Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận triếT đã sửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.09 KB, 18 trang )

Trường đại học ngoại thương

Trường đại học ngoại thương
Khoa lí luận chính trị

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:

Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến và vận
dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo vệ môi trường sinh thái

Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Kiều trinh
Mã sinh viên: 1512210240
Lớp Anh2/ Khối 1/ Khoa quản trị kinh doanh/ Khóa 54
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Đoàn Văn Khái

Hà Nội , tháng 02/2016
Tiểu luận triết học

Page 1


Trường đại học ngoại thương

Mục lục
Phần mở đầu

Trang
03


Phần 1: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến

05

1. Phép biện chứng

05

2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
2.1 Nội dung nguyên lí
2.2 Ý nghĩa phương pháp luận

06
07

Phần 2: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở
Việt Nam
1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi
trường

08

2. Thực trạng về môi trường ở Việt Nam do tác động của tăng
trưởng kinh tế

10

3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường

14


4. Một số giải pháp

15

Phần kết luận

17

Tài liệu tham khảo

18

Tiểu luận triết học

Page 2


Trường đại học ngoại thương

Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm vừa qua, kinh tế Việt Nam đã không ngừng tăng trưởng. Từ
một nước nông nghiệp còn nhiều khó khăn và thiếu thốn, nước ta đã tiến hành
công nghiệp hóa-hiện đại hóa, gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, bắt kịp với tiến
trình toàn cầu hóa và đã đạt nhiều thành tựu. Kinh tế phát triển làm cho mức sống
của người dân được nâng cao, tuy nhiên, song song với quá trình đó lại là một vấn
đề khá nhức nhối hiện nay là bảo vệ môi trường. Cụm từ “ô nhiễm môi trường” đã
không còn xa lạ gì đối với mỗi người dân Việt Nam bởi chúng ta đang phải sống
trong bầu không khí không còn trong lành như xưa, sử dụng nguồn nước bẩn, canh

tác trên những mảnh đất đang bị ô nhiễm,… Liệu kinh tế phát triển có thực sự giúp
con người sống tốt hơn?
Tăng trưởng kinh tế và vấn đề môi trường có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Môi trường của chúng ta đang bị suy thoái nặng nề do chính tác động của con
người trong đó có sự tăng trưởng kinh tế. Cũng như các nước đang phát triển khác,
để có những kết quả tích cực về kinh tế trong trước mắt thì chúng ta phải đánh đổi
nguồn tài nguyên thiên nhiên và một môi trường ‘xanh’. Và điều này đã gây ra
nhiều hệ lụy cho con người và xã hội mà chịu tác động trực tiếp chính là sức khỏe
của mỗi công dân Việt Nam.
Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề , em đã chọn đề tài : Phép biện chứng về
mối liên hệ phổ biến và vận dụng phân tích mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong tiểu luận này em xin trình bày một số quan điểm về vấn đề ô nhiễm môi
trường do tác động của quá trình phát triển kinh tế và đưa ra một số giải pháp để
cải thiện tình trạng trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này nhằm mục đích nhắc lại những cơ sở lí thuyết về phép biện chứng
cũng như mối liên hệ phổ biến và chỉ ra những nhận thức chủ quan về vấn đề ô
nhiễm môi trường. Từ đó gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh mỗi con người về sự suy
thoái trầm trọng của môi trường sống mà một trong những nguyên nhân chính là hệ
lụy của sự phát triển kinh tế. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn về mối liên hệ
trên sẽ giúp nâng cao ý thức của mọi người để cùng nhau chung tay đẩy lùi những
Tiểu luận triết học

Page 3


Trường đại học ngoại thương
hậu quả không đáng có, giúp cải thiện môi trường mà không kìm hãm tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Đề tài cũng nêu một số phương pháp giải quyết nhằm xây dựng một

nước Việt Nam phát triển trong tương lai mà không ảnh hưởng nhiều đến môi
trường.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài cần nêu lên được những vấn đề triết học cơ bản về phép biện chứng,
nguyên lí liên hệ phổ biến. Từ đó áp dụng lí thuyết để phân tích mối liên hệ giữa
tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Đồng thời nêu rõ thực trạng
môi trường suy thoái của nước ta hiện nay và đề xuất một số biện pháp cải thiện.
4. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế của Việt Nam và vấn đề môi trường sẽ là những vấn đề nghiên
cứu chính của đề tài này. Đề tài cũng sử dụng những lí thuyết về triết học để vận
dụng giải thích những khái niệm và mối liên hệ cùng những số liệu về kinh tế và
môi trường để nêu thực trạng và đề xuất hướng giải pháp.
5. Kết cấu của tiểu luận
Bài tiểu luận được chia làm 2 phần
Phần 1: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến. Phần này sẽ nêu lên cơ sở lí
thuyết về khái niệm và nguồn gốc của phép biện chứng cùng nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến. Trong đó nêu rõ khái niệm, tính chất và ý nghĩa phương pháp luận của
nguyên lí.
Phần 2: Phân tích mối liên hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường
ở Việt Nam. Chúng ta sẽ thấy rõ sự liên quan mật thiết giữa 2 vấn đề này. Đồng
thời phần này sẽ chỉ ra mức độ ô nhiễm nặng nề của môi trường trong từng lĩnh
vực cụ thể. Cuối cùng sẽ chỉ ra một số phương pháp cải thiện môi trường ở nước
ta.

