Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Phương pháp giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung đại việt nam lớp 7 thông qua đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128 KB, 20 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN

TRƯỜNG THCS BA ĐÌNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY CÁC TÁC PHẨM
THƠ TRỮ TÌNH TRUNG ĐẠI VIỆT NAM LỚP 7
THÔNG QUA ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Người thực hiện: Mai Thị Hồng Minh
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Ba Đình
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

BỈM SƠN NĂM 2018
1


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

1. Mở đầu

1

1. 1. Lí do chọn đề tài

1



1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1. Cơ sở lí luận

3

2.2. Thực trạng vấn đề

3

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

4

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


13

3. Kết luận, kiến nghị

13

3.1. Kết luận

13

3.2. Kiến nghị

13

* Tài liệu tham khảo

15

* Phụ lục

16

2


I. MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, thơ trung đại chiếm một vị trí rất quan
trọng. Bởi vì các tác phẩm văn học nói chung, thơ trung đại nói riêng là một bộ

phận gắn liền với giai đoạn lịch sử phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thơ trung đại những quá khứ vinh quang
nhưng không ít phần gian khó của dân tộc, để rồi từ đó có thể nhìn lại hiện tại một
cách thấu đáo hơn và hướng về tương lai một cách tin tưởng hơn. Đối với cấp
THCS, di sản này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục, bồi dưỡng tư
tưởng, tình cảm, đạo đức, quan điểm, lí tưởng thẩm mĩ... cho học sinh, thông qua
những thành quả nổi bật của người xưa trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật ngôn từ,
kết tinh trong các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu.
Xét về mặt nội dung và nghệ thuật, các bài thơ trữ tình trung đại có nhiều
điểm tương đồng. Các tác phẩm đều phản ánh một cách toàn diện xã hội đương
thời, thể hiện quan niệm nhận thức, tâm tư, tình cảm... của người Việt Nam một
cách sâu sắc.
Các tác phẩm thi ca Việt Nam thời kì này cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
nghệ thuật của thơ Đường, thi pháp thơ rất đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc
ở: ngôn ngữ hàm súc, nói ít gợi nhiều, ý tại ngôn ngoại, vừa có tính ước lệ, cổ
kính, trang nghiêm, vừa có tính chặt chẽ niêm luật của thể loại. Hiểu được các bài
thơ này một cách thấu đáo đã là khó, song việc giảng dạy như thế nào để học sinh
cảm thụ được còn khó khăn hơn rất nhiều. Thiết nghĩ, đó là vấn đề mà rất nhiều
giáo viên dạy môn Ngữ văn rất trăn trở.
Chương trình Ngữ văn THCS được biên soạn theo thể loại và phương thức
biểu đạt nên thơ trung đại được đưa vào chương trình Ngữ văn lớp 7. Với đối tượng
học sinh vừa chuyển lên cấp học mới được một năm, trong khi chương trình Ngữ
văn không có một bài nào giới thiệu về tiến trình lịch sử văn học, mặt khác vốn
sống, vốn hiểu biết về văn học của các em còn hạn chế thì việc tiếp nhận các tác
phẩm thơ trung đại sẽ gặp những khó khăn nhất định. Vì vậy dẫn đến hiện tượng
học sinh ngại học các tác phẩm thơ trung đại. Đây là một cản trở trong quá trình
truyền thụ cho các em học sinh vẻ đẹp của các bài thơ thuộc giai đoạn này.
Trước tình hình ấy, để khắc phục những khó khăn đó và đáp ứng được yêu
cầu giảng dạy giáo viên phải tìm hiểu kĩ chương trình, bổ sung thêm kiến thức từ
các sách nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với

học sinh để giúp các em vượt qua những khó khăn trên và dễ dàng cảm nhận được
cái hay, cái đẹp của các bài thơ trung đại.
3


Sách Ngữ văn 7 có chú trọng bồi dưỡng cho học sinh lý thuyết về thể loại và
rèn kỹ năng nhận diện thể loại của tác phẩm dù còn rất sơ lược, nhưng hơn ai hết
giáo viên phải là người nắm vững đặc trưng kết cấu của từng thể loại cụ thể cùng
đặc điểm hệ thống thi pháp của chúng (lục bát, song thất lục bát, ngâm khúc, tứ
tuyệt, bát cú, ca, cổ phong… mỗi thể loại có những yêu cầu riêng), đồng thời nắm
chắc niêm, luật, vần, đối… mà từng thể loại yêu cầu, thì mới có thể định hướng cho
học sinh nhận diện thể loại một cách dễ dàng, chỉ cho các em biết cách vận dụng
những yêu cầu đặc trưng của chúng để tập làm thơ theo từng thể loại.
Trên thực tế đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về lịch sử văn học
giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, nhưng bản thân tôi chưa thấy công trình
nào đi sâu nghiên cứu về đặc trưng thể thơ để qua đó giúp học sinh tiếp cận các tác
phẩm thơ trung đại. Các đồng nghiệp của tôi trong tổ Ngữ văn cũng luôn trăn trở
tìm tòi đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp với đặc trưng bộ môn và đối tượng
học sinh trong từng lớp, từng khóa học cụ thể, nhưng cũng chưa có đồng chí nào đi
sâu nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi
đã nghiên cứu, suy nghĩ, trăn trở để tìm ra cách tiếp cận hiệu quả nhất cho các em
học sinh khi dạy các bài thơ trung đại. Đây là một vấn đề bản thân tôi cho là rất
quan trọng trong việc dạy học bộ môn Ngữ văn nói chung, và trong chương trình
Ngữ văn lớp 7 nói riêng, đặc biệt là phần thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
Xuất phát từ những trăn trở như trên nên tôi đã nghiên cứu tìm tòi, tích lũy
để đúc rút thành sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Phương pháp giảng dạy các tác
phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 7 thông qua đặc trưng thể loại”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc tiếp cận và cảm thụ tác phẩm văn học theo đặc trưng thể loại
của thơ trữ tình trung đại Việt Nam để giảng dạy góp phần nâng cao chất lượng

