in lại trong phần mở đầu
cuốn Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng, Nxb Văn học, 2017.
Trong buổi tọa đàm, Phan Cự Đệ khẳng định: “Ma Văn Kháng đã viết cái “bi
kịch vỡ mộng” của “một bữa tiệc dang dở, một đám cưới không thành, một cuốn
sách hay để lầm chỗ” đó một cách rất tâm huyết, với tất cả suy nghĩ và trăn trở,
niềm khát vọng và nỗi đau của một nhà văn trước thời cuộc, trước tình trạng
xuống cấp về trình độ tư duy và phẩm chất đạo đức ngay trong một số người tự
cho mình là cán bộ lãnh đạo, là trí thức hay kĩ sư tâm hồn” [60, 13]. Còn nhà
nghiên cứu Hà Minh Đức cho rằng “Tác phẩm có giá trị, có chiều sâu nhưng
đọc còn nặng chất chính luận, triết luận tuy sắc sảo song còn bị lạm dụng” [60,
21]. Tuy vậy, ông khẳng định: “Ma Văn Kháng là một trong những tác giả đổi
mới đầu tiên trong văn xuôi…viết về nhà trường nhưng thực ra ông muốn đề cập
đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn…” [60, 21]. Cũng trong buổi tọa đàm, nhà
văn Nguyên Ngọc cho rằng: “Đám cưới không có giấy giá thú là một cuốn sách


9

hay và rất tích cực. Nó nằm trong dòng vận động chung của sáng tác hiện nay

theo một xu thế tốt: tính thế sự mạnh mẽ (…). Ma Văn Kháng đang trên đường
phơi bày sự thật không nhân nhượng và đang hướng đến sự cô kết nghệ thuật”
[60, 26]. Rõ ràng, thực chất cuốn sách không chỉ bó hẹp ở phạm vi một ngôi
trường, mà nó còn mang ý nghĩa sâu rộng hơn, đặc biệt là nó chuyển sang địa
hạt gia đình. Tác phẩm phản ánh những bi kịch trong không ít gia đình thời
đương đại trước sự ảnh hưởng ồ ạt của nền kinh tế thị trường. Nhân vật của ông
không chỉ chịu những nỗi đau trong xã hội mà còn chịu nỗi cô đơn, bất hạnh
trong chính ngôi nhà của mình, nhưng vẫn sống đẹp, vẫn truyền cảm hứng cho
các thế hệ học trò. Đó chính là nhân vật tư tưởng mà nhà văn Ma Văn Khánh
hướng tới, khiến người đọc càng thêm cảm phục.
Tác phẩm của Ma Văn Kháng là lời cảnh báo về sự xói mòn nhân tính ẩn
trong những vỏ bọc đẹp đẽ của đạo đức và phẩm giá, về gia đình…Nhưng khi
một tờ báo đề nghị nhà văn gửi một tác phẩm tự chọn, ông đã trình làng tiểu
thuyết Côi cút giữa cảnh đời (1998). Đây là tác phẩm viết cho thiếu nhi nhưng
chúng ta cũng tìm thấy ở đó một cái nhìn riêng về văn hóa gia đình, dưới con
mắt của một đứa trẻ. Ngay từ khi ra đời, cuốn tiểu thuyết đã để lại ấn tượng
mạnh trong lòng độc giả. Sau này, nhà văn viết thêm cuốn Chó Bi, đời lưu lạc
cũng là tác phẩm viết về lứa tuổi thiếu nhi nhưng có thể nói Côi cút giữa cảnh
đời là tiểu thuyết cảm động và sâu sắc nhất khi ông viết về cuộc đời, số phận của
những đứa trẻ không may sớm rơi vào cảnh đời bất hạnh. Theo giáo sư Phong
Lê, cuốn tiểu thuyết Côi cút giữa cảnh đời chất chứa bao đau khổ, oan khiên
của những thân phận con người còm cõi, bơ vơ sau chiến tranh. Tác giả bài viết
còn khẳng định: “Cuốn sách (…) đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ đó như
nhiều cuốn sách khác. Nó thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình
cảm nhân hậu tốt lành. Có thể nói, đó là hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa” [45, 125].
Liên quan đến đề tài gia đình trong tiểu thuyết sau 1975 của Ma Văn
Kháng, chúng tôi thống kê được một vài công trình có giá trị như: Bùi Lan


