Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Một số kinh nghiệm sử dụng các kỹ thuật trong dạy học môn ngữ văn ở bậc THCS theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.02 KB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUAN HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ KINH NGHIỆM SỬ DỤNG CÁC PHƯƠNG PHÁP, KỸ
THUẬT TRONG DẠY HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH

Người thực hiện: Trịnh Văn Thành
Chức vụ: Chuyên viên
Đơn vị công tác: Phòng Giáo dục và Đào tạo
SKKN thuộc lĩnh vực: Ngữ Văn

THANH HOÁ NĂM 2019


MỤC LỤC
Trang
1.Mở đầu

1

1.1. Lý do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích đề tài

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu



2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

3

2. Nội dung

3

2.1. Cơ sở lí luận

3

2.2. Thực trạng vấn đề

5

2.2.1. Về phía giáo viên

5

2.2.2. Về phía học sinh

6

2.3. Một số kỹ thuật và phương pháp dạy học theo định hướng phát triển
năng lực học sinh


7

2.3.1. Kỹ thuật động não

7

2.3.2. Kỹ thuật mảnh ghép

8

2.3.3. Sơ đồ KWL

9

2.3.4. Học theo dự án

10

2.4. Điều kiện áp dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực

11

2.4.1. Giáo viên

11

2.4.2. Học sinh

11


2.4.3. Chương trình, sách giáo khoa

11

2.4.4. Thiết bị dạy học

12

2.4.5. Đổi mới, đánh giá kết quả học tập

12

2.4.6. Trách nhiệm quản lý

13

2.5. Hiệu quả của Sáng kiến kinh nghiệm

16

3. Kết luận, kiến nghị

16


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đã và đang chuyển từ chương trình
giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học. Để thực hiện
được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp

dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến
thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải
chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra,
đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh
giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có tác động
kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động dạy học và giáo dục. Trước
bối cảnh đó, việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát triển
năng lực của người học là cần thiết.
Trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh
giá và đã đạt được những thành công bước đầu. Đó là những tiền đề vô cùng
quan trọng để chúng ta tiến tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo
định hướng phát triển năng lực của người học. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy
của bản thân cũng như việc đi dự giờ đồng nghiệp tôi thấy rằng sự sáng tạo
trong việc đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học
sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Việc rèn luyện kỹ
năng cho học sinh chưa được quan tâm. Hoạt động kiểm tra, đánh giá chưa thực
sự khách quan, chính xác (còn nặng về tái hiện kiến thức), chú trọng đánh giá
cuối kì, chưa chú trọng đánh giá quá trình. Tất cả những điều đó dẫn tới học sinh
học thụ động, lúng túng khi giải quyết các tình huống trong thực tiễn.
Trong yêu cầu đổi mới giáo dục, đặc biệt nhấn mạnh việc khắc phục những
hạn chế của chương trình sách giáo khoa, tăng cường tính thực tiễn, kĩ năng thực
hành, năng lực tự học; coi trọng kiến thức khoa học xã hội và nhân văn; bổ sung
những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng tiếp thu
của học sinh. Và trước hết muốn làm được điều đó phải chú ý đến đổi mới
phương pháp dạy học.
Tuy nhiên trong những năm qua, những thay đổi trong cách dạy học của
người giáo viên ở nước ta vẫn diễn ra chậm chạp với nhiều khó khăn. Nhiều
nước châu Á và nhiều nước đang phát triển đều có chung tình trạng như vậy. Có
một lý do là các giáo viên sẽ rất khó thay đổi cách dạy học đã trở thành thói
quen của họ nếu họ không thực sự hiểu được các vấn đề: Tại sao cần phải đổi

mới phương pháp dạy học và đổi mới theo cách nào…
Những câu hỏi trên đây thực sự đã được đề cập đến ở rất nhiều tài liệu,
nhiều cuộc hội thảo, các lớp chuyên đề song những vấn đề đó đem tác dụng vào
các tiết dạy thực sự trên lớp quả không dễ dàng chút nào đối với người dạy. Đối
với môn Ngữ văn ở cấp trung học cơ sở, việc đổi mới phương pháp, vận dụng
các kĩ thuật dạy học tích cực cũng đã được bàn đến rất nhiều trong các lớp
chuyên đề ở huyện, ở tỉnh trong những năm qua. Song hầu như nó chưa được áp
dụng rộng rãi trong các tiết dạy đại trà mà chỉ được ứng dụng trong các tiết dạy
mẫu, các tiết thao giảng vì thế học sinh chưa được học tập lĩnh hội kiến thức
3


theo đúng tinh thần tích cực và yêu cầu đổi mới giáo dục đã đặt ra. Vì thế việc
đổi mới phương pháp dạy học cần phải được thực hiện đồng bộ đại trà ở mọi
lớp, mọi tiết dạy, mọi đối tượng học sinh thì mới mong đạt được kết quả tốt.
Vấn để đổi mới chúng ta cần có cuộc cách mạng về tư duy: Thay đổi kiểu
tư duy đơn tuyến đó là kiểu tư duy coi phương pháp là các hệ thống nguyên tắc,
điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cách tạo thực tiễn; chuyển kiến
thức của thầy sang tr ò theo một chiều .Tư duy đơn tuyến là tư duy dễ cả tin, cần
phải khắc phục. Tư duy đa tuyến là tư duy đặt phương pháp vào hệ thống hoạt
động gồm nhiều thành tố ,là tư duy theo hệ hình thái tương tác, bao quát tổng
thể mỗi sự vật, từ đó nắm được bản chất cụ thể và sâu xa của sự vật.
Bản thân là một giáo viên, cán bộ quản lý có thâm niên 20 năm trong ngành
giáo dục của huyện với sự trải nghiệm của bản thân, cùng với việc học hỏi đồng
nghiệp, tiếp thu các chuyên đề thông qua các lớp tập huấn tôi đã có sự thay đổi
về tư duy giảng dạy. Hay nói cách khác là đã làm một cuộc cách mạng về
phương pháp trong hai năm qua. Hiệu quả thực sự chưa như mong muốn song
học sinh đã hứng thú hơn khi được tiếp cận kiến thức và các em đã thực sự là
những người làm chủ trong quá trình lĩnh hội kiến thức
Vì những lí do trên, tôi chọn nội dung: “Một số kinh nghiệm sử dụng các kỹ