giảng dạy các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
1.3.Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 7 trường THCS Ba Đình - Bỉm Sơn - Thanh Hóa
1.4.Phương pháp nghiên cứu:
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi đã vận dụng và phối hợp nhiều
phương pháp trong đó có các phương pháp cơ bản sau:
a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Phương pháp này giúp chúng ta đi tìm hiểu sâu hơn từng thể loại thơ để từ đó
chúng ta tìm ra được những phương pháp phù hợp khi giảng dạy các bài thơ trữ
tình trung đại.

4


b. Phương pháp điều tra, quan sát:
Phương pháp này giúp chúng ta tìm ra được những phương pháp phù hợp
nhất để giáo viên áp dụng vào quá trình giảng dạy cho từng bài thơ trữ tình trung
đại trong chương trình Ngữ văn 7.
c. Phương pháp tổng kết và đúc rút kinh nghiệm:
Phương pháp này giúp chúng ta tìm hiểu được thực trạng của việc dạy của
từng giáo viên, việc học ở học sinh từng lớp qua các bài thơ trữ tình trong sách giáo
khoa Ngữ văn THCS.
d. Phương pháp đàm thoại:
Phương pháp này giúp chúng ta tìm ra được phương pháp dạy phù hợp cho
từng bài thơ thông qua việc trao đổi, thảo luận với giáo viên trong tổ xã hội về vấn
đề dạy Ngữ văn nói chung và dạy thơ trữ tình trung đại 7 nói riêng.
e. Phương pháp thực nghiệm:
Phương pháp này giúp chúng ta kiểm nghiệm tính khả thi và tác dụng của
các ý kiến đóng góp về phương pháp giảng dạy thơ trữ tình trung đại để từ đó điều
chỉnh sao cho hợp lý hơn.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Việc dạy và học văn học trung đại Việt Nam nói chung và tác phẩm thơ trữ
tình trung đại Việt Nam lớp 7 nói riêng thì cho đến nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn
cho người dạy lẫn người học. Để hiểu được sâu sắc những tác phẩm đó chẳng phải
là chuyện dễ dàng gì; dạy những tác phẩm đó cho người học hiểu được cái hay, cái
đẹp của nó lại càng khó khăn gấp bội. Vấn đề có nhiều nguyên nhân, mà nguyên
nhân chủ yếu vẫn là rào cản ngôn ngữ bởi những tác phẩm ấy đều viết bằng ngôn
ngữ Hán cổ và ngôn ngữ Việt cổ có phần khó hiểu với tiếng Việt hiện đại. Thêm
vào đó là người tiếp nhận văn bản dù muốn hay không ít nhiều phải hiểu rõ môi
trường văn hóa trung đại, tư tưởng ý thức hệ tư tưởng thời trung đại, điển cố điển
tích, thể loại văn học… Chỉ bấy nhiêu thứ cũng đủ làm cho người dạy lẫn người
học đau đầu, mệt trí thì thử hỏi làm sao mà lắng lòng, mà bình tâm để cảm nhận
cho được cái hay cùng vẻ đẹp của nó qua cách biểu đạt rất kiệm lời của các bậc tiền
bối đã gởi gắm trong từng câu chữ.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Chương trình Ngữ văn 7 kì I có một số lượng tương đối lớn các văn bản thuộc
thể loại thơ trữ tình trung đại. Đó là các văn bản nghệ thuật được các nhà thơ Việt Nam
sáng tác trong thời kì phong kiến. Các tác giả thơ trữ tình trung đại phần nhiều là những
thi nhân nổi tiếng, tâm hồn nặng những nỗi đời. Làm thơ với họ là mượn cảnh, mượn
việc để kí thác tâm sự, bày tỏ nỗi lòng nhân thế...
5


Qua thực tế giảng dạy thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở trường THCS tôi
nhận thấy: Đây là thể loại văn học tương đối khó, hơn nữa các tác phẩm văn học
trung đại được tính từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX đã cách chúng ta hơn mười thế kỉ,
đến với thế hệ trẻ dưới mái trường phổ thông thế kỉ XXI đã có khoảng cách rất
xa về thời gian. Vì thế, người giảng dạy gặp khó khăn trong soạn giảng, nhiều
học sinh ít hứng thú, không tích cực trong giờ học những bài văn học cổ. Vấn đề