10


Hương (2004), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội; Nguyễn Thị Hoa
(2008), Tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng, Luận văn thạc sĩ Ngữ
văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Nghiên cứu riêng về đề tài gia đình
trong tiểu thuyết của nhà văn, chúng tôi nhận thấy có Nguyễn Công Thanh
(2006); Bi kịch gia đình trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma
Văn Kháng, Tạp chí Đại học Vinh, số 4b; Lưu Thị Thanh Nga (2015), Văn hóa
gia đình trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Khóa
luận tốt nghiệp Đại học …Trong đó, phải kể đến Nguyễn Công Thanh với luận
văn thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Vinh: Vấn đề gia đình trong sáng tác của Ma
Văn Kháng từ 1985 đến nay. Theo tác giả, Mùa lá rụng trong vườn trước hết
là hồi chuông cảnh tỉnh những người có tư tưởng thủ cựu cố duy trì níu kéo kiểu
gia đình truyền thống. Tác phẩm còn đề cập đến một thực trạng đáng báo động
của xã hội buổi giao thời: không ít người có lối sống ích kỉ chạy theo dục vọng
cá nhân, ham muốn vật chất, thoát ly truyền thống, phá vỡ mọi chuẩn mực đạo
đức xã hội. Bên cạnh đó, Nguyễn Thị Hoa với đề tài Tiểu thuyết thế sự đời tư
của Ma Văn Kháng đã quan tâm tới bi kịch nhân văn, bi kịch thế sự, bi kịch đời
tư phản ánh trong tác phẩm của Ma Văn Kháng. Đặc biệt, tìm hiểu tác phẩm
Mùa lá rụng trong vườn và Đám cưới không có giấy giá thú, Nguyễn Thị Hoa
đã khai thác bi kịch đời tư - bi kịch tình yêu, hạnh phúc gia đình của con người.
Tác giả nhận thấy: “Phần lớn tiểu thuyết thế sự đời tư của Ma Văn Kháng đề
cập đến nỗi khổ đau bất hạnh nhiều hơn niềm vui hạnh phúc trong tình yêu, hôn
nhân, gia đình của con người” [16, 20].
Thực tế nguồn tư liệu trên cho thấy đề tài gia đình trong thể loại tiểu thuyết
của Ma văn Kháng ít nhiều đã được tách riêng ra thành công trình nghiên cứu
biệt lập chuyên sâu. Mặc dù có một vài công trình nghiên cứu về đề tài gia đình
trong tiểu thuyết của ông nhưng tất cả mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu những
giá trị và những biến cố của gia đình hiện đại, mà chưa tìm hiểu từ góc nhìn văn
hóa. Chúng tôi nhận thấy: ngòi bút của nhà văn hướng vào đề tài gia đình và trên