Tiểu luận triết học

Page 4


Trường đại học ngoại thương


Phần 1. Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến
1. Phép biện chứng
Theo chủ nghĩa Mac-Lenin, biện chứng là khái niệm chỉ những mối liên hệ,
tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo qui luật của các sự vật, hiện
tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới
thành hệ thống các nguyên lí, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các
nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Như vậy, phép biện
chứng thuộc về biện chứng chủ quan đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình.
Vài nét ra đời của phép biện chứng
Triết học ra đời từ thời cổ đại đánh dấu sự ra đời của phép biện chứng. Trải qua
hàng ngàn năm tồn tại và phát triển có phồn vinh có suy vong. Khởi đầu là phép
biện chứng tự phát cổ đại, thể hiện rõ nét trong thuyết “âm - dương” của Trung
Quốc, đăc biệt là trong nhiều học thuyết của Hi Lạp cổ đại. Đến khoảng thế kỷ 17
nửa đầu thế kỷ 18, phương pháp siêu hình thống trị trong tư duy triết học mà đại
diện là Đêcactơ – ông được coi là linh hồn của phương pháp siêu hình. Trong
khoảng nửa sau thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 đây là thời kỳ tổng kết các lịch sử triết học
nhân loại và hình thành hệ thống lớn đó là phương pháp biện chứng duy tâm mà
đại diện là Hêgen ông được coi là tiền đề của phương pháp biện chứng duy vật sau
này. Ngày nay phép biện chứng đã đạt đến trình độ cao nhất đó là phép biện chứng
duy vât. Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những phạm trù,
những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực phù hợp với hiện
thực. Cho nên nó phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Nhờ vậy nó đã khắc phục được những hạn chế vốn có của
phép biện chứng tự phát cổ đại cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống nhất, giữa
các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm nhập vào nhau, tác động và chịu
ảnh hưởng lẫn nhau, thế giới và các bộ phận cấu thành thế giới ấy không ngừng
vận động và phát triển. Tuy nhiên sự hạn chế của phương pháp biện chứng này là
Tiểu luận triết học


Page 5


Trường đại học ngoại thương
tuy nó cho chúng ta thấy một bức tranh về sự tác động qua lại, sự vận động và
phát triển nhưng chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật nội
tại của sự vận động và phát triển. Hơn nữa phép biện chứng duy vật còn sửa được
sai lầm của phép biện chứng duy tâm khách quan thời cổ đại mà đại biểu là Hêgen
- đại diện lỗi lạc của phép biện chứng. Hêgen cho rằng sự phát triển biện chứng
của thế giới bên ngoài chỉ là sự sao chép lại sự tự vận động của “ý niệm tuyệt đối
”mà thôi. Phép biện chứng duy vật đã chứng minh rằng : những ý niệm trong đầu
óc của chúng ta chẳng qua là sự phản ánh của các sự vật hiện thực khách quan, do
đó bản thân biện chứng của ý niệm chỉ đơn thuần là sự phản ánh có ý thức của sự
vận động biện chứng của thế giới hiện thực khách quan.Như vậy phép biện chứng
duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và sự phát triển
chung nhất của thế giới. Vì vậy P.Ăngen đã định nghĩa: “phép biện chứng…là môn
khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự
nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.”
2. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
a) Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
Mối liên hệ chỉ sự qui định, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật,
hiện tượng , hay giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ phổ biến chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ của các sự vật, hiện
tượng của thế giới, đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự
vật, hiện tượng của thế giới.
b) Nội dung nguyên lí mối liên hệ phổ biến
Phép biện chứng duy vật có vai trò làm sáng tỏ những quy luật của sự liên hệ và
phát triển của tự nhiên, xã hội loài người và của tư duy. Vì vậy ở bất kỳ cấp độ phát
triển nào của phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vẫn được

xem là một trong những nguyên lí có ý nghĩa khái quát nhất. Nguyên lí về mối liên
hệ phổ biến cho rằng các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó
vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn
nhau.Trong đó liên hệ là sự tác động qua lại lẫn nhau, là điều kiện tiền đề tồn tại
cho nhau, là sự quy định lẫn nhau, là sự nương tựa lẫn nhau, sự chuyển hoá lẫn
nhau của các mặt, các yéu tố, các thuộc tính cấu thành sự vật, hiện tượng trong thế
giới khách quan. Ngoài ra những người theo quan điểm duy vật biện chứng còn
khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng chính là tính
thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật, các hiện tượng
trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng
chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất.
Tiểu luận triết học