đặt ra là phải có những biện pháp tối ưu nhằm giúp giáo viên và học sinh đạt
hiệu quả cao trong giảng dạy và học tập thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
Chúng ta đều biết rằng văn học trung đại là bộ phận văn học đồng hành với
sự phát triển của xã hội phong kiến. Trong các tác phẩm đều viết bằng ngôn ngữ
Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại ngày nay.
Vì vậy tìm hiểu, phân tích một tác phẩm văn học Trung đại là việc làm không đơn
giản. Trong những năm vừa qua đội ngũ giáo viên dạy văn nói riêng đã được trang
bị nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đã thực sự mang lại hiệu quả tốt.
Mặc dù vậy vẫn còn những hạn chế trong cách vận dụng phương pháp từ đội ngũ.
Bản thân những người dạy văn về cơ bản đã tận tâm tận lực với nghề, tích cực
nghiên cứu tìm hiểu các kiến thức. Tuy nhiên với sự đa dạng và phức tạp của văn
học Trung đại thì hiệu quả dạy phần văn học này vẫn không tránh khỏi những hạn
chế. Các điển tích, điển cố của văn học trung đại là phức tạp và đa nghĩa. Vì vậy
đòi hỏi phải có một tư duy hết sức khoa học, hết sức sáng tạo đối với đội ngũ giáo
viên khi thực hiện phần vănhọc quan trọng này.
Thể loại, thi pháp văn học cổ có nhiều xa lạ với thi pháp văn học đương đại
nên đó là điều khó khăn cho học sinh tiếp nhận.Vốn sống kinh nghiệm thực tế học
sinh còn ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn cảnh xã hội, hiểu các điển tích, điển
cố được sử dụng trong tác phẩm văn học cổ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển
đi lên của đât nước, chúng ta có những thành tựu quan trong về lĩnh vực kinh tế.
Tuy nhiên với cơ chế nền kinh tế thị trường đã tạo ra những phức tạp và những ảnh
hưởng không lành mạnh đối với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc biệt là
đối tượng học sinh, trong đó có học sinh bậc trung học cơ sở. Một bộ phận lớn học
sinh chịu ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực của XH chi phối nên ý thức học tập
không cao, thiếu tự giác. Trong khi đó, phần văn học trung đại là phần văn học khó
nhất. Vì thế, chất lượng học sinh thuyên giảm. Ngoài ra, sự quan tâm, cách nhìn
nhận của phụ huynh học sinh là sính học các môn Khoa học tự nhiên cũng có
những ảnh hưởng không tích cực đến việc nỗ lực phấn đấu của học sinh đối với
môn Ngữ văn. Điều đó càng đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực để nâng cao
chất lượng học bộ môn ngữ văn của học sinh, trong đó có phần văn học trung đại

Việt Nam.
6


Kết quả cụ thể thi khảo sát chất lượng học kì I năm học 2016 – 2017 khi tôi
chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm : “ Phương pháp giảng dạy các tác phẩm thơ
trữ tình trung đại Việt Nam lớp 7 thông qua đặc trưng thể loại” như sau:
Lớp

Sĩ số

7B

40

Giỏi
SL
3

Khá
%
10,7

SL
19

Tb
%
53,6


SL
18

%
35,7

Đó là lí do thôi thúc tôi lựa chọn đề tài “ Phương pháp giảng dạy các tác
phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 7 thông qua đặc trưng thể loại” với mong
muốn có thể ứng dụng hiệu quả hơn trong giảng dạy để dạy tốt các bài thơ trữ
tình trung đại trong chương trình Ngữ văn 7, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
dạy, học môn ngữ văn ở trường THCS Ba Đình.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề: “ Phương pháp giảng dạy các
tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 7 thông qua đặc trưng thể loại”:
2.3.1. Hướng dẫn học sinh nắm được đặc trưng thi pháp của thơ trung đại
Văn học Trung đại Việt Nam nói chung và Thơ trữ tình trung đại nói riêng
được ra đời trong bối cảnh xã hội phong kiến phát triển. Nó phản ánh thực tế lịch
sử xã hội phong kiến từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Đặc biệt là những biến động
của xã hội và thân phận con người. Chủ đề xuyên suốt như sợi chỉ đỏ của thơ Trung
đại Việt Nam là cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo. Các tác giả thơ Trung
đại Việt Nam chủ yếu là những người có địa vị xã hội, có những ảnh hưởng quan
trọng cho sự phát triển của xã hội…Chính vì thế khi giảng dạy hoặc phân tích, bình
giảng cần phải chú ý đến các đặc điểm cơ bản sau :
* Quan niệm “Văn dĩ tải đạo” : Văn chương phải chuyên chở đạo lý.
*Tính ước lệ, tượng trưng, quy phạm: Đây là đặc điểm nổi bật của văn thơ
Trung đại. Khi sáng tác, các tác giả thường vay mượn văn thi liệu điển cố, điển tích
lấy từ sách vở thánh hiền và kinh sách của các tôn giáo. Chẳng hạn nói đến cây và
hoa thì tùng, trúc, cúc, mai, sen…bởi chúng là những biểu tượng để chỉ những
phẩm chất cốt cách, khí tiết của người quân tử, của bậctrượng phu; nói đến con vật
thì phải long, ly, quy, phượng ; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục; nói đến hoa
bốn mùa thì phải là xuân lan, thu cúc, hạ sen,đông sen; tả mỹ nhân thì làn thu thủy,

nét xuân sơn, tóc như mây, da như tuyết …
* Tính giáo huấn, bác học,cao quý, trang nhã: Đối tượng, mục đích của văn
thơ chủ yếu là đề cao thần quyền, cường quyền mang tính giáo hóa, giáo huấn con
người với khuôn phép định sẵn. Ngôn từ diễn đạt diễm lệ, tránh nói thô tục, nếu có
thì dùng ngụ ý, ám chỉ chứ ít khi nói thẳng…
7