11

cái sân khấu gia đình ấy, ông đã lột tả được những ảnh hưởng sâu sắc của nền
kinh tế thị trường tới đời sống văn hóa gia đình. Ở đó, mặt trái của nền kinh tế
thị trường với lối sống thị dân tuy vừa mới xuất hiện đã kéo theo bao suy thoái,
rạn nứt, đổ vỡ trong mái nhà cổ kính. Những biến động về tư tưởng, tâm lí của
con người dẫn đến xung đột về quan niệm sống, làm lu mờ hoặc đảo lộn những
giá trị nề nếp gia phong ở ngay trên đất kinh kỳ hoặc ở vùng nông thôn, thậm
chí là vùng đồi núi xa xôi đang dần đô thị hóa. Tuy nhiên, trên những trang viết
của mình, Ma Văn Kháng cũng khẳng định những nỗ lực gìn giữ giá trị văn hóa
gia đình truyền thống bền vững của con người hiện đại.
Với cảm nhận và định hướng tư tưởng ấy, chúng tôi chọn đề tài Đề tài gia
đình trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975 từ góc nhìn văn hóa để
mong bổ sung một mảng thiếu hụt, chưa nhận được sự quan tâm thích đáng. Tuy
nhiên, một số bài báo, tạp chí và chuyên luận của các tác giả đi trước có liên
quan ít nhiều đến nội dung của luận văn này đã là nguồn tư liệu, là những định
hướng và gợi ý cần thiết, quý báu để chúng tôi học hỏi, vận dụng trong quá trình
nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là những vấn đề của gia đình hiện đại trong các tiểu
thuyết sau 1975 của Ma Văn Kháng từ cách tiếp cận văn hóa. Trong đó thấy rõ
nhà văn Ma Văn Kháng đã nhìn nhận văn hóa gia đình theo cái nhìn truyền
thống, là những giá trị văn hóa đã được mặc định.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sẽ khảo sát những tiểu thuyết sau 1975 viết về đề tài gia đình của
Ma Văn Kháng, nhưng tập trung vào một số tiểu thuyết tiêu biểu:
- Mùa lá rụng trong vườn (2017), Nxb Văn học

- Đám cưới không có giấy giá thú (2017), Nxb Văn học


12

- Côi cút giữa cảnh đời (2012), Nxb Hội nhà văn
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Thấy được những giá trị của văn hóa gia đình trong thời kỳ hiện đại. Góp
phần lí giải những nhân tố tác động làm tha hóa những giá trị cao cả, đẹp đẽ của
gia đình truyền thống.
- Chỉ ra được cái hay, cái đẹp của tiểu thuyết Ma Văn Kháng trong việc thể
hiện các vấn đề về gia đình hiện đại.
- Phần nào đó chỉ ra mối quan hệ giữa nội dung - tư tưởng và hình thức nghệ thuật trong một số tiểu thuyết viết về đề tài gia đình sau 1975 của Ma Văn
Kháng. Qua đó, hiểu thêm được những đóng góp to lớn của nhà văn về nội dung
và nghệ thuật của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát những vấn đề chung về gia đình và văn hóa gia đình người
Việt, đề tài gia đình trong văn học Việt Nam hiện đại.
- Tìm hiểu về đời sống văn hóa gia đình trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng sau 1975 thông qua một số tiểu thuyết tiêu biểu.
- Chỉ ra một số phương diện nổi bật trong nghệ thuật thể hiện văn hóa gia
đình trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
Xem xét sự vận động phát triển của văn học Việt Nam nói chung, sáng tác
của Ma Văn Kháng nói riêng trong dòng chảy ấy. Qua đó thấy được những đóng
góp của nhà văn trong việc đổi mới văn xuôi hiện đại.



13

5.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành
Tìm hiểu vấn đề từ phương pháp nghiên cứu liên ngành: văn hóa học - văn
học - lịch sử, thấy được sự ảnh hưởng của hoàn cảnh văn hóa - lịch sử đến nhà
văn và các tác phẩm của ông.
5.3. Phương pháp hệ thống
Xem xét sáng tác của nhà văn trong tính hệ thống với nhiều cấp độ khác nhau.
5.4. Phương pháp loại hình
Xem xét sáng tác của nhà văn từ góc độ loại hình thể tài, loại hình văn
xuôi nghệ thuật...
6. Đóng góp của luận văn
Đề tài góp phần tạo nên một cái nhìn toàn diện về gia đình trong tiểu thuyết
của Ma Văn Kháng sau 1975 từ những biểu hiện của văn hóa, thông qua một số
tiểu thuyết tiêu biểu. Đồng thời có những đánh giá về quá trình đổi mới và cá
tính sáng tạo nghệ thuật của nhà văn (xét ở hai phương diện tư tưởng và nghệ
thuật). Hi vọng đề tài sẽ là một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy tác phẩm của Ma Văn Kháng trong nhà trường THPT nói riêng và những ai
yêu thích văn chương nói chung.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
triển khai thành 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Đời sống văn hóa gia đình trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng sau 1975
Chương 3. Một số phương diện nghệ thuật thể hiện văn hóa gia đình
trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng sau 1975