thuật trong dạy học môn Ngữ văn ở bậc THCS theo định hướng phát triển
năng lực học sinh” làm đối tượng nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh, nhằm mục đích thay
đổi thói quen học tập bị động lâu nay của học sinh nhằm giúp học sinh được
quyền trao đổi, thảo luận, giải quyết ấn đề theo suy nghĩ của chính các em.
Trong các giờ học các em được quyền bộc lộ và phát huy khả năng sáng tạo của
mình.
Với lượng kiến thức khổng lồ của môn Ngữ văn giáo viên không thể “ nhồi
nhét” hết vào đầu học sinh và cũng không thể “ bắt” các em phải thuộc, phải nhớ
mà để các em tự khám phá, tự hiểu và biết vận dụng nhứng kiến thức đã học vào
trong đời sống thực tiễn của mình.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm mục đích đảm
bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện
các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình
huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho học sinh năng lực giải quyết các tình huống
trong cuộc sống hiện tại và cả sau này.
Vì thế khi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm sử dụng các kỹ thuật dạy học
trong môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở bậc
THCS” tôi đã nhằm mục đích hướng tới người học, mong muốn tạo được những
giờ học mà học sinh thực sự được làm chủ, được bộc lộ, được phát huy và được
định hướng để hình thành kiến thức một cách đúng đắn nhất.
Và khi nghiên cứu đề tài này tôi cũng nhằm mục đích thay đổi suy nghĩ của
giáo viên trong giảng dạy. Đó là thói quen áp đặt học sinh về kiến thức, về kỹ
năng. Học sinh là phải theo thầy, là hình bóng của thầy trong những bài viết
4


thực hành Tập làm văn. Và tôi tin chắc sau khi thực hiện phương pháp “Một số
kinh nghiệm sử dụng các kỹ thuật dạy học trong môn Ngữ văn theo định

hướng phát triển năng lực học sinh ở bậc THCS” sẽ tạo được niềm say mê,
khám phá và hứng thú cho các em trong mỗi giờ lên lớp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Chương trình Ngữ văn cấp THCS huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thực
nghiệm tại Trường THCS Thị trấn và PTDT Nội trú THCS Quan Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
* Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp.
* Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp thực nghiệm khoa học.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm.
- Phương pháp thử nghiệm để kiểm nghiệm một số kết quả mà đề tài đề xuất.
1.5. Những điểm mới của đề tài
Với đề tài này tôi đã đưa ra được các kiến thức về các năng lực của học
sinh cần hình thành được trong đổi mới dạy học. Giải thích cụ thể bản chất của
từng kỹ thuật dạy học. Qua đó giáo viên có thể hiểu rõ bản chất hơn, từ đó ở
từng bài học xác định rõ được năng cần hình thành cho học sinh và xác định
được kỹ thuật, phương pháp cần vận dụng để giảng dạy.
Ở đề tài này, mỗi một kỹ thuật dạy học, tôi đều đưa ra các ví dụ vận dụng
cụ thể để giáo viên dễ hiểu hơn. Từ đó có cách vận dụng linh hoạt, phù hợp.
Để vận dụng hiệu quả các kỹ thuật dạy học theo định hướng phát triển năng
lực học sinh, tôi cũng đã nêu ra các điều kiện cần thiết về giáo viên, học sinh, cơ
sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Từ đó giáo viên có thể đối chiếu với các điều
kiện thực tế của đơn vị để thực hiện hiệu quả.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
Dạy học được xem là một quá trình gồm toàn bộ các thao tác có tổ chức và
có định hướng giúp người học từng bước có năng lực tư duy và năng lực hành

động với mục đích chiếm lĩnh các giá trị tinh thần, các hiểu biết, các kỹ năng, các
giá trị văn hóa mà nhân loại đã đạt được để trên cơ sở đó có khả năng giải
quyết được các bài toán thực tế đặt ra trong toàn bộ cuộc sống của mỗi người học.
Trong giai đoạn hiện nay nền giáo dục của nước ta đã và đang thực hiện đổi
mới một cách căn bản và toàn diện. Từ đổi mới về chương trình giáo dục đến
việc đổi mới về phương pháp dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của học
sinh. Nghị quyết số 29 của BCH TW8 khóa XI được triển khai tạo cơ sở cho
giáo viên tích cực hơn trong việc tìm tòi, sáng tạo những phương pháp dạy học
mới chú trọng đến người học mà dạy học phát triển năng lực được xem là một
5


phương pháp dạy học hiệu quả, học sinh được tìm tòi, được thể hiện quan điểm
của mình trong quá trình học tập.
Theo dự thảo cải cách chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, Năng lực
là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình
học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kỹ
năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện
thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những
điều kiện cụ thể. Đối với học sinh THCS gồm những năng lực sau:
Các năng lực chung: Tự lực; Tự khẳng định và bảo vệ quyền, nhu cầu
chính đáng; Tự kiểm soát tình cảm, thái độ, hành vi của mình; Tự định hướng
nghề nghiệp; Tự học, tự hoàn thiện. [1]
Năng lực giao tiếp và hợp tác: Xác định mục đích, nội dung, phương tiện
và thái độ giao tiếp; Thiết lập, phát triển các quan hệ xã hội; điều chỉnh và hoá
giải các mâu thuẫn; Xác định mục đích và phương thức hợp tác; Xác định trách
nhiệm và hoạt động của bản thân; Xác định nhu cầu và khả năng của người hợp
tác; Tổ chức và thuyết phục người khác; Đánh giá hoạt động hợp tác; Hội nhập
quốc tế. [1]
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo: Nhận ra ý tưởng mới; Phát hiện

và làm rõ vấn đề; Hình thành và triển khai ý tưởng mới; Đề xuất, lựa chọn giải
pháp; Thực hiện và đánh giá giải pháp giải quyết vấn đề; Tư duy độc lập. [1]
Các năng lực chuyên môn: Sử dụng tiếng Việt; Sử dụng ngoại ngữ [1]
Năng lực tính toán: Hiểu biết kiến thức toán học phổ thông, cơ bản; Biết
cách vận dụng các thao tác tư duy, suy luận; tính toán, ước lượng, sử dụng các
công cụ tính toán và dụng cụ đo,…; đọc hiểu, diễn giải, phân tích, đánh giá tình
huống có ý nghĩa toán học. [1]
Năng lực tìm hiểu tự nhiên và xã hội: Hiểu biết kiến thức khoa học; Tìm
tòi và khám phá thế giới tự nhiên; Vận dụng kiến thức vào thực tiễn, ứng xử với
tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. [1]
Năng lực tìm hiểu xã hội: Nắm được những tri thức cơ bản về đối tượng
của các khoa học xã hội; Hiểu và vận dụng được những cách tiếp cận và phương
pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội; Nắm được những tri thức cơ bản
về xã hội loài người; Vận dụng được những tri thức về xã hội và văn hóa vào
cuộc sống. [1]
Năng lực công nghệ: Thiết kế; Sử dụng; Giao tiếp; Đánh giá. [1]
Năng lực tin học: Sử dụng và quản lý các phương tiện, công cụ, các hệ
thống tự động hóa của công nghệ thông tin và truyền thông; Hiểu biết và ứng xử
phù hợp chuẩn mực đạo đức, văn hóa và pháp luật trong xã hội thông tin và nền
kinh tế tri thức; Nhận biết và giải quyết vấn đề trong môi trường xã hội và nền
kinh tế tri thức; Học tập, tự học với sự hỗ trợ của các hệ thống ứng dụng công
nghệ thông tin và truyền thông; Giao tiếp, hòa nhập, hợp tác phù hợp với thời
đại xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức. [1]