* Cảm thức về thế giới con người thời Trung đại Việt Nam: Con người thấy
mình trong tự nhiên, với suy nghĩ trong vũ trụ có ta và trong ta có cả vũ trụ… Vì
thế khi nói về trời đất, về không gian, thời gian với nhiều cách thể hiện bằng nhiều
sắc thái biểu cảm khác nhau như thời gian chu kỳ tuần hoàn,thời gian tuyến tính,
thời gian vĩnh cửu, thời gian không gian được cảm nhận bằng nhiều giác quan khác
nhau…Cho nên con người khi bất đắc chí tìm về thiên nhiên, vũ trụ như tìm về cội
nguồn. Khi ngắm cảnh trời mây, họ cũng như mơ về nguồn cội. Người Trung Quốc
ý thức gia tộc, gia hương rất mạnh mẽ như Lý Bạch nhìn trăng mà nhớ đến quê nhà
(Tĩnh dạ tứ), cũng như trong thơ Đường luật của Việt Nam, Bà Huyện Thanh Quan
nhìn cảnh đèo Ngang mà nhớ về quê cũ; với Bác Hồ trong bài : “Tức cảnh Pác Bó”
thì đó là không gian bờ suối, hang đá …
* Cách biểu hiện: Cái tôi trữ tình hoà lẫn vào trong thiên nhiên ngoại cảnh,
nó tỉnh lượt chủ ngữ, nó tan trong cảm xúc, cái tôi nó đạt tính phổ quát .
* Cách diễn đạt: Gợi mà không tả, hoà quyện giữa thi, nhạc và hoạ.
* Ngôn ngữ: Từ ngữ sử dụng ở thơ Đường là những từ ngữ quen thuộc
nhưng lại có khả năng diễn đạt vô cùng tinh tế, phong phú. Sở dĩ đạt được như thế
là vì công phu tinh luyện của các nhà thơ. Vì thế, học thơ Đường là học tinh thần
lao động và sáng tạo của nhà thơ với vốn từ hữu hạn.
* Đề tài: Đề tài trong thơ Đường không lấy gì làm phong phú nhưng không
hề trùng lặp vì những mối quan hệ từ ngữ. Vì thế phải hướng dẫn học sinh chú ý
những từ ngữ đắc giá (nhãn tự) vì đó là những từ có tính khái quát cao.
* Tứ thơ: Cái quan trọng nhất trong thơ Đường là tứ thơ. Tư duy thơ Đường là

kiểu tư duy quan hệ, học sinh phải cảm nhận mối quan hệ giữa các sự vật trong
không gian, quan hệ giữa con người với vũ trụ và quan hệ giữa con người với con
người. Thơ ca nói chung cũng như thơ Đường nói riêng, nó không nói hết, không
nói trực tiếp ý mình muốn nói mà để cho người đọc cùng suy nghĩ, cùng sáng tạo.
Chính đặc điểm này đã tạo nên cái gọi là “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn tận ý bất tận”.
Nói gọn lại: chính đặc điểm này mà thơ Đường cô đọng, súc tích, giàu tính biểu
tượng. Nó gợi mà không tả để tạo nên một môi trường liên tưởng rộng. Vậy, ta giúp
học sinh tham gia đồng sáng tạo cùng tác giả, học sinh cảm nhận được cái mạch
ngầm của những tác
2.3.2. Thống kê các văn bản thơ trữ tình trung đại lớp 7:
Dạy đọc hiểu thơ trữ tình, đặc biệt thơ trữ tình trung đại đòi hỏi một cách tiếp
cận riêng khác với dạy các văn bản tự sự, miêu tả hay nghị luận. Cho nên, trước khi
dạy, người thầy cần nắm được hệ thống các văn bản thơ trữ tình trung đại trong
chương trình Ngữ văn 7 để từ đó có định hướng, cách khai thác riêng cho từng cụm
bài, từng bài. Có thể theo dõi các tác phẩm thơ trữ tình trung đại lớp 7 qua bảng hệ thống sau:
8


STT
Tác phẩm
1 Sông núi nước Nam

7

Tác giả
Lý Thường Kiệt
( tương truyền)
Phò giá về kinh
Trần Quang Khải
Côn Sơn ca

Nguyễn Trãi
Buổi chiều đứng ở phủ Trần Nhân Tông
Thiên Trường trông ra
Bánh trôi nước
Hồ Xuân Hương
Sau phút chia li
Đặng Trần Côn (Đoàn
Thị Điểm dịch)
Qua đèo Ngang
Bà Huyện Thanh Quan

8

Bạn đến chơi nhà

2
3
4
5
6

Nguyễn Khuyến

Thể loại
Thất ngôn tứ tuyệt
Ngũ ngôn tứ tuyệt
Lục bát
Thất ngôn tứ tuyệt
Tứ tuyệt
Song thất lục bát