14

NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1. Gia đình và văn hóa gia đình người Việt
1.1.1. Khái lược về gia đình
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Quan tâm đến gia đình là đúng
vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt
nhân của xã hội là gia đình (…). Gia đình là một tế bào của xã hội” [102]. Quan
điểm đó được hình thành từ lâu và được thể hiện rõ nhất trong các tác phẩm
nghiên cứu về lịch sử xã hội của nhà nhân chủng học Mỹ L.H - Mooc- gan
(1818- 1881). Sau này chính Ph. Ăng- ghen đã đồng tình và phát triển quan
điểm đó trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của
nhà nước (1884). Trong chương II - Gia đình, Ph. Ăng-ghen đã đánh giá rất xác
đáng về công sức của L.H - Mooc-gan khi nghiên cứu về gia đình: “Việc nghiên
cứu về mặt lịch sử đối với những thiết chế xã hội phát minh trong thời đại văn
minh, là vượt quá khuôn khổ cuốn sách của ông” [89]. Nhưng Ph. Ăng-ghen
cũng khẳng định: “Mooc-gan cũng coi sự phát triển hơn nữa của gia đình cá thể
là một bước tiến, để đi tới sự hoàn toàn bình đẳng giữa hai giới; dù ông không
coi là mục đích đó đã đạt được” [89].
Đồng thời Ph. Ăng-ghen đã trích lại một đoạn văn trong tác phẩm Xã hội
cổ đại như là một thao thức băn khoăn đầy cảnh báo: “Một khi thừa nhận sự thật
là gia đình đã trải qua bốn hình thức nối tiếp nhau, và hiện đang ở hình thức
thứ năm, thì một vấn đề sẽ xuất hiện: hình thức hiện nay đó có tồn tại lâu dài
trong tương lai không? Câu trả lời duy nhất có thể được đưa ra là: nó phải phát
triển và thay đổi, cùng với sự phát triển và thay đổi của xã hội, hệt như trong
quá khứ. Là sản vật của một chế độ xã hội, nó sẽ phản ánh sự văn minh của chế



15

độ xã hội đó” [89]. Điều đó chứng tỏ gia đình là một khái niệm lịch sử. Nó phản
ánh sự tiến bộ và quan niệm văn hóa của loài người, của quốc gia - dân tộc trong
tiến trình phát triển. Khái niệm gia đình vừa bền vững, vừa biến đổi; chặt chẽ,
kiên cố nhưng cũng không thể không bị tác động và công phá. Quá trình duy trì
và xây dựng gia đình không thể đóng cửa khép kín mà phải chủ động mở rộng ra
với bên ngoài, để nhằm vừa gìn giữ những giá trị căn cốt, vừa tiếp nhận sáng tạo
những giá trị mới mẻ. Đó là phương pháp tốt nhất để phát huy truyền thống gia
đình trong truyền thống văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại thời hội nhập.
Hiện đang tồn tại nhiều định nghĩa khác nhau về gia đình (từ các góc độ
của Luật học, Kinh tế học, Văn hóa học, Xã hội học…). Theo Từ điển tâm lí
học: “Gia đình là cộng đồng người cùng chung sống sinh hoạt chung dưới một
mái nhà, làm thành đơn vị nhỏ nhất của xã hội (còn được gọi là tế bào xã hội),
gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu)” [10, 205]; hay: “Gia
đình là một xã hội thu nhỏ bao gồm một hay nhiều thế hệ khác nhau sống và
hoạt động bên nhau một cách có tổ chức, nguyên tắc thành văn hay bất thành
văn. Sự hòa thuận được đảm bảo, bởi sự ấm cúng, cảm giác an toàn và tình
yêu thương” [10, 205]. Với tư cách là một môn khoa học nghiên cứu về xã hội
và các mối quan hệ của con người, xã hội học nhìn nhận gia đình với diện mạo
một thiết chế xã hội và nhận thấy: “Gia đình là thành tố cơ bản của cấu trúc xã
hội và thực hiện chức năng của nó để duy trì sự thích nghi và ổn định của xã
hội” [70, 1].
Đặc biệt, từ góc nhìn văn hóa học, trong Văn hóa gia đình Việt Nam: Các
giá trị truyền thống và hiện đại, Đào Thị Mai Ngọc cho rằng: “Gia đình là một
nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó (cha mẹ, con cái, ông bà, học hàng nội
ngoại…) cùng chung sống, là cái nôi nuôi dưỡng cho cả một đời người; là môi
trường văn hóa đầu tiên giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách; là nơi hội