6


Năng lực thẩm mỹ: Nhận biết các yếu tố thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,
cái chân, cái thiện, cái cao cả); Phân tích, đánh giá các yếu tố thẩm mỹ; Tái hiện,
sáng tạo và ứng dụng các yếu tố thẩm mỹ. [1]

Năng lực thể chất: Sống thích ứng và hài hòa với môi trường; Nhận biết
và có các kỹ năng vận động cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và hình thành các
tố chất thể lực cơ bản trong cuộc sống; Nhận biết và tham gia hoạt động TDTT;
Đánh giá hoạt động vận động. [1]
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Về phía giáo viên
Như đã nói ở trên việc thay đổi cách dạy học đã trở thành đường mòn thành
thói quen nhiễm vào máu thịt của người dạy là vô cùng khó khăn. Bên cạnh đó
hiện cũng không phải 100% giáo viên dạy Ngữ văn ở bậc trung học cơ sở đã
được tiếp cận với các kĩ thuật dạy học mới. Bởi tôi được biết trong những năm
qua Sở giáo dục đã triển khai nhiều lớp chuyên đề có ý nghĩa thực tiễn: như
giáo dục bảo vệ môi trường trong môn ngữ văn giáo dục kĩ năng sống qua môn
Ngữ Văn... hay vận dụng các kĩ thuật dạy học mới trong môn Ngữ Văn... Những
vấn đề này đã được phòng giáo dục triển khai cụ thể ,chi tiết và hiệu quả tới
những người được đi học chuyên đề. Song mỗi trường chỉ có một đến hai giáo
viên đi tiếp thu chuyên đề. Việc truyền đạt lại cho giáo viên ở trường chắc chắn
không phải trường nào cũng làm tốt, hoặc có trường thậm chí không triển khai
cho nên giáo viên không nắm được tinh thần của việc đổi mới dạy học. Việc dạy
học theo khuôn mẫu của những giáo án cách đây 5 năm thậm chí 10 năm trước.
Miễn làm sao hết bài là được. Còn học sinh cứ ghi đầy vở, đủ ý để về nhà học
thuộc lòng là xong.
Chính vì kiểu dạy học áp đặt, học theo thầy, thầy là người truyền đạt chân
lí như thế cho nên khi kiểm tra đánh giá chúng ta sẽ có một loạt sản phẩm như
nhau. Học sinh làm văn như chép lại bài chính tả, bài học thuộc lòng khiến
người đọc cảm thấy tẻ nhạt nhàm chán vô cùng.Thực ra lỗi đó trước hết phải
thuộc về người dạy, bởi chúng ta đã tước đi của các em quyền được sáng
tạo,chúng ta luôn áp đặt các em theo cách của mình, tự khẳng định cho các em
phải công nhận chân lý chứ không dạy cho các em con đường tìm ra chân lí. Đó
là một phương pháp dạy học lỗi thời mà trên thực tế đa phần giáo viên của
chúng ta hiện nay đang áp dụng.

Một thực trạng nữa mà giáo viên gặp phải hiện nay khi vận dụng các kiểu
dạy học mới đó là cơ sở vật chất ở các trường học hầu như chưa ứng được triệt
để. Sĩ số lớp học quá đông, bàn ghế, cách kê bàn ghế trong lớp học vẫn theo
kiểu truyền thống nên khi hoạt động nhóm gặp khó khăn. Các em phải kê bàn
ghế lại tạo nên sự ồn ào,mất thời gian.hay khi sử dụng kĩ thuật phòng tranh trong
dạy học lớp học không có sẵn chỗ để trưng bày. Nếu cần sử dụng máy chiếu
hiện nay trên địa bàn huyện Quan Hóa mới có một số trường như PTDTNT,
THCS Thị Trấn, THCS Hồi Xuân …là có phòng máy cố định,còn các trường
khác có từ 1-2 máy chiếu, mỗi lần muốn dạy là giáo viên phải nhờ thêm người
hỗ trợ, lớp học thiết kế chưa đúng quy cách nên màn hình chưa đúng chỗ, đèn
7


chiếu phải để giữa lớp, dây điện loằng ngoằng tạo khó khăn cho giáo viên và
học sinh trong quá trình di chuyển.
Thực trạng khó khăn thứ ba mà tôi nhận thấy nữa khi vận dụng phương
pháp, kĩ thuật dạy học tích cực khó tiến hành đồng bộ ở tất cả các trường, các
lớp, các giáo viên bởi vì trên thực tế đội ngũ giáo viên Ngữ văn của huyện Quan
Hóa tuổi đời và tuổi nghề còn trẻ, hơn nữa lại thiếu giáo viên thì số giờ của các
đồng chí áp lực hơn. Nhiều giáo viên dạy xa nhà, tư tưởng tâm huyết nghề
nghiệp chưa cao, quan điểm “tối ngày đầy công” hết tiết hết bài là được vẫn còn
phổ biến cho nên tinh thần học tập, thay đổi, vận dụng kĩ thuật dạy học mới đối
với một số giáo viên này là rất khó. Họ chỉ làm khi có kiểm tra thanh tra, khi có
giờ thao giảng ở trường hay đi tham gia dự thao giảng cấp huyện. Số giáo viên
nhiều người có năng lực nghề nghiệp, có tâm huyết, nhưng bên cạnh đó vẫn còn
một số bộ phận bằng lòng với cái vốn có của mình bao năm qua miễn là không
ai đụng chạm đến bản thân mình là được. Chính vì suy nghĩ đó cho nên ý thức
phấn đấu cho chuyên môn còn hạn chế.
Việc đầu tư vận dụng các kĩ thuật dạy học mới trong các giờ Ngữ văn tốn
nhiều thời gian, công sức của người dạy bởi cần phải có sự chuẩn bị dầu tư chu