Thất ngôn bát cú
Đường luật
Thất ngôn bát cú
Đường luật

Phần lớn các bài thơ Trung Đại Việt Nam thời kì này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi phong cách thơ Đường của Trung Quốc. Chính vì vậy, trong quá trình dạy, cần
bám sát đặc trưng thể loại, các tín hiệu nghệ thuật (chủ yếu là các thể thơ cổ điển,
nghệ thuật đối, ước lệ, cách sử dụng từ ngữ) để trên cơ sở đó, dẫn dắt HS đi tìm cái
hay, cái đẹp trong tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm.
2.3.3.Khâu chuẩn bị phải chu đáo:
- Về phía giáo viên: tìm hiểu bài kĩ lưỡng nhuần nhuyễn đến mức thuộc thơ, sống
với bài thơ, tìm hiểu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm để hiểu được thấu đáo
nội dung tư tưởng của tác phẩm. Hướng dẫn HS soạn kĩ ở nhà, kiểm tra kĩ bài soạn
của HS, có biện pháp nhắc nhở, phê bình hay báo với giáo viên chủ nhiệm nếu HS
có biểu hiện soạn chống đối như: soạn sơ sài, soạn nhưng chỉ là chép lại mà không
hiểu, không nhớ.
- Về phía học sinh: cần chuẩn bị bài soạn chu đáo trên cơ sở hướng dẫn của
hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa và sự hướng dẫn của giáo viên. Với HS học
tốt, cần đọc thêm tư liệu để bước đầu hiểu được tác phẩm, sưu tầm các câu thơ, bài
thơ có nét tương đồng với tác phẩm sắp học hay các nhận định về tác phẩm.
2.3.4. Dạy học trên lớp phải theo từng bước cụ thể:
Bước 1: Giáo viên nên hết sức coi trọng khâu kiểm tra sự chuẩn bị của HS,
bởi đây chính là tiền đề quan trọng để HS cảm thụ được tác phẩm ngay trên lớp.
Bước 2: Giáo viên cần chú ý khâu vào bài để tạo không khí phù hợp với
bài học. Có thể là một bài hát, một bản nhạc, một bức tranh, một câu chuyện...
mang nội dung tư tưởng tương đồng với tác phẩm chuẩn bị học.
9



Bước 3: Với phần đọc văn bản:
- Đọc thơ: Đọc thơ là để tạo tâm thế ban đầu cần thiết cho học sinh cũng
chính là bước đầu tiếp cận hình tượng thơ. Cần đọc cả bản phiên âm, dịch nghĩa
(nếu có), dịch thơ.
- Đọc diễn cảm là tạo điều kiện cho cảm xúc của học sinh được khởi động
theo âm- vang của ngôn ngữ, nhất là ngôn ngữ thơ, và ngôn ngữ nhân vật trữ tình,
cái mà đọc bằng mắt nhiều khi không đạt được. Đọc chính là tạo lên rung động thơ,
tạo lên sự đồng điệu về tâm hồn để rồi tiến tới sự đồng tình và đồng ý với tác giả.
Bước 4: Đối chiếu giữa phiên âm và dịch thơ
- So sánh đối chiếu giữa phiên âm và dịch thơ để phát hiện những chữ dịch
hay, thoát ý, sát ý và những chữ chưa dịch hay, thoát ý, sát ý.
- Từ đó lưu ý học sinh để trong quá trình phân tích cần phát hiện để hiểu
đúng, hiểu sâu văn bản.
Bước 5: Với phần phân tích:
* Cho học sinh tìm hiểu kĩ về tác giả, về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
Dạy thơ trung đại, cần lưu ý xác lập một cái nhìn biện chứng và lịch sử. Các
tác phẩm văn học trung đại được sáng tạo và truyền bá trong những hoàn cảnh lịch
sử nhất định. Tựu chung những truyền thống tốt đẹp, những tinh hoa của cuộc sống
văn hoá, tinh thần của dân tộc đã in đậm dấu ấn trên những tác phẩm này. Nếu
không đặt tác phẩm trong mối liên hệ với hoàn cảnh lịch sử, bản thân tác giả....
nhiều khi chúng ta không thể hiểu, lí giải chính xác và thấu đáo những vấn đề trong
tác phẩm.
2.3.5. Chú ý đến đặc trưng thể loại:

Như tôi đã nói trên, một trong những cách chuyển tải tư tưởng, tình
cảm của nhà thơ là lựa chọn thể thơ phù hợp với nhu cầu sáng tác của mình.
Để thể hiện tình cảm chứa chan thắm thiết, nhiều nhà thơ đã lựa chọn cho tác
phẩm của mình thể thơ lục bát- một thể thơ mang âm hưởng của lời ca tiếng
hát, uyển chuyển, mềm mại, dễ đọc, dễ nhớ. Hoặc để thể hiện tâm trạng đau
buồn, mong nhớ thì lựa chọn tối ưu của người viết chính là thể thơ song thất

lục bát… Như vậy, người đọc nắm được đặc điểm của thể thơ thì phần nào
cũng đã nhận ra được tư tưởng tình cảm mà tác giả đã gửi gắm vào đó.
Bên cạnh đó, các yếu tố vần, niêm, luật, đối... trong từng thể thơ cũng
góp phần quan trọng trong việc tạo ra âm hưởng của bài thơ. Nếu nắm chắc
các yếu tố này thì việc hướng dẫn phân tích và tìm hiểu văn bản thơ sẽ được
dễ dàng hơn.
Cho học sinh tìm hiểu về thể loại và đặc trưng của từng thể loại. Mỗi thể loại
văn học trung đại nói chung, thơ trung đại nói riêng có dạng thức tồn tại và phương
10


thức biểu đạt nhất định. Phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại là đi vào thi
pháp- đi lại con đường của người sáng tác để có thể thâm nhập và hiểu tác phẩm
được dễ dàng. Cho học sinh nắm được thi pháp của thơ trung đại. Thơ Đường luật
gồm có các thể thơ: Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú...Dạy thơ Đường luật thất ngôn bát
cú cần chú ý các đặc điểm về vần, niêm luật, đối và kết cấu, ngôn ngữ.