tụ, chọn lọc và sáng tạo văn hóa của con người và xã hội loài người” [55, 113].


16

Từ góc nhìn này, gia đình được coi là nhân tố tiên quyết, là tế bào của xã hội.
Gia đình đảm nhận các chức năng như: thỏa mãn tình cảm giữa các thành viên;
chức năng sinh sản, xã hội hóa và kinh tế. Trong đó, chức năng giáo dục cho
thấy rõ khía cạnh văn hóa của gia đình. Tế bào gia đình có khỏe mạnh thì xã hội
mới khỏe mạnh. Nó bao gồm cả sự khỏe mạnh về văn hóa.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước, Ăng - ghen đã cho ta thấy: từ trạng thái quan hệ tính giao bừa bãi thời
nguyên thủy, các hình thức gia đình như gia đình huyết tộc, gia đình punalua,
gia đình đối ngẫu, gia đình cá thể đã phát triển. Trong đó, gia đình huyết tộc
được coi là giai đoạn đầu tiên của gia đình: “Lúc này, các tập đoàn hôn nhân đã
tách ra theo các thế hệ: tất cả ông bà, trong phạm vi gia đình, đều là vợ chồng
của nhau; con của họ, tức là tất cả bố mẹ, cũng thế; con của đời thứ hai, tức là
các cháu, lập thành nhóm vợ chồng chung thứ ba; rồi con của họ, tức là đời thứ
tư, lập thành nhóm thứ tư. Vì thế, trong kiểu hôn nhân này, chỉ có tổ tiên và con
cháu, cha mẹ và con cái, là không có “quyền hay nghĩa vụ vợ chồng” (như ta
vẫn nói) đối với nhau. Còn anh chị em ruột, anh chị em họ ở bậc nào đi nữa thì
đều là anh chị em, chính vì thế nên đều là vợ chồng của nhau” [89].
Bước phát triển thứ hai trong tổ chức gia đình là gia đình punalua. Theo
Ăng-ghen, “bước tiến thứ hai là hủy bỏ quan hệ tính giao giữa anh chị em với
nhau (…). Nó được thực hiện dần dần, bắt đầu với việc hủy bỏ quan hệ tính giao
giữa anh chị em cùng mẹ; trước hết là trong những trường hợp cá biệt, rồi từng
bước trở thành thông lệ; và cuối cùng là cấm kết hôn giữa các anh chị em họ
đời thứ nhất, thứ hai và thứ ba” [89].
Cũng theo Ăng-ghen, gia đình đối ngẫu là “hình thức kết hôn theo từng cặp
nhất định, trong thời gian ngắn hoặc dài, đã tồn tại trong chế độ quần hôn, hoặc

còn sớm hơn nữa; khi đó, người đàn ông có một vợ chính (nhưng chưa thể nói
đó là vợ yêu nhất) trong số rất nhiều vợ của mình; và đối với người vợ chính đó,
thì anh ta là người chồng chính trong số nhiều người chồng (…). Nhưng việc kết