Page 6


Trường đại học ngoại thương
Các mối liên hệ diễn ra trong mỗi sự vật, giữa các sự vật với nhau, trong toàn bộ
vũ trụ, trong mọi không gian và thời gian. Quan điểm duy vật biện chứng không
chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật, các
hiện tượng, các quá trình mà nó còc nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại đó.
Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát
triển của chính các sự vật và hiện tượng quy định. Có mối liên hệ bên trong là mối
liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc
tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại,
vận động và phát triển của sự vật. Có mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các
sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có nghĩa quyết định, hơn
nữa nó thường phải thông qua các mối liên hệ bên trong mà phát huy. Tuy nhiên
mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi còn giữ vai trò quyết định.
Ngoài ra còn có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu, có mối liên hệ chung

bao quát toàn bộ thế giới, có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh
vực riêng biệt của thế giới. Có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà
trong đó sự tác động qua lại được thực hiện thông qua một hay một số khâu trung
gian. Có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ không bản chất, có mối liên hệ tất yếu
và mối liên hệ ngẫu nhiên. Có mối liên hệ giữa các sự sự vật khác nhau, có mối
liên hệ khác nhau của cùng một sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động và
phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ
với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình
tương ứng. Quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính
tương đối trong sự phân loại đó. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá cho
nhau. Sự chuyển hoá đó có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem
xét hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật hiện tượng ấy.
c) Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến
Ý nghĩa phương pháp luận về mối liên hệ phổ biến dựa vào tính chất của các
mối liên hệ.
Từ tính khách quan và phổ biến của các mối liên hệ đã cho thấy hoạt động nhận
thức và thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện.Nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến xét dưới góc độ thế giới quan thì nó phản ánh tính thống nhất của vật chất và
thế giới. Các sinh vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau như thế
nào chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới duy
nhất đó là thế giới vật chất. Xét dưới góc độ nhận thức lí luận, nó là cơ sơ lí luận
của quan điểm toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong
việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có nhận thức
đúng về sự vật chúng ta cần xem xét nó: một là : trong mối liên hệ qua lại giữa các
bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó, hai là :
Tiểu luận triết học

Page 7



Trường đại học ngoại thương
trong mối liên hệ qua lại giữa các sự vật đó với các sự vật khác, kể cả trực tiếp lẫn
gián tiếp. Hơn thế nữa quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức đúng sự vật,
chúng ta cần xem xét nó trong mối quan hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
Tính đa dạng phong phú của mối quan hệ đã cho thấy trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn cũng cần quan điểm lịch sử-cụ thể. Mọi sự vật, hiện tượng đều
nằm trong không gia, thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gia, thời gian
đó. Vì vậy, quan điểm lịch sử-cụ thể yêu cầu trong việc nhận thức và xử lí tình
huống trong hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính chất đặc thù của đối
tượng nhận thức và tình huống phải giải quyết khác nhau trong thực tiễn. Trong
nhận thức và thực tiễn, không những cần tránh những quan điểm phiến diện, siêu
hình mà còn phải tránh và khắc phục quan điểm chiết trung, ngụy biện.

Phần 2: Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế
và bảo vệ môi trường ở Việt Nam
1. Mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình
quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế là
tiền đề để giảm bớt đối nghèo, khắc phục lạc hậu, làm mức thu nhập của dân cư
tăng, phúc lợi xã hội và chất lượng cuộc sống của cộng đồng được cải thiện. Đồng
thời tăng trưởng kinh tế cũng tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp… Các nhân tố ản hưởng đến tăng trưởng kinh tế gồm vốn (của cải vật chất
được sử dụng vào quá trình sản xuất), con người, khoa học công nghệ và tài
nghuyên thiên nhiên.
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người và có ảnh hưởng tới đời sống, sức sản
xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và tự nhiên. Như vậy, bảo vệ môi trường
là hành động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, đảm
bảo cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do tác động của con

người.
Thoạt tiên, tưởng như hai vấn đề này không liên quan đến nhau nhưng chúng lại
có quan hệ biện chứng chặt chẽ. Như chúng ta đã biết môi trường sống được sinh
ra và tồn tại trong tự nhiên, vì vậy có thể nói nó tồn tại một cách khách quan độc
lập với ý thức con người. Tuy nhiên sự phát triển của môi trường lại hoàn toàn phụ
Tiểu luận triết học

Page 8


Trường đại học ngoại thương
thuộc vào ý thức của con người, con người có thể tác động làm cho môi trường tốt
lên hoặc xấu đi. Tăng trưởng kinh tế lại được sinh ra, tồn tại và phát triển hoàn
toàn phụ thuộc vào con người nên nó tồn tại chủ quan. Môi trường chịu tác động
trực tiếp của con người, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào con người từ đó ta có
thể thấy môi trường cũng chịu tác động của tăng trưởng kinh tế và ngược lại, mối
quan hệ giữa chúng được thông qua một thực thể đó là con người.Sau đây chúng ta
sẽ mối quan hệ tác động qua lại giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường.
a) Tác động của tăng trưởng kinh tế đến môi trường
*Tích cực
Một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chính là
khoa học công nghệ. Trong quá trình phát triển, tất yếu khoa học công nghệ sẽ
được đầu tư chú trọng và vì thế mà vấn đề cải tạo môi trường, tìm các nguồn năng
lượng mới sẽ gặp nhiều thuận lợi.
Tăng trưởng kinh tế cao đòi hỏi giáo dục cũng phải tăng do đó năng cao
nhận thức của con người về môi trường.
Tăng trưởng kinh tế làm gia tăng vốn cho cấc hoạt động bảo vệ môi trường
như đầu tư cho vấn đề nghiên cứu, xây dựng các hệ thống xử lí rác thải, bảo tồn
các loại động thực vật quý hiếm.
*Tiêu cực