2.3.5.1. Thể thất ngôn bát cú.
Thể thất ngôn bát cú là thơ Đường chuẩn luật, gồm 8 câu, mỗi câu 7
chữ. Sau đây là một số điểm khái quát về bố cục và luật lệ căn bản của thể thơ
này:
a. Bố cục:
- Đề gồm:
+ Câu phá đề (câu 1) nghĩa là mở ra, giới thiệu tựa đề.
+ Thừa đề (câu 2) nghĩa là chuyển xuống.
- Thực gồm câu 3 và câu 4: giải thích, khai triển tựa đề.
- Luận gồm câu 5 và câu 5: bàn luận ý nghĩa của bài.
- Kết gồm câu 7 và câu 8: tóm tắt ý nghĩa, bày tỏ tình cảm và thái độ.
b. Luật lệ căn bản:
* Vần: Trong thơ thất ngôn bát cú chỉ gieo một vần, gọi là độc vận rơi

vào năm chữ cuối của năm câu: 1, 2, 4, 6, 8 thường là vần bằng, ít khi dùng
vần trắc, 5 chữ này tránh trùng lặp nhau, phải hiệp vần cho đúng nêu sai gọi là
lạc vận, gieo vần không sát gọi là gượng ép. Vần có vần chân và vần lưng.
Ví dụ: Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời non nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
* Đối: Là phép đặt hai câu thơ đối nhau gồm có:
- Đối chữ: bằng đối trắc, trắc đối bằng, danh từ đối danh từ, động từ đối
động từ...
- Đối ý: Ví dụ cảnh dưới núi đối với cảnh bên sông, cảnh động đối với
cảnh tĩnh nhứ trong hai câu:
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
11


(Qua đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
Trong thể thơ này , hai câu thực phải đối nhau, hai câu luận phải đối
nhau.
* Luật: Các tiếng 1, 3, 5 không ràng buộc phải theo luật bằng trắc.
Tiếng thứ 2 và 6 phải là vần bằng, tiếng thứ 4 phải là vần trắc hay ngược lại.
Ví dụ:

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,

T T B
B
T T B
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
T B B T T B B
* Niêm: Nghĩa là dán lại cho dính. Phép niêm trong thơ là quy tắc sắp
xếp các câu thơ trong bài dính lại với nhau về âm điệu , hay nói cách khác
niêm là sự liên lạc về âm luật giữa hai câu thơ với nhau. Trong bài Đường
luật, câu 1 và 8, 2 và 3, 4 và 5, 6 và 7 niêm với nhau. Hai chữ thứ hai phải
cùng một thanh.
Ví dụ: Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
T
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
B
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
B
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
T
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
T
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
B
Dừng chân đứng lại, trời non nước,
B
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
T
2.3.5.2. Các thể thơ khác.
a. Cổ phong (hay cổ thể):

12



Là một thể thơ cổ có từ nhiều thời đại trước đời nhà Đường. Về sau trở
thành tên gọi chung cho tất cả thơ ngũ ngôn, thất ngôn mà không theo luật,
không theo niêm luật, không hạn chế số câu, chữ như thơ Đường luật.
Thơ Cổ phong có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận)
nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có luật bằng trắc xen
nhau cho dễ đọc.
b. Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Thất ngôn tứ tuyệt thực chất là một bài thất ngôn bát cú đem bỏ đi bốn
câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm, vần... vẫn giữ nguyên, có
thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6.
c. Ngũ ngôn tứ tuyệt Đường luật.
Ngũ ngôn tứ tuyệt thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem bỏ hai chữ
đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần.
2.3.5.3. Thể thơ lục bát.
Lục bát là thể thơ cổ truyền của người Việt từ lâu đã ăn sâu bắt rễ trong
nhân dân. Nó đã có sẵn trong kho tàng ca dao, tục ngữ truyền từ bao đời nay,
đặc biệt ấn tượng trong lời ru của bà, của mẹ.
Gọi là thơ lục bát vì trong bài thơ có hai cặp câu: trên sáu (lục), dưới
tám (bát) song hành liên tiếp với nhau cho đến khi diễn tả trọn vẹn thì dừng.
Ví dụ:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Thông thường bài thơ lục bát dừng ở câu bát. Tuy nhiên cũng có trường
hợp ngoại lệ tùy theo cảm xúc và quyết định của tác giả.
Một bài thơ, một câu thơ đi vào lòng người ngoài nội dung truyền tải
phải là một khúc ca. Lục bát có đầy đủ thuộc tính đó vì vần và nhịp điệu của
lục bát rất uyển chuyển, dễ thuộc:
a. Vần của thơ lục bát:

Vần là những từ cùng âm điệu tạo nhịp cầu nối liền về âm luật cho
người đọc dễ nhớ, dễ thuộc. Thơ lục bát chủ yếu gieo vần bằng. Vần của cả
câu lục và câu bát đều là thanh bằng. Chữ thứ sáu của câu lục vần với chữ thứ
sáu của câu bát, chữ thứ tám của câu bát vần với chữ thứ sáu của câu lục tiếp
theo.
Ví dụ:
Côn Sơn suối chảy rì rầm
Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
Côn Sơn có đá rêu phơi
13


Ta ngồi trên dá như ngồi chiếu êm
b. Luật bằng trắc:
Đây là phần rất quan trọng tạo nên nhịp điệu và tiết tấu của thơ nói
chung trong đó có thơ lục bát.
- Thanh bằng: gồm thanh ngang (không dấu), thanh huyền- viết tắt là B.
- Thanh trắc: gồm các thanh sắc, nặng, hỏi, ngã- viết tắt là T.
- Vần viết tắt là V.
- Luật bằng trắc:
+ Câu lục: B B T T B B (V)
+ Câu bát: B B T T B B (V) T B (V)
Tuy luật bằng trắc đã quy định như trên, nhưng những chữ thứ 1, 3, 5,
7 không bắt buộc theo luật bằng trắc. Còn các chữ thứ 2, 4, 6, 8 bắt buộc phải
đúng theo luật. Trong câu bát, nếu tiếng thứ sáu là thanh ngang (bổng) thì
tiếng thứ tám phải là thanh huyền (trầm) và ngược lại.
c. Nhịp điệu:
Trong thơ lục bát việc ngắt nhịp không cố định. Có khi là nhịp 2, nhịp
3, nhịp 4, nhịp 5, xen kẽ nhau theo giai điệu.
Thể thơ lục bát cơ bản là thể thơ chỉnh chu với những quy định rõ ràng