17

hôn từng cặp đó hẳn là đã ngày càng lớn mạnh và vững chắc; khi mà thị tộc
ngày càng phát triển, các nhóm “anh em trai” và “chị em gái” không thể lấy
nhau ngày càng nhiều (…). Ở giai đoạn này, một người đàn ông sống với một
người đàn bà, nhưng việc có nhiều vợ và đôi khi ngoại tình vẫn là quyền của
đàn ông (…); nhưng người đàn bà lại phải triệt để chung thủy trong thời gian
sống với chồng, và sẽ bị trừng trị tàn khốc nếu ngoại tình. Tuy thế, mối liên hệ
hôn nhân có thể dễ dàng bị một trong hai bên cắt đứt; sau khi “li dị”, con cái
chỉ thuộc về mẹ, cũng như xưa kia” [89].
Ăng-ghen tiếp tục cho rằng: từ gia đình đối ngẫu nảy sinh gia đình cá thể:
“Gia đình ấy dựa trên sự thống trị của đàn ông, với chủ đích rõ ràng là con cái
phải có cha đẻ xác thực. Người ta đòi hỏi điều đó, vì những đứa con ấy sau này
sẽ nhận được tài sản của cha, với tư cách người thừa kế đương nhiên. Nó khác
gia đình đối ngẫu ở chỗ quan hệ vợ chồng đã chặt chẽ hơn rất nhiều, hai bên
không thể tùy ý bỏ nhau nữa. Theo lệ thường, chỉ người chồng mới có thể chấm
dứt hôn nhân và bỏ vợ. Vả lại, anh ta vẫn có quyền ngoại tình (...). Còn nếu
người vợ lại nhớ tới hình thức sinh hoạt tính giao cổ xưa, và muốn khôi phục nó
thì cô ta sẽ bị trừng phạt tàn khốc hơn bất kì thời nào trước kia” [89].
Từ đó, Ăng- ghen đã chỉ rõ: trong lịch sử có ba hình thức hôn nhân chính,
nhìn chung là tương ứng với ba giai đoạn phát triển chính của loài người: thời
mông muội thịnh hành nhất là chế độ quần hôn dưới những hình thức gia đình
cùng huyết thống và gia đình Puynaluya, thời dã man là chế độ hôn nhân đối
ngẫu, thời văn minh là chế độ hôn nhân cá thể. Xen giữa hôn nhân đối ngẫu và
hôn nhân cá thể là một thời kì có chế độ nhiều vợ và việc đàn ông sở hữu nữ nô

lệ, nằm ở giai đoạn cao của thời dã man. Cho đến xã hội chủ nghĩa, hôn nhân tự
do một vợ một chồng mới có điều kiện phát triển. Các thành viên trong gia đình
bình đẳng về mọi mặt cùng nhau xây dựng hạnh phúc qua nhiều thế hệ.
Xuất phát từ việc gia đình hiện đại có nhiều mối quan hệ (quan hệ hôn nhân
giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với cháu chắt,


18

quan hệ huyết thống giữa anh, em họ hàng, quan hệ quần tụ trong một không
gian chung...) nên nó tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau như: gia đình hạt
nhân, gia đình mở rộng. Trong hình thái nhỏ nhất - gia đình hạt nhân có ít nhất
ba quan hệ cơ bản: quan hệ vợ chồng; quan hệ cha mẹ và con cái; quan hệ giữa
anh, chị, em ruột với nhau. Gia đình hạt nhân tồn tại như một đơn vị độc lập,
gọn nhẹ, linh hoạt và có khả năng tạo cho mỗi thành viên trong gia đình khoảng
không gian tự do tương đối lớn để phát triển tự do cá nhân. Tuy nhiên, trong gia
đình hạt nhân, do không gian giữa các gia đình ngăn cách nên khả năng hỗ trợ
lẫn nhau về vật chất và tinh thần bị hạn chế, khả năng bảo lưu các giá trị văn hóa
truyền thống trong gia đình cũng giảm.
Những đơn vị lớn hơn gia đình hạt nhân thường được gọi là gia đình mở
rộng. Loại hình này thường có ưu thế trong việc tập trung nhân lực cho sản xuất.
Các thế hệ có thể hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc
sống, khắc phục sức ép về kinh tế, vật chất. Tuy thế gia đình mở rộng dễ dẫn đến
khác biệt và mâu thuẫn thế hệ. Để duy trì nó cần sự nỗ lực lớn của mỗi thành viên
để vượt qua những khó khăn, rạn nứt trong mỗi gia đình.
1.1.2. Văn hóa gia đình người Việt
Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Tại Hội
nghị của UNESCO tại Mêhicô từ 26/7 đến ngày 06/8/1982 từ “văn hoá” đã được
định nghĩa: “Văn hoá là một phức thể, tổng thể các đặc trưng, diện mạo về tinh