Tài nguyên thiên nhiên cũng là một nhân tố trong phát triển kinh tế, tuy
nhiên tình trạng khai thác quá mức tài nguyên hiện nay thật đáng báo động. Tài
nguyên nước ta hiện chưa được khai thác hợp lí dẫn đến việc cạn kiệt, suy thoái tài
nguyên đồng thời gây ra việc mất cân bằng sinh thái và giảm đa dạng sinh học.
Với tiến độ của quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước thì các nhà
máy, xí nghiệp, xưởng sản xuất ngày càng nhiều. Và chất thải, nước thải công
nghiệp từ các nơi này lại đổ trực tiếp không qua xử lí vào nguồn nước( sông, hồ,
biển,…) dẫn đến ô nhiễm môi trường nước. Ngoài ra khí thải từ các nhà máy làm
môi trường không khí bị ô nhiễm nặng nề.
Sự đòi hỏi phải tăng năng suất trong nông nghiệp dẫn đến việc người nông
dân lạm dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu,… làm ô nhiễm môi trường đất.
Khi đời sống người dân được nâng cao thì nhu cầu về du lịch và giải trí cũng
tăng, không tránh khỏi việc đồng ruộng bị phá bỏ để xây các khu du lịch. Người
dân cũng sở hữu phương tiện giao thông hiện đại như xe máy, ô tô nhiều hơn làm
gia tăng lượng khí thải vào môi trường. Không những thế mà tiếng ồn gia tăng góp
phần làm ô nhiễm môi trường.
Tiểu luận triết học

Page 9


Trường đại học ngoại thương
Tăng trưởng kinh tế làm nhanh quá trình đô thị hóa dẫn đến việc phân bố dân
cư không hợp lí giữa thành thị và nông thôn nên sức ép môi trường ở khu vực đông
dân cũng rất lớn.
b) Tác động của môi trường đến tăng trưởng kinh tế
*Tích cực
Môi trường cung cấp tài nguyên thiên nhiên cho quá trình sản xuất, góp
phần tạo ra nguồn lực kinh tế không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế.
Môi trường chính là mặt bằng của quá trình sản xuất, tạo không gian cho các

hoạt động công nghiệp, nông nghiệp được diễn ra.
Môi trường cũng bao gồm các cảnh quanh thiên nhiên – là một nhân tố quan
trọng trong ngành du lịch.
Thời tiết ổn định cũng là một nhân tố quan trọng trong quá trình sản xuất.
*Tiêu cực
Khí hậu nước ta thất thường gây khó khăn trong nông nghiệp. Nhiều khi có
nhiều thiên tai như bão, lũ, hạn hán không tránh khỏi người nông dân mất mùa.
Chính nhân tố này đã kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế phần nào.
Môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe
người dân. Và một khi sức khỏe người lao động không được đảm bảo thì năng suất
lao động cũng sẽ giảm.
Như vậy môi trường thúc đẩy việc phát triển kinh tế theo nhiều phương diện
nhưng đồng thời cũng kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
Từ những tác động trên ta thấy được sự gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế
với vấn đề môi trường. Đây là hai mặt khăng khít, khó có thể tách rời nhau trong
tình hình kinh tế như hiện nay.
2. Thực trạng môi trường ở Việt Nam hiện nay do tác động của tăng
trưởng kinh tế
Không quá vô lí khi nói rằng môi trường đang dần bị hủy hoại bởi các chính
sách tăng trưởng kinh tế về tất cả các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, du
lịch biển và gia tăng mức tiêu thụ. Những phát triển kinh tế làm ô nhiễm môi
trường đất, môi trường nước, môi trường không khí,… và quả thực đây là một vấn
đề đáng lo ngại. Sau đây chúng ta sẽ đi phân tích tình hình môi trường cụ thể trong
tác động của từng ngành kinh tế.
a) Trong công nghiệp
Tiểu luận triết học

Page 10



Trường đại học ngoại thương
Thực hiện nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, kể từ năm 1986, Việt
Nam bước vào công cuộc đổi mới. Công cuộc đổi mới này được tiến hành trên
toàn diện, trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội như đổi mới tư duy, hệ
thống kinh tế, chính sách, thể chế quản lí hành chính… Trong lĩnh vực kinh tế, Việt
Nam chuyển từ nền kinh tế chỉ huy, tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Trong gần hai thập kỷ qua thực hiện chủ
trương và đường lối đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu to
lớn. Chính sách đổi mới đã mang lại những thay đổi, tạo ra một nền kinh tế năng
động, một xã hội văn minh, công bằng và dân chủ. Tổng sản phẩm quốc nội
( GDP) tăng trung bình hơn 7%/năm. Đặc biệt trong công nghiệp, tăng trưởng
công nghiệp từ xuất phát điểm chỉ có 0,6% năm 1980 tăng lên đến 6,07% năm
1990 và giai đoạn 1991-2000 tăng lên trung bình 12,9%/năm, trong đó thời kỳ
1991-1995 có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 17%/năm. Tỷ trọng công nghiệp đã
có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hoá, từ mức 22,7% GDP năm
1991 tăng lên 36,6% năm 2000. Sự phát triển của quá trình công nghiệp hoá trong
những năm qua một mặt là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo công ăn việc
làm cho người dân nhưng mặt khác nó đã ít nhiều bộc lộ những mặt trái của nó mà
nếu không có biện pháp bảo vệ cụ thể thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ phải
gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng do chính chúng ta gây ra.
Theo ước tính hiện nay nước ta có khoảng trên 60.000 công ty và doanh nghiệp tư
nhân, hơn 4.500 hợp tác xã phi nông nghiệp và trên 2 triệu hộ kinh doanh cá thể.
Cùng với sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp và cơ sở kinh doanh đó, hiện
nay trên cả nước tổng lượng chất thải rắn ước tính khoảng 49. 000 tấn/ngày, trong
đó chất thải rắn công nghiệp chiếm khoảng 27.000tấn/ngày. Việc quản lý chặt chẽ
chất thải rắn nguy hại đang gặp nhiều khó khăn, không có đủ kho chứa đủ tiêu
chuẩn để lưu giữ các chất thải độc hại trước khi xử lí, không có nhà máy xử lí chất
thải độc. Phần lớn chất thải rắn nguy hại này thuần tuý chỉ được chôn chung lẫn
lộn với rác thải sinh hoạt hay thậm chí đổ ngay tại nhà máy gây mối nguy hại rất