đáo mới thực hiện được. Vì thế không phải ai cũng sẵn sàng bắt tay để áp dụng
các kiểu dạy này. Trong khi đó kiểu dạy học truyền thống lại vô cùng đơn giản
cô cứ dạy và nói theo giáo án là xong. Đó là thực trạng và những khó khăn trong
việc áp dụng phương pháp dạy học mới hiện nay ở địa bàn huyện ta nói riêng và
hầu như trong toàn tỉnh nói chung.
2.2.2. Về phía học sinh
Khi áp dụng các kĩ thuật dạy học mới không chỉ gặp khó khăn về phía giáo
viên mà đối với chủ thể (người học) đó là học sinh chúng ta cũng gặp phải rất
nhiều khó khăn. Lâu nay các em quen tiếp cận kiến thức một cách thụ dộng
theo kiểu truyền thống, thầy giảng trò ghi, thầy đọc trò chép, thầy hỏi trò trả lời,
nếu không trả lời thì được thầy giải đáp luôn nay buộc các em phải tư duy dộng
não, phải đưa ra ý kiến hoặc hợp tác với bạn để cùng ý kiến thống nhất ý kiến đó
thì đó thực sự là một vấn đề khó khăn với các em.
Một thực trạng nữa mà chúng ta thấy rõ trong quá trình giảng dạy về phía
học sinh đó là: Thực hiện chủ trương chính sách xóa bỏ các lớp chọn trong các
nhà trường phổ thông (cấp I, II) nên trình độ học sinh trong một lớp không đồng
đều. Điều này khi áp dụng phương pháp dạy học tích cực buộc giáo viên phải
chấp nhận sự phân hóa về cường độ, mức độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học
tập nhất là bài học được thiết kế thành một chuỗi hoạt động độc lập.
Có những học sinh hoạt động tích cực trong giờ học nhưng cũng có học sinh
ỷ lại hoàn toàn cho bạn mình (đối với hoạt động nhóm) bởi vì các em nghĩ kết quả
và điểm dành cho nhóm đương nhiên là mình sẽ có “phần” trong đó vì thế để tổ
chức hoạt động nhóm đối với học sinh giáo viên lại phải suy nghĩ chia nhóm phù
hợp, giao việc cho mỗi nhóm tùy theo năng lực của học sinh, điều khiến hoạt
động nhóm làm sao để tất cả học sinh đều được bộc lộ khả năng của mình.

8


Trên đây là những vấn đề, là thực trạng dễ thấy nhất trong quá trình áp dụng

các kĩ thuật dạy học mới. Bên cạnh đó vẫn còn có rất nhiều những khó khăn nữa
mà người trực tiếp đứng lớp như tôi đã gặp phải trong các giờ dạy của mình.
Song, vượt qua những khó khăn đó, bản thân tôi đã xác định được trách
nhiệm của người giáo viên đứng lớp; dạy học không chỉ là dạy kiến thức mà còn
phải bồi dưỡng cho các em lòng say mê học tập, ý chí vươn lên trong cuộc sống.
Vì thế tôi đã luôn chủ động đểáp dụng các kĩ thuật dạy học mới trong những giờ
dạy của mình. Sau đây là một số tiết dạy có áp dụng các kỹ thuật đó. Và chính
nhờ áp dụng các kỹ thuật này mà tôi đã đạt được nhiều thành tích trong giảng dạy.
2.3. Một số phương pháp, kỹ thuật dạy học theo định hướng phát triển
năng lục học sinh
2.3.1. Kỹ thuật Động não hay Công não (Brainstorming)
Là một phương pháp đặc sắc dùng để phát triển nhiều giải pháp sáng tạo
cho một vấn đề. Phương pháp này hoạt động bằng cách nêu các ý tưởng tập
trung trên vấn đề, từ đó rút ra rất nhiều giải pháp căn bản cho nó. Các ý
niệm/hình ảnh về vấn đề trước hết được nêu ra một cách rất phóng khoáng và
ngẫu nhiên theo dòng suy nghĩ càng nhiều, càng đủ càng tốt. Các ý kiến có thể
rất rộng và sâu cũng như không giới hạn bởi các khía cạnh nhỏ nhặt nhất của
vấn đề mà những người tham gia nghĩ tới. Trong động não thì vấn đề được đào
bới từ nhiều khía cạnh và nhiều cách nhìn khác nhau. Sau cùng các ý kiến sẽ
được phân nhóm và đánh giá.
Để sử dụng kỹ thuật động não, giáo viên cần chuẩn bị các bảng hoặc giấy khổ
lớn để mọi người dễ đọc các ý kiến, hoặc có thể thay thế bằng giấy viết. Có thể sử
dụng hệ thống máy tính kết nối mạng để tiến hành động não. Cần chia nhóm yêu
cầu các nhóm chọn nhóm trưởng, thư ký và giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
Nhóm trưởng điều hành hoạt động thảo luận chung của cả nhóm trong một
thời gian quy định, các ý kiến đều được thư ký ghi nhận, khuyến khích thành
viên đưa càng nhiều ý kiến càng tốt. Cả nhóm cùng lựa chọn giải pháp tối ưu,
thu gọn các ý tưởng trùng lặp, xóa những ý không phù hợp, sau cùng thư ký báo
cáo kết quả.
Trong quá trình thu thập ý kiến, không được phê bình hay nhận xét – cần

xác định rõ: Không có câu trả lời nào là sai.
Sử dụng kỹ thuật động não dễ thực hiện, không mất nhiều thời gian huy
động mọi ý kiến của thành viên, tập trung trí tuệ, mọi ý kiến đều được ghi nhận,
từ đó khuyến khích các thành viên nhóm tham gia hoạt động. Tuy nhiên có
những hạn chế, dễ gây tình trạng lạc đề nếu chủ đề không rõ ràng, việc lựa chọn
các ý kiến tốt nhất có thể sẽ mất thời gian, nếu nhóm trưởng không đủ bản lĩnh
sẽ gây ra tình trạng một số thành viên nhóm quá năng động nhưng một số khác
không tham gia, việc lưu trữ kết quả thảo luận là khó khăn và dễ gây lãng phí.
Ví dụ: Ứng dụng “kĩ thuật động não khi dạy bài “Những câu hát châm
biếm” Ngữ văn 7
Đây là bài ca giúp HS nắm được ứng xử của các tác giả dân gian trước
những thói hư tật xấu, những hủ tục lạc hậu trong xã hội. Hiểu được một số hình
9


thức nghệ thuật tiêu biểu của những bài ca dao thuộc chủ đề châm biếm. Giáo
viên có thể áp dụng kĩ thuật “Động não”
* Vấn đề được tìm hiểu đưa ra trước tập thể lớp theo câu hỏi:
Giáo viên: Trong bài ca dao thứ nhất, chân dung “chú tôi” được giới thiệu
qua những chi tiết nào?
Học sinh sẽ đưa ra nhiều tín hiệu. Trong đó có thông tin được thể hiện qua
từ “hay”, “ước”
“hay” + tửu, tăm
+ nước chè đặc
+ nằm ngủ trưa
“ước” + ngày mưa
+ đêm thừa trống canh [2]
=> HS có thể có các cách hiểu khác nhau:
* GV tập hợp ý kiến và tiếp tục phát vấn: Em hiểu như thế nào về từ “hay” ?
“Hay” => giỏi giang.