thần, vật chất, tri thức và tình cảm…khắc họa nên bản sắc của một gia đình, cộng
đồng, làng xóm, vùng miền, quốc gia, dân tộc…Văn hoá không chỉ bao gồm nghệ
thuật, văn chương mà còn cả những lối sống những quyền cơ bản của con người,
những hệ giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng, những di sản văn hoá hữu thể
và những di sản văn hoá vô hình”.
Ngày nay, trong mối quan hệ giao lưu quốc tế giữa các quốc gia trên thế
giới, khi kinh tế ngày càng phát triển thì văn hóa dân tộc ngày càng trở thành


19

vấn đề được quan tâm. Đảng và Nhà nước ta đã nhiều lần khẳng định vai trò
quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
đồng thời đặt mục tiêu “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”. Và “nói đến văn hóa của một dân tộc cần phải nói tới văn hóa gia đình của
dân tộc đó” [55, 11].
1.1.2.1. Đặc điểm gia đình người Việt truyền thống
Văn hóa gia đình “là một bộ phận hợp thành của văn hóa Việt Nam” [55,
115]. Trong xã hội Việt Nam, theo quan niệm truyền thống, văn hóa gia đình
chính là gia phong (nếp nhà): “Văn hóa gia đình được thể hiện ở thuần phong
mĩ tục, nếp sống, tác phong của từng thành viên trong gia đình; được thể hiện ở
sự ứng dụng những tri thức khoa học, y học, giáo dục học, tâm lí học, thẩm
mĩ…để tổ chức gia đình, giáo dục con người, nhất là về mặt tinh thần. Văn hóa
gia đình còn được biểu hiện ở sự hiếu thuận của con cháu đối với cha mẹ, ông
bà, tổ tiên; biểu hiện ở sự nêu gương về nhân cách văn hóa trong gia đình và ở
truyền thống gia phong của gia đình, dòng họ” [55, 115].
Theo các nhà nghiên cứu, gia đình Việt Nam truyền thống luôn mang
những nét riêng biệt của văn hóa phương Đông, mang nhiều nét đặc thù Á
Đông. Đặc điểm nổi bật của gia đình Việt Nam truyền thống là tính chất gia tộc,
dòng họ (quan hệ huyết thống). Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó

mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở là gia đình. Trong gia đình truyền thống,
các thành viên liên kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống, che chở,
thương yêu, nương tựa vào nhau. Ở đó, nhiều thế hệ (ông bà, cha mẹ, con cái…)
có thể cùng chung sống đầm ấm dưới một mái nhà mà người ta quen gọi là “tam
đại đồng đường”, “tứ đại đồng đường”, “ngũ đại đồng đường”. Sức mạnh gia
tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong họ có trách
nhiệm cưu mang nhau về mặt vật chất: Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì; hỗ trợ
nhau về trí tuệ, tinh thần: Nó lú nhưng chú nó khôn; và dìu dắt nhau, làm chỗ
dựa cho nhau về chính trị: Một người làm quan, cả họ được nhờ…


×