lớn đối với môi trường sống.
Ngoài ra, trong quá trình sản xuất, kinh doanh, các cơ sở doanh nghiệp thường thải
ra một lượng nươc thải khá lớn. Đặc biệt là khoảng hơn 90% cơ sở sản xuất cũ
chưa có thiết bị xử lí nước thải. Phần lớn các nhà máy xí nghiệp nếu có tiíen hành
xử lí thì chỉ xử lí sơ bộ rồi thải thẳng ra nghuồn nước mặt, gây ô nhiễm trầm trọng
đối với nhiều dòng sông. Trong nhiều trường hợp, nuớc thải ứ đọng lâu ngày còn
gây ô nhiễm không khí, mất mỹ quan, lan truyền bệnh dịch và nhiều tác động tiêu
cưc khác. Nước thải công nghiệp chính là một trong những nguyên nhân gây ô
nhiễm cho môi trường đô thị
Tiểu luận triết học

Page 11


Trường đại học ngoại thương
Khí thải của các cơ sở doanh nghiệp sản xuất cũng là vấn đề cần bàn tới. Ô nhiễm
môi trường không khí chủ yếu do các ngành nhiệt điện, công ngiệp hoá chất gây
nên. Ví dụ nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nồng độ bụi trung bình tại các điểm đo đều
vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1 đến 6 lần. Tại nhà máy nhiệt điện Uông Bí, nồng độ
bụi đo trong 1 giờ từ 4 đến 4,7 mg/m3, gấp 13 đến 16 lần trị số cho phép. Nồng độ
các chất khí độc hại khác như CO2, NO2, SO2… trong không khí xung quanh nhiều
nhà máy và khu công nghiệp đều vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 đến 2,5 lần. Điều
này đã gây tác động xấu đối với mùa màng và sức khoẻ của nhân dân của cả một
vùng rộng lớn xung quanh các khu vực nhà máy. Tuy trong thời gian qua, phần lớn
các nhà máy đã trang bị thiết bị xử lí bụi nhưng số lượng các nhà máy có thiết bị
xử lí khí độc hại cón rất ít mà chủ yếu được thải thẳng ra ngoài không khí, ảnh
hưởng trực tiếp đến sưc khoẻ con người.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng phát triển thì nhu cầu khai thác các
thành phần môi trường để làm nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất ngày
càng tăng. Quá trình này thể hiện mối liên hệ cơ bản giữa phát triển và môi trường

đồng thời cũng là một vấn đề nan giải. Việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên là
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự hao kiệt về tài nguyên, mất cân bằng sinh thái và
suy giảm chất lượng môi trường. Nạn khai thác gỗ trái phép gây ra sự suy nghiêm
trọng độ che phủ của rừng. Nếu như năm 1945 độ che phủ nước ta đạt 43% thì tính
đến tháng 12 năm 2000 độ che phủ rừng chỉ còn 29, 8% và đang ngày càng bị thu
hẹp.
b) Trong nông nghiệp
Nước ta là một nước có nền kinh tế xuất phát điểm là nông nghiệp và cho đến nay,
hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào tài nguyên, nông sản và
hàng sơ chế. Kim ngạch xuất khẩu khoáng sản và hàng hoá nông lâm, thuỷ hải sản
chiếm tới 63% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nước ta đang trên đà hội
nhập kinh tế quốc tế, quá trình này hứa hẹn nhiều cơ hội cho Việt Nam đẩy mạnh
sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu to lớn của thị trường quốc tế.Tuy nhiên đi đôi với
sự gia tăng này của các hoạt động sản xuất là khả năng gây ô nhiễm và huỷ hoại
môi trường ngày càng lớn. Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng từ nguồn tài nguyên
không tái tạo được và việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên có thể tái tạo
nhằm phục vụ xuất khẩu có thể làm cạn kiệt nguồn tài nguyên của nước ta trong
tương lai. Mặt khác, các ngành nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cũng có nhiều cơ
hội để thâm canh, gia tăng sản lượng dẫn đến việc phá huỷ tái nguyên thiên nhiên
do khai thác, trồng trọt và chăn nuôi không hợp lí. Để tăng sản lượng các loại rau,
củ, quả… người nông dân thường phun các loại chất kích thích, phân bón, thuốc
trừ sâu… Trình độ nhận thức và chuyên môn của người dân còn thấp, thêm vào đó
đội ngũ cán bộ nông nghiệp còn chưa nhiều vì vậy người nông dân chưa ý thức
Tiểu luận triết học