=> biết nhiều.
=> ham thích....
Giáo viên: Nghĩa của từ “hay” trong từ điển được hiểu là gì ?
HS: giỏi giang [2]
Giáo viên: Theo em, từ “hay” ở bài ca này có được hiểu là “giỏi giang”
không? Vì sao?
=> Từ việc tìm hiểu tập thể (động não) như vậy, các ý kiến sẽ được thẩm
định, làm sáng tỏ.
2.3.2. Kỹ thuật mảnh ghép (Jigsaw)
Là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm
và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích thích
sự tham gia tích cực của học sinh, nâng cao vai trò của cá nhân trong quá trình
hợp tác (Không chỉ nhận thức hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 1 mà còn phải
truyền đạt kết quả và hoàn thành nhiệm vụ ở Vòng 2) [4].
Để thực hiện kỹ thuật này, giáo viên cần chuẩn bị giấy bút cho các thành viên.
Các bước thực hiện: Giáo viên giao việc cho từng nhóm; Các nhóm tiến
hành thảo luận và rút ra kết quả, đảm bảo từng thành viên của nhóm đều có khả
năng trình bày kết quả của nhóm; Mỗi nhóm được tách ra và hình thành nhóm
mới theo sơ đồ; Từng thành viên lần lượt trình bày kết quả thảo luận của mình.
Để đảm bảo ở bước thảo luận đầu tiên, mọi thành viên đều có khả năng
trình bày kết quả thảo luận của nhóm trước khi tiến hành tách nhóm. Các chủ đề
thảo luận cần được chọn lọc kỹ lưỡng, có tính độc lập với nhau.
Sử dụng kỹ thuật mảnh ghép sâu kiến thức trong từng lĩnh vực, phát huy
hiểu biết của học sinh và giải quyết những hiểu sai, phát triển tinh thần làm việc
theo nhóm, phát huy trách nhiệm của từng cá nhân. Tuy nhiên có những hạn chế,
kết quả thảo luận phụ thuộc vào vòng thảo luận thứ nhất, nếu vòng thảo luận này
10


không có chất lượng thì cả hoạt động sẽ không có hiệu quả; Nếu số lượng thành

viên không được tính toán kỹ sẽ dẫn đến tình trạng nhóm thừa, nhóm thiếu,
không sử dụng được cho các nội dung thảo luận có mối quan hệ ràng buộc
“Nhân – quả” với nhau.
Ví dụ: Ứng dụng “kĩ thuật mảnh ghép, khăn phủ bản” khi dạy bài
“Luyện tập cách làm văn nghị luận” – Ngữ văn 9
Với mục tiêu: Giúp HS khắc sâu kiến thức đặc điểm thể loại nghị luận, vận
dụng các thao tác làm văn nghị luận. GV nên sử dụng “kỹ thuật mảnh ghép” và
kỹ thuật “ khăn phủ bàn” để hướng dẫn HS[3] .
Sau khi cho HS tìm hiểu đề, tìm ý, giáo viên phân nhóm học sinh thực hiện
bước lập dàn ý.
Vòng 1: Giáo viên chia lớp làm 3 nhóm, yêu cầu mỗi nhóm làm một nhiệm vụ:
- Nhóm 1: Lập dàn ý phần mở bài (Viết)
- Nhóm 2: Lập dàn ý phần thân bài
- Nhóm 3: Lập dàn ý phần kết bài (Viết)
Hết thời gian quy định, HS chuyển nhóm.
Vòng 2: Các nhóm mới được hình thành bằng cách sát nhập thành viên của
ba nhóm theo dãy bàn hàng ngang. Yêu cầu các nhóm trình bày dàn ý đã làm.
Như vậy, lúc này mỗi nhóm đã có đủ dàn ý 3 phần.
Vòng 1: Kết hợp ngang
Nhón 1:
Viết MB
Viết MB
Viết MB
Nhóm 2:
Nhóm 3:

Dàn ý TB

Dàn ý TB


Dàn ý TB

Viết KB

Viết KB

Viết KB

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Vòng 2: Kết hợp dọc:
2.3.3. Sơ đồ KWL
Là kĩ thuật dạy học nhằm tạo điều kiện cho người học nêu được những điều
đã biết liên quan đến chủ đề, những điều muốn biết về chủ đề trước khi học, và
những điều đã học sau khi học [4].
Dựa trên sơ đồ KWL, người học tự đánh giá được sự tiến bộ của mình
trong việc học, đồng thời Gv biết được kết quả học tập của người học, từ đó điều
chỉnh việc dạy học cho hiệu quả.
K (Điều đã biết)
Know

W (Điều muốn biết)
What

L (Điều học được)
Learn


11


Ví dụ: Ứng dụng kĩ thuật “học theo sơ đồ KWL” khi dạy bài Dạy bài
“Ôn tập về thơ” - Ngữ văn 9
Mục tiêu: Giúp học sinh nắm một cách hệ thống các tác phẩm thơ hiện đại
Việt Nam đã học trong chương trình Ngữ văn 9, có cái nhìn khá toàn diện về nội
dung tư tưởng, nghệ thuật các tác phẩm đã học [3].
Sau khi hệ thống kiến thức, phần bài tập xác định các chủ đề có thể sử dụng
sơ đồ tư duy KWL.
Từ những bài thơ đã học, học sinh tập hợp thành từng chủ đề cụ thể và tìm
nét tiêu biểu cho từng chủ đề đó.
K (Điều đã biết)
Know
Con cò, Nói với con, Bếp
lửa, Khúc hát ru những em
bé lớn trên lưng mẹ...
Đồng chí, Bài thơ về tiểu
đội xe không kính, Ánh
trăng
Mùa xuân nho nhỏ, Đoàn
thuyền đánh cá, Sang thu...

W (Điều muốn biết)
What
Chủ đề tình cảm gia
đình.

Viếng lăng Bác


Chủ đề về lãnh tụ.

Chủ đề về người lính.
Chủ đề về quê hương đất
nước.

L (Điều học được)
Learn
- Tình cảm gia đình là thiêng
liêng, quý giá.
- Giọng thơ thiết tha, trìu mến.
- Vẻ đẹp trong tính cách, tâm
hồn, lí tưởng của người lính.
- Ngôn ngữ giản dị, chân chất.
- Cảm xúc, niềm vui trước vẻ
đẹp của quê hương đất nước,
trước cuộc sống mới.
- Hình ảnh đẹp, trong sáng.
- Lòng tự hào, kính trọng và
biết ơn đối với Bác Hồ.
- Nghệ thuật ấn dụ đặc sắc,
giọng thơ thành kính.

2.3.4. Học theo dự án
Học theo dự án ( Project Work) là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho
HS tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập, và áp dụng một cách sáng tạo
vào thực tế cuộc sống [4].
Các bước học theo dự án:
Bước 1: Lập kế hoạch.