về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ, về chức năng đảm trách của mỗi câu
trong thể. Tuy vậy cũng có lúc câu lục tràn sang câu bát, câu lục và câu bát
dài quá khổ, có khi xê dịch phối thanh, hiệp vần... đó là dạng lục bát biến thể.
Sự biến đổi đó là do nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng phong phú, đa dạng
phá vỡ khuôn hình 6-8 thông thường. Tuy nhiên dù phá khuôn hình, âm luật,
cách gieo vần của thể thơ lục bát cơ bản vẫn giữ nguyên. Đó là dấu hiệu đặc
trưng cho ta nhận biết nó vẫn là thể lục bát.
2.3.5.4. Thể thơ song thất lục bát.
Ngoài thể thơ bảy chữ, thơ lục bát thì thể thơ song thất lục bát là một
thể thơ đặc biệt của dân tộc, thơ song thất lục bát ra đời trên cơ sở kết hợp từ
thể thơ lục bát và thể thơ bảy chữ vốn có trong thơ ca dân gian.
Như vậy, có thể nói rằng thể thơ song thất lục bát ra đời muộn hơn thể
thơ lục bát trên cơ sở kế thừa những nét tinh hoa đặc trưng của thể loại này và
nét độc đáo của thơ ca dân gian.
Thể thơ này thường lặp đi lặp lại, cuộn trào như ngọn sóng phù hợp cho
việc diễn tả tâm trạng buồn đau của nhân vật trữ tình. Thể song thất và lục bát
kết kết hợp nhau làm cho tình cảm vốn đa chiều, phức tạp được thể hiện có
hiệu quả rõ rệt với cách nói đa giọng, nhiều cung bậc và gam màu. Chính
14


những đặc trưng của thể thơ góp phần thể hiện nội dung của bài ca dao được
sâu sắc và diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Dựa vào kết cấu của bài thơ mà tên gọi song thất lục bát được hình
thành. Song thất lục bát là thể thơ cứ hai dòng bảy chữ (song thất) thì có một
dòng sáu chữ và một dòng tám chữ (lục bát), kết cấu thành từng khổ mỗi khổ
có bốn câu, cũng như thể thơ lục bát và một vài thể thơ khác thì trong thể thơ
song thất lục bát không hạn chế về dung lượng câu trong một tác phẩm.
a. Cách hiệp vần.
Cách hiệp vần trong thơ song thất lục bát tương đối khó hơn các thể thơ

khác, chữ cuối của dòng bảy thứ nhất hiệp vần với chữ thứ năm của dòng bảy
thứ hai (đều là thanh trắc). Chữ thứ bảy của dòng bảy thứ hai hiệp vần với
chữ thứ sáu của dòng lục tiếp theo (đều thuộc thanh bằng). Chữ thứ sáu của
dòng lục hiệp vần với chữ thứ sáu của dòng bát (đều thuộc thanh bằng).
Ví dụ: Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Chữ cuối của câu tám vần với chữ thứ năm của câu bảy tiếp theo(đều
thuộc thanh bằng). Tuy nhiên, chữ cuối của câu tám vần với chữ thứ ba của
câu bảy tiếp theo, biến đổi âm trong vần chữ này đổi sang vần bằng do đó chữ
thứ ba trong câu thứ bảy trên có thể trắc hay bằng.
Câu thơ song thất lục bát cũng có thể giản rộng ra bằng cách thêm vào
một số chữ. Lúc đó ta có song thất lục bát biến thể, nghĩa là không theo đúng
quy luật của nó nữa.
Một bài thơ song thất lục bát nếu được mở đầu bằng một cặp lục bát rồi
mới đến hai câu thất thì ta gọi đó là lục bát gián cách.
b. Nhịp thơ.
Hai câu thất thường dùng nhịp 3/4 và hai câu lục bát thường sử dụng
nhịp đôi 2/2. Đôi khi kết cấu nhịp lại thay đổi, sự thay đổi này gắn liền với
tâm trạng.
c. Về đối.
Một trong những đặc điểm nghệ thuật cần nhắc đến khi nghiên cứu về
thể thơ song thất lục bát chính là đối (các chi tiết đối phải cân với nhau về
nhiều bình diện). Một số kiểu đối được sử dụng như:
- Bình đối: Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại > < Bến Tiêu
Tương thiếp hãy trông sang
- Tiểu đối: Hình khe > < thế núi/ gần > < xa
15