Page 12


Trường đại học ngoại thương
được hành động của họ sẽ dẫn đến hậu quả gì. Việc sử dụng các loại hoá chất và

sau đó vứt ngay các loại vỏ, bao đựng trên ruộng trước tiên gây ô nhiễm nguồn
nước sau là gây nguy hiểm cho những người sử dụng các loại rau, củ, quả đó. Thực
tế là trong năm 2002, ở miền Bắc, giá nhãn và vải đã mất giá nghiêm trọng do
Trung Quốc không nhập khẩu vì hàng chưa đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng… Sử
dụng hoá chất không được phép trước tiên là gây ô nhiễm nguồn nước, không tiêu
thụ được hàng hoá, sau cùng là gây ra thoái hoá đất- một sự mất mát lớn. Môi
trường nông thôn cũng đang kêu cứu.
c) Trong du lịch biển
Trước tình hình tăng trưởng kinh tế, các phương tiện thông tin, giao thông vận tải
ngày càng dễ dàng và thuận tiện. Đây là điều kiện để hoạt động du lịch phát triển
trở nên nhanh chóng. Ngành du lịch nước ta hãy còn rấy nhỏ bé so với các nước
trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên trong 10 năm qua, cùng với quá trình đổi
mới và chuẩn bị hội nhập nền kinh tế thế giới du lịch nước ta cũng đã có những
bước phát triển ban đầu. Năm 2001 toàn ngành đón 2,33 triệu lượt khách quốc tế,
tăng gần 9%so với năm 2000, vượt kế hoạch 6% so với năm 2000. Du lịch phát
triển tạo nhiều công ăn việc làm cho dân cư và thu được một lượng ngoại tệ lớn
cho ngân sách quốc gia. Tuy nhiên cũng như sự phát triển trong công nghiệp và
nông nghiệp, hoạt động du lịch cũng đang tác động đến môi trường về nhiều mặt.
Do nhu cầu phát triển du lịch, nhiều diện tích đất đai bị khai phá để xây dựng cơ sở
hạ tầng như làm đường giao thông khách sạn, các công trình thể thao, các khu vui
chơi giải trí. Điều đó gây phá hoại hoặc tổn thất tới cảnh quan thiên nhiên, các hệ
sinh thái.
Hoạt động du lịch có thể gây tác động khác tới tài nguyên nước, đặc biệt là các
chất thải, các chất gây ô nhiễm do các khách sạn, nhà hàng, các hoạt động vận tải
thuỷ và khách du lịch tạo nên. Hiện nay ở nước ta, tình trạng rác thải bừa bãi tại
các điểm du lịch, vui chơi giải trí còn phổ biến, điều đó không những ảnh hưởng
tới vệ sinh công cộng và môi trường mà còn gây cảm giác khó chịu cho du khách.
Khi hoạt động du lịch nhộn nhịp lên thì đó cũng là điều đe doạ tới chất lượng
không khí. Trước hết là ô nhiễm không khí do giao thông vận tải. Du khách có thể
đi bằng đường bộ hoặc máy bay. Tuy nhiên không giống như ô tô, xe máy… ô

nhiễm do máy bay ít được nhận thấy trực tiếp. Thế nhưng đây lại là phương tiện
gây ô nhiễm trực tiếp lên tầng ôzôn.
Sự phát triển du lịch còn tạo nên mối đe doạ tới các hệ sinh thái như phá những
khu rừng ngập mặn để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm mất hoặc chia cắt nơi cư trú
của các loài sinh vật, khai thác bừa bãi các tài nguyên rừng, biển để sản xuất các
sản phẩm phục vụ khách du lịch như tiêu bản các loại thú rừng, hoa lan rừng, tắc
kè, đồi mồi, san hô… tại nhiều điểm du lịch của nước ta.Ngoài ra việc khai thác
Tiểu luận triết học

Page 13


Trường đại học ngoại thương
hải sản biển cũng đang ở mức báo động. Đánh cá ven bờ giảm một cách đáng kể và
số thuyền đánh cá đã tăng lên một cách nhanh chóng do có sự khuyến khích của
chính phủ. Việc khai thác dầu không hợp lí cũng là một trong những nguyên nhân
gây ô nhiễm biển.
d) Gia tăng mức tiêu thụ
Việt Nam là một nước đang phát triển về kinh tế, kinh tế phát triển kéo theo thu
nhập cũng tăng lên. Đời sống người dân càng được nâng cao thì nhu cầu về các
phương tiện trong cuộc sống cũng đòi hỏi cao hơn, nhu cầu của con người bây giờ
không còn là ăn no, mặc ấm nữa mà đã tiến đến một bước cao hơn dó là nhu cầu ăn
ngon, mặc đẹp. Với mức dân số như hiện nay là 80 triệu người và ước tính đến
năm 2042 sẽ có khoảng 155 triệu người, tất cả sống trong một đất nước có diện
tích chỉ bằng ½ nước Pháp. Vấn đề sẽ trở nên khó khăn hơn với 55% dân số dưới
25 tuổi, tức là sẽ có một sự bùng nổ về dân số khi những người trẻ tuổi này bước
vào tuổi sinh nở. Dân số đông, kinh tế phát triển, nhu cầu đi lại cũng tăng, hàng
ngày lượng khí thải từ các phương tiện giao thông như ô tô, xe máy… đang góp
một phần không nhỏ vào ô nhiễm không khí. Dân số đông, nguời ta lấp ao hồ để
lấy đất ở. Rừng ngày càng bị thu hẹp do nhu cầu khai thác gỗ mạnh để sản xuất ra