Là bước đầu tiên quan trọng, tất cả các thành viên trong nhóm cùng tham
gia xây dựng và xác định được: Mục tiêu cần hướng tới – nhiệm vụ phải làmsản phẩm dự kiến – cách triển khai thực hiện hoàn thành dự án – thời gian thực
hiện và hoàn thành.
Bước 2: Thực hiện dự án.
Bao gồm các công việc: Thu thập thông tin – Xử lí thông tin – Thảo luận
với các thành viên khác – Trao đổi và xin ý kiến GV hướng dẫn.
Bước 3: Tổng hợp kết quả.
Bao gồm các công việc: Xây dựng sản phẩm – Trình bày sản phẩm – Bài
học kinh nghiệm sau khi thực hiện dự án.
Ví dụ: Ứng dụng “kĩ thuật học theo dự án” khi dạy bài “Tổng kết văn
bản nhật dụng”-NV9
12


Mục tiêu: Giúp học sinh nắm một cách hệ thống các văn bản nhật dụng đã
học trong chương trình THCS, từ đó có cái nhìn khách quan về các vấn đề cần
quan tâm trong thực tiễn cuộc sống, có quan điểm và thái độ đúng đắn trước
những vấn đề đó. Sau khi hệ thống, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh học
theo dự án theo trình tự sau: [3]
Lập kế hoạch:
- Chọn một trong các vấn đề được học: Bảo vệ di sản, quyền trẻ em, môi
trường, hoà bình thế giới...
+ Chọn hình thức viết bài.
+ Những tranh ảnh cần sưu tầm.
+ Dự kiến thời gian.
Thực hiện dự án:
- Học sinh thực hiện các nhiệm vụ được phân công: Viết bài, thu hập ảnh,
thông tin...(Có thể trao đổi với giáo viên để có sản phẩm chất lượng)
Báo cáo kết quả:
- Các nhóm trình bày sản phẩm của mình: Bài viết, tư liệu...

- Rút kinh nghiệm.
2.4. Điều kiện áp dụng phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực
2.4.1. Giáo viên
Giáo viên phải được đào tạo chu đáo để thích ứng với những thay đổi về
chức năng, nhiệm vụ rất đa dạng và phức tạp của mình, nhiệt tình với công cuộc
đổi mới giáo dục. Giáo viên vừa phải có kiến thức chuyên môn sâu rộng, có
trình độ sư phạm lành nghề, biết ứng sử tinh tế, biết sử dụng các công nghệ tin
vào dạy học, biết định hướng phát triển của học sinh theo mục tiêu giáo dục
nhưng cũng đảm bảo được sự tự do của học sinh trong hoạt động nhận thức.
2.4.2. Học sinh
Dưới sự chỉ đạo của giáo viên, học sinh phải dần dần có được những phẩm
chất và năng lực thích ứng với phương pháp dạy học tích cực như: giác ngộ mục
đích học tập, tự giác trong học tập, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của
mình và kết quả chung của lớp, biết tự học và tranh thủ học ở mọi nơi, mọi lúc,
bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy biện chứng, lôgíc, hình tượng, tư
duy kĩ thuật, tư duy kinh tế…
2.4.3. Chương trình và sách giáo khoa
Phải giảm bớt khối lượng kiến thức nhồi nhét, tạo điều kiện cho thầy trò tổ
chức những hoạt động học tập tích cực; giảm bớt những thông tin buộc học sinh
phải thừa nhận và ghi nhớ máy móc, tăng cường các bài toán nhận thức để học
sinh tập giải; giảm bớt những câu hỏi tái hiện, tăng cường loại câu hỏi phát triển
trí thông minh; giảm bớt những kết luận áp đặt, tăng cường những gợi ý để học
sinh tự nghiên cứu phát triển bài học.
2.4.4. Thiết bị dạy học

13


Thiết bị dạy học là điều kiện không thể thiếu được cho việc triển khai
chương trình, sách giáo khoa nói chung và đặc biệt cho việc triển khai đổi mới

phương pháp dạy học hướng vào hoạt động tích cực, chủ động của học sinh.
Đáp ứng yêu cầu này phương tiện thiết bị dạy học phải tạo điều kiện thuận lợi
cho học sinh thực hiện các hoạt động độc lập hoặc các hoạt động nhóm.
Cơ sở vật chất của nhà trường cũng cần hỗ trợ đắc lực cho việc tổ chức dạy học
được thay đổi dễ dàng, linh hoạt, phù hợp với dạy học cá thể, dạy học hợp tác.
Trong qúa trình biên soạn sách giáo khoa, sách giáo viên, các tác giả đã chú
ý lựa chọn danh mục thiết bị và chuẩn bị các thiết bị dạy học theo một số yêu
cầu để có thể phát huy vai trò của thiết bị dạy học. Những yêu cầu này rất cần
được các cán bộ chỉ đạo quản lý quán triệt và triển khai trong phạm vi mình phụ
trách. Cụ thể như sau:
- Đảm bảo tính đồng bộ, hệ thống, thực tế và đạt chất lượng cao, tạo điều
kiện đẩy mạnh hoạt động của học sinh trên cơ sở tự giác, tự khám phá kiến thức
thông qua hoạt động thực hành, thâm nhập thực tế trong qúa trình học tập.
- Đảm bảo để nhà trường có thể đạt được thiết bị dạy học ở mức tối thiểu, đó
là những thiết bị thực sự cần thiết không thể thiếu được. Các nhà thiết kế và sản
xuất thiết bị dạy học sẽ quan tâm để có giá thành hợp lí với chất lượng đảm bảo.
- Chú trọng thiết bị thực hành giúp học sinh tự tiến hành các bài thực hành
thí nghiệm. Những thiết bị đơn giản có thể được giáo viên, học sinh tự làm góp
phần làm phong phú thêm thiết bị dạy học của nhà trường. Công việc này rất cần
được quan tâm và chỉ đạo của lãnh đạo trường, Sở.
- Đối với những thiết bị dạy học đắt tiền sẽ được sử dụng chung. Nhà
trường cần lưu ý tới các hướng dẫn sử dụng, bảo quản và căn cứ vào điều kiện
cụ thể của trường đề ra các quy định để thiết bị được giáo viên, học sinh sử dụng
tối đa.
- Cần tính tới việc thiết kế đối với trường mới và bổ sung đối với trường cũ
phòng học bộ môn, phòng học đa năng và kho chứa thiết bị bên cạnh các phòng
học bộ môn.
2.4.5. Đổi mới đánh giá kết quả học tập của học sinh
Đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong qúa trình giáo
dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và

sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn,
chất lượng mới hơn trong cả một qúa trình giáo dục.
Đánh giá kết quả học tập là qúa trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ,
khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh về tác động và nguyên nhân của
tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà
trường cho bản thân học sinh để học sinh học tập ngày một tiến bộ hơn.
Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu
mới của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải chuyển biến mạnh theo hướng
phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt
các kiến thức kĩ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những
cảm xúc, thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá
14


nhân, gia đình và cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra, đánh giá chưa thoát khỏi
quỹ đạo học tập thụ động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới đánh giá như trên việc kiểm tra, đánh
giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục tiêu
giáo dục của môn học ở từng lớp cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ
thực hiện các mục tiêu được xác định.
Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập
của học sinh, bộ công cụ đánh giá sẽ được bổ sung các hình thức đánh giá khác
như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm; chú ý hơn tới đánh giá cả qúa
trình lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ
động của học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết
thực hành, thí nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức
hơn cũng như công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát hoạt
động này.
Hệ thống câu hỏi kiểm tra đánh giá cũng cần thể hiện sự phân hóa, đảm bảo
70% câu hỏi bài tập đo được mức độ đạt trình độ chuẩn - mặt bằng về nội dung

học vấn dành cho mọi học sinh và 30% còn lại phản ánh mức độ nâng cao, dành
cho học sinh có năng lực trí tuệ và thực hành cao hơn.
2.4.6. Trách nhiệm quản lý
Hiệu trưởng chịu trách nhiệm trực tiếp về việc đổi mới phương pháp dạy
học ở trường mình, đặt vấn đề này ở tầm quan trọng đúng mức trong sự phối
hợp các hoạt động toàn diện của nhà trường. Hiệu trưởng cần trân trọng, ủng hộ,
khuyến khích mỗi sáng kiến, cải tiến dù nhỏ của giáo viên, đồng thời cũng cần
biết hướng dẫn, giúp đỡ giáo viên vận dụng các phương pháp dạy học tích cực
thích hợp với môn học, đặc điểm học sinh, điều kiện dạy và học ở địa phương,
làm cho phong trào đổi mới phương pháp dạy học ngày càng rộng rãi, thường
xuyên và có hiệu quả hơn.

GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM
TỔNG KẾT VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI (Tiết 1)
A. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT
1. Kiến thức: Giúp hs tổng kết, ôn tập một số kiến thức cơ bản về nội dung
của những văn bản văn học nước ngoài đã học trong bốn năm ở cấp THCS.
2. Kĩ năng: Rèn kĩ năng hệ thống hoá những kiến thức cơ bản về Văn học
Việt Nam đã học.
3. Giáo dục: Bồi dưỡng lòng yêu quý, say mê văn học.
B. CHUẨN BỊ
Giáo viên: Soạn bài, bảng phụ, giấy A0, bút dạ, bút màu
Học sinh: Soạn kĩ bài ở nhà.
C. PHƯƠNG PHÁP VÀ KĨ THUẬT DẠY HỌC
1. Phương pháp: Vấn đáp, nêu vấn đề.
15


2. Kĩ thuật: khăn phủ bàn, học theo dự án, mảnh ghép.
D. TIẾN TRÌNH LÊN LỚP

1. Ổn định tổ chức
2. Kiểm tra bài cũ Nghệ thuật đặc sắc và giá trị tư tưởng của đoạn trích
“Con Chó Bấc” ?
3. Bài mới
Văn học nước ngoài là một bộ phận không nhỏ mà chúng ta đã học trong
suốt những năn THCS. Vậy, hôm nay chúng ta sẽ tổng kết lại tất cả những gì đã
học trong 4 năm vừa qua.
HOẠT ĐỘNG CỦA THẦY VÀ TRÒ
NỘI DUNG KIẾN THỨC
Hoạt động hướng dẫn thống kê.
I. Các văn bản nước ngoài đã học từ lớp
? Kể tên các VB VHNN đã học từ lớp 6 đến 6 đến lớp 9
lớp 9 ?
- Tổng số 20 văn bản
- Hs thực hiện kĩ thuật mảnh ghép vào phiếu - Bao gồm nhiều thể loại thơ, kịch, bút kí,
học tập.
truyện ngắn, tiểu thuyết nghị luận XH, nghị
+ Nhóm 1: Lớp 6.
luận văn chương.
+ Nhóm 2: Lớp 7.
+ Nhóm 3: Lớp 8
+ Nhóm 4: Lớp 9.
- Sau khi thảo luận, 4 em của 4 nhóm kết
hợp thành 1 nhóm, trình bày, nhận xét, bổ
sung.
Lập bảng thống kê, các nội dung trên theo mẫu:
T
Tên T/P( Đoạn trích)
T/g (người
Nước

Thế kỉ
Thể loại
Lớp
T
dịch)
(Châu)
1
Lòng yêu nước
I- ê- ren- bua
Nga
20
Nghị luận
6
2
Xa ngắm thác núi Lư
Lý Bạch
TQ
8
Thơ TTTT
7
3
Cảm nghĩ trong đêm
Lý Bạch
TQ
8
Thơ NNTT
7
thanh tĩnh
4
Ngẫu nhiên viết nhân

Hạ Tri Chương TQ
8
Thơ TT
7
buổi về mới về quê
TNBCĐL
5
Bài ca nhà tranh bị gió
Đỗ Phủ
TQ
8
Thơ cổ thể
7
thu phá
6
Cô bé bán diêm
An- đéc- xen
Đ.Mạch 19
Tr.ngắn ( TT) 8
7
Đánh nhau ...xay gió
M.Xéc-van- tét TBN
16,17
Tiểu thuyết
8
8
Chiếc lá cuối cùng
O. Hen-ri
Mỹ
19

Truyện ngắn
8
9
Hai cây phong (tr)
Ai- ma- Tốp
Cư-rơ20
Truyện ngắn
8
gư-xtan
10 Buổi học cuối cùng
Đô- đê
Pháp
19
Truyện ngắn
6
11 Đi bộ ngao du (Tr)
G. Ru-xô
Pháp
18
Nghị luận xã
8
hội
12 Ông Giuốc..mặc lễ phục Mô- li-e
Pháp
17
Hài kịch
8
13 Cố hương
Lỗ Tấn
TQ

20
Truyện ngắn
9
14 Những đứa trẻ (tr)
M. Gor- ki
Nga
20TT tự Tiểu thuyết tự 9
thuật
16


15
16
17
18
19

Mây và sóng
Rô bin xơn...hoang (tr)
Bố của Xi-mông
Con chó Bấc (Tr)
Bàn về đọc sách

R. Ta- go
Đ. Đi- phô
G.Mô-pa-xăng
G. Lan- đơn
Chu Q. Tiềm

20


Chó sói và cừu trong thơ H. Ten
ngụ ngôn La- phông ten

Hoạt động tổng kết nội dung
- Hs thực hiện kĩ thuật khăn phủ bàn: Các
nhóm tìm nội dung, các cá nhân ghi ý kiến
riêng, sau đó ghi ý kiến chung.
- Trình bày, thảo luận.