- Đối ngữ đoạn: Xông pha, gió bãi > < trăng ngàn
d. Phối thanh:
Chữ thứ năm và chữ thứ bảy của dòng thất đầu tiên là bằng và trắc,
dòng thất ở dưới thì ngược lại. Thanh bằng trắc trong câu sáu- tám giống như
trong thơ lục bát.
2.3.6. Xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí, khoa học:
Khi hướng dẫn HS phân tích, cần chú ý xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí để
khai thác nghệ thuật và nội dung của bài:
- Các câu hỏi đàm thoại ngoài tính chất xác định rõ ràng, phải có màu sắc
văn học, có khả năng khêu gợi tình cảm, cảm xúc, xúc động thẩm mỹ cho học sinh.
- Câu hỏi phải vừa sức học sinh, thích hợp với khuôn khổ một giờ học trên
lớp, vừa phải có khả năng “gợi vấn đề” suy nghĩ tìm tòi sáng tạo cho học sinh.
- Câu hỏi không tuỳ tiện, phải được xây dựng thành một hệ thống lôgíc, có
tính toán giúp học sinh từng bước đi sâu vào tác phẩm như một chính thể.
- Cần có sự kết hợp cân đối giữa các loại câu hỏi cụ thể và loại câu hỏi tổng
hợp gợi vấn đề. Câu hỏi có khi theo lối diễn dịch, có khi theo lối qui nạp nhưng đều
nhằm cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức vững chắc.
+ Khi đặt câu hỏi, chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp:
- Suy nghĩ thật kĩ vấn đề mình sắp dạy.
- Tham khảo các câu hỏi gợi ý trong SGK, SGV, sách bài soạn. Xây dựng hệ
thống câu hỏi riêng của mình cho bài soạn.
- Cố gắng sử dụng nhiều hình thức diễn đạt khác nhau để hỏi về cùng một
nội dung.
- Chú ý đón bắt, khơi gợi những ý tưởng mới mẻ của học sinh, từ thực tế trả
lời của các em, điều chỉnh lại cách hỏi cho phù hợp.
2.3.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy:
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học, nâng cao hiệu quả giảng dạy, cần sử
dụng phần mềm Power Point vào việc soạn giáo án điện tử. Có thể khai thác mạng
Internet để có ảnh các tác giả, tranh minh họa, nhân vật hoặc chi tiết, cảnh tượng…

trong tác phẩm. Có thể dùng phần mềm sơ đồ tư duy Mind - map để chia bố cục
hoặc tổng kết, khái quát nội dung bài học.

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
Trong thời gian dạy Ngữ văn 7, tôi đã vận dụng những kiến thức trên
vào việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản thơ . Qua đó, nhiều học sinh đã
nắm được một số kiến thức cơ bản về các thể thơ, bước đầu vận dụng nhận
diện thể thơ, xác định vần, luật bằng trắc, phép đối trong thơ Đường luật...
Các em đã hạn chế tình trạng cảm thụ tác phẩm thơ một cách phiến diện mà
16


đã từng bước tiếp thu thơ ca thông qua những giá trị nghệ thuật của nó. Tuy
các em chưa vận dụng được một cách thành thạo nhưng tôi tin rằng đây là
một sự trang bị cần thiết cho quá trình hình thành năng lực cảm thụ thơ ca của
các em.
Kết quả cụ thể thi khảo sát chất lượng học kì I năm học 2017 - 2018:
Lớp
7B

Sĩ số
36

Giỏi
SL
5

Khá
%
27,9


SL
20

Tb
%
51,2

SL
11

%
20,9

3. Kết luận, kiến nghị:
3.1- Kết luận:
Như trong phần lí do chọn đề tài đã từng nói: Cảm nhận thơ Đường luật là
một vấn đề khó; nhưng tổ chức, hướng dẫn để học sinh cảm nhận được nó lại là
một vấn đề còn khó hơn. Nó đòi hỏi người giáo viên đứng lớp phải công phu và
trách nhiệm, tâm huyết. Trong quá trình trực tiếp đứng lớp, bản thân tôi đã tìm tòi,
học hỏi và nghiên cứu tài liệu để từ đó đúc kết thành kinh nghiệm về phương pháp
tiếp cận và cảm thụ các tác phẩm thơ trung đại Việt Nam. Dù sao đi nữa, đây cũng
chỉ là một kinh nghiệm của một cá nhân nên không thể nào tránh khỏi những sai
sót nhất định. Kính mong các thầy cô giáo và đồng nghiệp góp ý kiến chân thành
để kinh nghiệm này hoàn thiện hơn.
3.2- Kiến nghị:
Thư viện nhà trường nên bổ sung nguồn tài liệu mới giới thiệu về cuộc đời,
sự nghiệp của các tác giả thơ trữ tình trung đại Việt Nam .
Các tài liệu văn học giới thiệu về các giai đoạn phát triển của văn học nước
nhà gắn với các giai đoạn lịch sử của dân tộc.

Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm “Phương pháp giảng dạy các tác phẩm
thơ trữ tình trung đại Việt Nam lớp 7 thông qua đặc trưng thể loại” mà tôi đã tìm
tòi sau hơn một năm dạy cùng một đối tượng học sinh (lớp 7) thuộc 2 năm học
khác nhau. Tuy nhiên để giúp học sinh tiếp cận văn học trung đại còn rất nhiều
phương pháp khác nữa, vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của lãnh đạo
chuyên môn và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn chỉnh thêm, góp phần
nâng cao chất lượng dạy và học môn Ngữ văn lớp 7, nhất là phần thơ ca trung đại.

17


Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Bỉm Sơn, ngày 05 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

NGƯỜI VIẾT

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
18


1. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III
( 2004 - 2007)
2. Giáo trình Văn học Việt Nam ( Từ thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVIII. Đinh
Gia Khánh)
3. Sách giáo khoa Ngữ văn 7 tập 1.NXBGD.2016
4. Sách giáo viên Ngữ văn lớp 7 tập 1.NXBGD.2007

5. Bình giảng văn 7.Vũ Dương Quỹ.NXBGD.2009.

19


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS
TT

01

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá Kết quả xếp Năm
học
xếp loại
loại
đánh giá xếp
loại
Phòng
A
GD&ĐT

02
03


20



×