đồ dùng phục vụ cho con người. Các loại động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt
chủng trước tình trạng săn bắt tràn lan để làm vật chưng bày hoặc làm thịt cho các
thực khách… Hệ sinh thái đang mất đi sự cân bằng trước sự phá hoại như vũ bão
của con người.
3. Hậu quả của ô nhiễm môi trường
“Nếu chúng ta bắn vào thiên nhiên một phát đạn, thì thiên nhiên sẽ bắn trả lại ta
bằng đại bác ”. Thực tế cho thấy, đi kèm với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, chúng ta đang phải gánh chịu những hậu quả do chính chúng ta gây ra. Trong
vòng 7 năm trở lại đây, các thảm hoạ tự nhiên như bão xoáy, lụt lội, hạn hán…ngày
càng tăng nhanh cả về tần suất lẫn cường độ như hạn hán ở miền Trung, bão lụt ở
đồng bằng sông Cửu Long, cháy rừng ở U Minh… đã cướp đi sinh mạng của nhiều
người, thâm hụt vào ngân sách quốc gia hàng trăm tỷ đồng - một con số không nhỏ
đối với một quốc gia còn nghèo như Việt Nam. Ngoài ra, đi đôi với sự suy giảm
môi trường, các bệnh về thời tiết cũng gia tăng, thiệt hại người do các bệnh về
đường nước tăng như sốt rét, tiêu chảy... Các bệnh liên quan đến đường ruột bệnh
giun, bệnh sán máng, giun trong máu… các bệnh về hô hấp như viêm phổi, ung
thư phổi… Cuộc sống của con người đang bị đe doạ.

Tiểu luận triết học

Page 14


Trường đại học ngoại thương
Ô nhiễm môi trường là một trong những vấn đề lớn nhất chúng ta phải đối mặt
ngày hôm nay. Ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các sinh
vật khác trên trái đất, làm pha loãng độ tinh khiết của tài nguyên thiên nhiên.
Tình trạng ô nhiễm môi trường ảnh hưởng lớn đến hệ động thực vật trên trái đất.
Mưa axit là một trong những vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến các khu vực có mức
độ gây ô nhiễm. Khi mưa axit ngấm vào đất thì sẽ không thể cung cấp chất dinh

dưỡng cho cây cối. Sự hiện diện của khí ozone trong tầng khí quyển là cần thiết vì
nó ngăn tia cực tím của mặt trời. Tuy nhiên tầng khí quyển của chúng ta đang bị
thủng tầng ozone.
Ô nhiễm nước biển ảnh hưởng đến quá trình quang hợp ở thực vật thủy sinh,
làm chết các sinh vật sống dưới nước.
Ô nhiễm đất dẫn đến sự tích tụ các chất độc hại, ảnh hưởng lớn đến đời sống của
thực vật.
Nhiều căn bệnh liên quan đến đường hô hấp và vấn đề sức khỏe con người bị ảnh
hưởng do ô nhiễm môi trường đang trở nên trầm trọng. Xét tổng thể, ô nhiễm môi
trường gây ra nhiều tác hại ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của con người trên
trái đất cũng như toàn bộ hệ sinh thái.
4. Giải pháp giải quyết vấn đề
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đang tăng cường quan hệ
thương mại song phương với các nước trên thế giới và tiến hành thủ tục đàm phán
để gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới(WTO), tham gia tích cực vào các định
chế kinh tế khu vực như ASEAN, APEC, ASEM… và đặc biệt là hiệp định thương
mại Việt -Mỹ. Để hàng Việt Nam có chỗ đứng và khả năng cạnh tranh với các nước
khác chúng ta cần:
_ Tăng cường kiểm tra, giám sát sự tuân thủ về pháp luật của các cơ sở công
nghiệp
_ Khuyến khích sử dụng công nghệ và dây chuyền sản xuất tiết kiệm năng lượng,
nguyên liệu, phát triển nguồn năng lượng sạch, ít khí thải.
_ Bắt buộc các nhà máy mối đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng và vận
hành hệ thống xử lí nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường.
_ Lập quy hoạch môi trường song song với việc quy hoạch và phát triển công
nghiệp.
_ Đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống tiêu thoát nước, xử lí nước thải công nghiệp trước
khi thải ra môi trường.
_ Tổ chức và quản lý kịp thời đúng quy cách các loại chất thải rắn công nghiệp,
chất thải y tế và các loại chất thải khác.