Ấn Độ
Anh
Pháp
Mỹ
TQ

20
18
19
20
20

Pháp

19

Thơ tự do
Tiểu thuyết
Truyện ngắn
T.Thuyết

Nghị luận xã
hội
NL VH

9
9
9
9
9
9

II. Những giá trị nội dung và nghệ thuật
1. Nội dung
- Các TPVHNN phản ánh những sắc thái
khác nhau về phong tục tập quán của nhiêu
dân tộc trên thế giới. (Bố của Xi-mông, Đi
bộ ngao du...) .
- Thể hiện thiên nhiên và tình yêu thiên
nhiên ( Xa ngắm thác núi Lư, Mây và
sóng...).
- Thương cảm với số phận những người
nghèo khổ và khát vọng giải phóng người
nghèo (Cô bá bán diêm, Bài ca nhà tranh...)
- Giáo dục người đọc hướng tới cái thiện,
cái đẹp, tránh xa cái xấu (Ông Giuốcđanh...)
- Thể hiện tình yêu làng xóm, yêu quê
hương đất nước (Cố hương, Cảm nghĩ
trong đêm thanh tĩnh...)

Hoạt động tổng kết nghệ thuật


Sử dụng kĩ thuật mảnh ghép
? Các tác phẩm VH nước ngoài đã học được
viết dưới những thể loại nào? Đặc sắc của mỗi
thể loại?
- GV cho hs thảo luận nhóm 10 phút vào
phiếu học tập, sau đó đại diện nhóm trao đổi
2. Về nghệ thật
chéo, trình bày, nhận xét bổ sung.
- GV chốt ý.
* Thơ: + Thơ Đường luật chuẩn mực.
+ Thơ tự do giàu hình ảnh và giá trị
biểu cảm.
* Truyện và tiểu thuyết:
+ Nghệ thuật xây dựng cốt truyện và
nhân vật.
+ Nghệ thuật hư cấu, tưởng tượng phong
phú.
+ Kết hợp nhiều phương thức biểu đạt
đưa đến hiệu quả cao.
17


* Văn nghị luận:
+ Lập luận chặt chẽ, thuyết phục.
+ Luận điểm, luận cứ rõ ràng, chính xác.
* Kịch:
+ Xây dựng mâu thuẩn kịch hấp dẫn.
? Phong cách sáng tác của tác giả có những + Ngôn ngữ và hành động kịch phù hợp.
nét độc đáo như thế nào? qua các tác phẩm?

Nêu ví dụ cụ thể?
Hoạt động cảm nhận
III. CẢM NHẬN:
* BT: Những tác phẩm nào? tác giả nào
Sử dụng kỹ thuật học theo dự án
? Những ấn tượng sâu sắc của em khi học các em yêu thích? Vì sao?
tác phẩm VH nước ngoài?
? Những tác phẩm nào: Tác giả nào em yêu
thích? Vì sao?
- GV hướng tới sự yêu thích bởi những giá trị
nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Hoạt động củng cố: Gv nhắc lại một số nội dung chính của các tác phẩm.
Hoạt động hướng dẫn về nhà
Học bài theo yêu cầu ở tiết 1. Đọc, tìm hiểu các TP VHNN đã thống kê.
Tìm hiểu giá trị nghệ thuật, những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của mỗi tác
giả trong mỗi tác phẩm VHNN.
2.5. Hiệu quả của SKKN
Trên đây là các kỹ thuật dạy học tích cực được triển khai trong tài liệu tập
huấn giáo viên: Dạy học, kiểm tra đánh giá theo chuẩn kiến thức, kỹ năng trong
chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn cấp THCS.
Với các hình thức vận dụng kỹ thuật dạy học phù hợp trong từng bài, từng
phần, phần nào đã giúp HS nắm bắt kiến thức nhanh hơn.
Trong quá trình thực hiện, ở kỹ thuật này hay kỹ thuật khác có thể có lúc dễ
thực hiện, không tốn kém, sử dụng được hiệu ứng cộng hưởng, huy đông tối đa
trí tuệ của tập thể, huy động được nhiều ý kiến, tạo diều kiện cho nhiều học sinh
tham gia. Song, có lúc, kỹ thuạt này hay kỹ thuật khác có thể đi lạc đề, mất thời
gian nhiều trong việc chọn các kiến thức thích hợp.
Có thể có một số học sinh tích cực nhưng lại có học sinh thụ động. Như
vậy, không phải giờ học nào cũng thực hiện được tất cả các kĩ thuật dạy học

trên. Vì vậy, tuỳ từng tiết học, từng kiểu bài, giáo viên vận dụng các kĩ thuật dạy
học tích cực cho phù hợp.
3. Kết luận, kiến nghị
Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh là một yêu cầu
tất yếu trong việc dạy học hiện nay. Đó không phải là một mong muốn chủ quan,
một phong trào quần chúng với sự tự nguyện mà là một yêu cầu khách quan cấp
thiết có cơ sở pháp lý, lý luận thực tiễn đối với mọi trường học, mọi giáo viên.
Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề cốt yếu nâng cao chất lượng
dạy học và là một trong những mục tiêu quan trọng cải cách giáo dục ở nước ta
hiện nay.
18


Qua sử dụng các kỹ thuật,hương pháp dạy học tôi nhận thấy học sinh tập
trung hơn vào bài học và tăng sự thích thú trong việc học Ngữ văn của mình và
các giáo viên mình quản lý. Các em hiểu sâu hơn về nội dung kiến thức của bài
học. Việc vận dụng phương pháp này có tác động tới kết quả học tập và quá
trình học tập, kỹ năng của học sinh trong môn Ngữ văn.
Trên đây là một sáng kiến nhỏ của riêng bản thân tôi. Tôi muốn đưa ra để
các bạn động nghiệp cùng xây dựng và góp ý. Tôi rất mong được sự góp ý của
cấp trên và các bạn đồng nghiệp để có thể nâng cao được chất lượng môn Ngữ
văn bằng sử dụng các kỹ thuật dạy học trong môn Ngữ văn theo định hướng
phát triển năng lực học sinh ở bậc THCS.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC PHÒNG GD&ĐT

Quan Hóa, ngày
tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh

nghiệm của mình viết, không sao chép nội
dung của người khác.
Người viết

Trịnh Văn Thành

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
[2] Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Bộ giáo dục và Đào tạo
[3] Chuẩn kiến thức kỹ năng – Bộ giáo dục và Đào tạo.
[4] Đổi mới phương pháp dạy học trung học phổ thông, Dự án PTGD
THPT, Hà Nội, 2006)

20



×