Tiểu luận triết học

Page 15


Trường đại học ngoại thương
_ Thực hiện chủ chương xanh hoá đô thị và khu công nghiệp, xây dựng hành lang
xanh và vùng chuyển tiếp giữa khu công nghiệp và khu dân cư.
_ Tăng cường vai trò của nhà nước trong khâu thẩm định, kiểm tra các mặt hàng
nhập khẩu vào nước ta như máy móc, thiết bị vật tư, nguyên vật liệu, các giống
mới…
_ Cần bảo vệ, tôn tạo, khai thác và sử dụng tài nguyên hợp lí, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
_ Các sản phẩm về nông nghiệp cần hạn chế các loại thuốc gây hại cho người sử
dụng cũng như cho đất trồng.
_ Có chính sách ưu đãi đối với các sản phẩm có nhãn sinh thái
Ngoài ra để đảm bảo sự phát triển bền vững nhà nước củachúng ta cần:
_Có chính sách ưu đãi đối với những hộ nhận khoán rừng
_Có hình phạt nặng hơn nữa đối với những kẻ chặt phá rừng trái phép
_Thành lập các khu bảo tồn động, thực vật
_Khai thác gỗ hợp lí
_Cán bộ kiểm lâm có chức vụ và quyền hạn cao hơn nữa để công tác kiểm lâm
được chặt chẽ hơn, ngoài ra cán bộ kiểm lâm cần có những chính sách ưu đãi hơn
_Khai thác dầu hợp lí
_Bảo vệ nguồn sinh vật biển, đặc biệt là những loại quý hiếm
_Nâng cao ý thức của người dân trong việc bảo vệ môi trường
Trên những ảnh hưởng của phát triển kinh tế và từ đặc điểm của lĩnh vực sản
xuất, các ngành đã đề ra một số giải pháp công nghệ nhằm hạn chế ô nhiễm môi
trường tại các cơ sở sản xuất điển hình. Chủ yếu là đề ra các biện pháp xử lí bụi
bằng hệ thống lọc bụi, xử lí chất thải, nước thải của các nhà máy. Phát triển kinh tế

đòi hỏi phải tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, điều đó lại làm tăng lượng
thải ô nhiễm vào môi trường, vì vậy, các xí nghiệp, nhà máy cần xử lí chất thải hợp
lí để vừa tăng trưởng vừa bảo vệ môi trường.
Trên đây là những giải pháp cơ bản để hạn chế tác động tiêu cực của hoạt
động sản xuất đến môi trường, Tuy nhiên vấn đề bảo vệ môi trường cần sự chung
tay góp sức của mỗi cá nhân cũng như toàn xã hội. Chúng ta hãy nâng cao ý thức
và trách nhiệm với môi trường đang sống!

Tiểu luận triết học

Page 16


Trường đại học ngoại thương

Phần kết luận
Việt Nam đang ngày càng bước vào thời kì hội nhập với nền kinh tế thế giới,
thực hiện kế hoạch công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Chính vì thế mà kinh tế Việt
Nam đang ngày càng phát triển sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nhưng như đã phân tích ở trên, kinh tế phát triển kéo theo nhiều hệ lụy trong đó có
vấn đề nhức nhối là ô nhiễm môi trường. Vì giữa tăng trưởng kinh tế và vấn đề môi
trường có mối liên hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Ô nhiễm môi trường
là vấn đề nhức nhối và cấp bách vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của chính
mỗi người dân. Vì thế đây là vấn đề cần được xã hội quan tâm hàng đầu trong công
cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế, đòi hỏi sự chung tay góp sức của mỗi
cá nhân đề bảo vệ môi trường.
Bài tiểu luận đã nêu lên những khái niệm cơ bản về mối liên hệ phổ biến dựa
trên kiến thức triết học, phân tích mối liên hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế
và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Qua bài tiểu luận, chúng ta cũng thấy rõ thực
trạng ô nhiễm nặng nề của môi trường trong các lĩnh vực sản xuất như công

nghiệp, nông nghiệp, du lịch,… Một số phương pháp giải quyết vấn đề cũng được
đưa ra nhằm hạn chế hoạt động sản xuất tăng trưởng kinh tế làm ảnh hưởng xấu
đến môi trường.
Trên đây chỉ là những nhận định sơ bộ về vấn đề mối liên hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Sẽ rất cần thiết nếu tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn về mối liên hệ biện chứng đồng thời tìm ra những phương án
giải quyết hợp lí để đảm bảo vừa tăng trưởng kinh tế,vừa không gây hại đến môi
trường. Hi vọng nước Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mà mỗi người dân chúng
ta vẫn được sống trong môi trường trong sạch.
Bài tiểu luận còn khá nhiều thiếu sót, em mong thầy chỉnh sửa giúp em để
bài hoàn thiện hơn. Em xin cân thành cảm ơn!

Tiểu luận triết học

Page 17


Trường đại học ngoại thương

Tài liệu tham khảo
_Giáo trình những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin
_G.s Lê Quý An, Du lịch và môi trường, Tạp chí Du lịch, số 12, 1999.
_Nguyễn Anh, Hội thảo khoa học về môi trường chuyên ngành mỏ, luyện kim, hoá
chất, Tạp chí Công nghiệp, số 19, 1999.
_Lê Minh Đức, Bảo vệ môi trường và vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam, Con
số và sự kiện, số 12, 1999.
_Th.s Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Đặng Thị Thu Hoài, Hội nhập kinh tế thế giới với
bảo vệ môi trường ở Việt Nam, Tạp chí Chuyên đề môi trường kinh tế, 2001.
_Nhiều tác giả, Bảo vệ môi trường trên quan điểm phát triển bền vững, Tạp chí
Bảo vệ môi trường, số 6, 2002.

_Nhiều tác giả, Định hướng nhà nước và hiện trạng môi trường ở Việt Nam, Tạp
chí Công nghiệp, số 18, 2000.

Tiểu luận triết học

Page 18



×